Sau khi đạt được toàn giác, nếu Đức Phật không vận chuyển bánh xe
Chánh Pháp lần đầu tiên tại vườn Nai, nếu bốn chúng đệ tử của ngài suốt
2500 năm qua không tiếp nhận, thực hành và truyền bá giáo lý, sẽ không
có Phật giáo hiện hữu trên đời, và không có Phật Pháp để chúng ta học
tập, hành trì ngày nay.
Không lâu khi Tăng đoàn mới thành lập với
60 thánh giả chứng đắc A-la-hán, Đức Phật đã có lần kêu gọi các vị này
lên đường truyền bá chánh pháp với lời lẽ thật cảm động như sau:
"Này
các Tỳ kheo!... hãy lên đường vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc
của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc
của trời và người. Các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một
hướng, hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá chánh pháp... Hãy phất
lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy
mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất
nhiệm vụ".[1]
Lời dạy tha thiết này trở thành tuyên ngôn, là cương lĩnh, nêu rõ động cơ và mục đích của việc hoằng pháp.
Mục đích hoằng pháp
Không
giống bất kỳ tôn giáo nào khác, người theo Phật truyền bá giáo lý không
phải để được ban thưởng đời này hay đời sau, không phải để vinh danh
Đức Phật hay thần linh nào, cũng không phải để mở rộng tổ chức Phật giáo
với cơ sở và quần chúng đông đảo, hoặc mong mỏi Phật giáo trở thành độc
tôn trong một quốc gia, hay trên toàn thế giới.
Động cơ hoằng pháp của Phật giáo là lòng lân mẫn đối với thế gian.
Mục
đích hoằng pháp của Phật giáo rất đơn giản, nhưng tối quan trọng, và
cảm động, đó là: vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, vì sự tốt đẹp cho
người khác.
Hoằng pháp không phải là để đền ơn Tam Bảo (Phật,
Pháp, Tăng). Hoằng pháp không phải vì đức tối thắng của Phật, không phải
vì lẽ cao siêu của Pháp, cũng không phải vì tính thanh tịnh trang
nghiêm của Tăng đoàn. Hoằng pháp là vì lợi ích, an lạc của chúng sanh.
Chỉ có như thế; và đây là ý nghĩa cao đẹp nhất trong việc truyền bá của
Phật giáo; mà cũng chính qua ý nghĩa này, Phật giáo mới đến với nhân
loại bằng con đường hòa bình, khoan dung.
Sứ mệnh hoằng pháp
Sứ
mệnh hoằng pháp thật quan trọng, và không phải là việc riêng của người
xuất gia. Chính người tại gia, ngay từ thời Phật cho đến nay, dù ở bất
cứ quốc gia nào, thời đại nào, sinh hoạt trong giáo hội hay hệ phái nào,
đã đóng một vai trò vô cùng trọng yếu trong tất cả các sinh hoạt của
Phật giáo, trong đó tất nhiên phải kể đến hoằng pháp.
Theo cơ
cấu hình thành bốn chúng đệ tử Phật, xuất gia có hai chúng (tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni) thì tại gia cũng có hai chúng (ưu-bà-tắc, ưu-bà-di), ngang
bằng như nhau. Từ điểm này, không thể nói việc hoằng pháp là việc của
Tăng Ni, còn cư sĩ tại gia chỉ là những kẻ hộ trì, hỗ trợ.
Đức
Phật là kẻ đã hoàn toàn giải thoát, giác ngộ. Thực hành lời Phật dạy là
nhắm vào mục tiêu giải thoát, giác ngộ như Phật. Trong thời kỳ không có
Phật thì duyên may hãy còn Pháp, là kinh điển, giáo lý do Phật dạy được
ghi chép, truyền lại. Pháp ấy, nếu không có hàng Tăng Ni xuất gia giốc
trọn cuộc đời để hành trì và truyền đạt thì chỉ là học thuyết trên sách
vở, không thể tồn tại như một nền giáo lý thực tiễn sống động, mang lại
lợi ích an lạc cho nhân loại suốt hơn 25 thế kỷ qua. Đây là nền tảng để
từ đó Tam Bảo được hình thành như là biểu tượng nương tựa tâm linh và
cũng là mục tiêu hướng đến của người theo Phật.
Nhưng ai là đối tượng để Tăng Ni truyền đạt Phật Pháp? – Chính là những người cư sĩ, những người tại gia theo Phật.
Những
người cư sĩ đón nhận Phật Pháp ở đâu, khi nào? – Từ nơi tu viện, chùa
chiền, tịnh xá, các đạo tràng và những trụ xứ mà Tăng Ni có mặt; và vào
những thời điểm ở các trụ xứ ấy có Tăng Ni thuyết pháp, giảng dạy giáo
lý.
Nói như thế, có nghĩa rằng những ai có đến chùa gặp Tăng Ni
hoặc nhằm vào thời thuyết giảng của Tăng Ni thì kẻ đó được truyền dạy
Phật Pháp (bằng thân giáo hay khẩu giáo); còn ngoài ra, đều không có cơ
hội đón nhận giáo lý Phật, và không thể nào là đối tượng cho việc hoằng
pháp của Tăng Ni. Phật Pháp nếu chỉ được truyền bá theo cách ấy thì đã
hoại diệt từ lâu rồi, không làm sao tồn tại đến ngày hôm nay.
Vì
vậy, nên hiểu rằng hoằng pháp là trách nhiệm của bốn chúng, trong đó
những vị xuất gia là những bậc liễu tri và chứng nghiệm Phật Pháp,
truyền dạy Phật Pháp cho hàng cư sĩ tại gia, trong khi chính mỗi cư sĩ
là người trực tiếp đem đạo vào đời, cải hóa gia đình và xã hội.
Cư sĩ là ai?
Theo định nghĩa phổ quát của
các hệ phái Phật giáo, cư sĩ là người tại gia theo đạo Phật, đã quy y
Tam Bảo, giữ năm giới và hộ trì Tam Bảo. Chữ cư sĩ được dịch nghĩa từ
chữ gahapati trong tiếng Pali (phiên âm là già-la-việt, hay ca-la-việt);
đồng nghĩa với từ upāsaka (ưu-bà-tắc), upāsikā (ưu-bà-di), dịch nghĩa
phổ thông là cận-sự nam và cận-sự nữ (những người thân cận hộ trì Tam
Bảo). Các từ thông dụng khác trong tiếng Việt là phật-tử (con Phật),
thiện nam, thiện nữ, thí chủ, đàn-việt (danapati), tín chủ, v.v… Chữ cư
sĩ trải qua thời gian, mặc nhiên được xem là từ ngữ phổ thông nhất có
thể nói lên tính chất cốt lõi của người tại gia theo Phật.
Tính
chất ấy được tìm thấy trong kinh Tăng Chi Bộ, phần “Thích tử Mahànàma”. Ở
đây Đức Phật trả lời Mahànàma câu hỏi thế nào là người (nam) cư sĩ, thế
nào là cư sĩ giữ giới, và thế nào là cư sĩ thực hành tự lợi, lợi tha.
“Này Mahànàma, khi nào quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, cho đến như vậy là người nam cư sĩ.”
“Này,
Mahànàma, khi nào người nam cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không
cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men,
rượu nấu, cho đến như vậy, là người nam cư sĩ giữ giới.”
“Này
Mahànàma, khi nào nam cư sĩ tự mình thành tựu lòng tin và khích lệ người
khác thành tựu lòng tin; khi nào tự mình giữ giới và khích lệ người
khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích lệ người khác bố thí; khi
nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích lệ người khác đi
đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp và khích
lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã được
nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự
mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác
suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa,
biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi
biết nghĩa biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy,
này Mahànàma, là nam cư sĩ thực hành vì tự lợi và lợi tha.”[2]
Theo đoạn kinh trên, một cư sĩ lý tưởng là người phật-tử tại gia có đầy đủ tín, giới và thí.
Tín
là lòng tin nơi Phật, Pháp và Tăng. Từ sự hiểu biết, quí kính và tín
phụng Phật, Pháp, Tăng, người cư sĩ phát nguyện quy y Tam Bảo, chọn Đức
Phật làm bậc thầy tối thượng biểu trưng cho giải thoát giác ngộ; chọn sự
học hỏi, thực hành và truyền bá Chánh Pháp làm lý tưởng sống; và chọn
Tăng đoàn làm những bậc thầy cao cả, thay mặt Đức Phật hướng dẫn con
đường tiến đến giải thoát giác ngộ.
Giới của người cư sĩ tại gia
là năm giới, tức năm điều bảo vệ con người tránh xa các việc làm tổn
hại đến mình và chúng sanh khác: từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ
tà hạnh, từ bỏ nói dối và từ bỏ say sưa, nghiện ngập. Giới (sìla) là học
xứ (điều cần học và thực hành), là những điều có khả năng bảo vệ mình
tránh những nghiệp xấu-ác. Giới không phải là điều răn cấm cứng nhắc như
thói quen suy nghĩ của nhiều người. Cư sĩ tự nguyện quy y Tam Bảo thì
cũng tự nguyện giữ giới khi hiểu rõ rằng việc giữ giới sẽ bảo vệ đức
hạnh của mình và tạo đời sống an vui, hòa hợp với những người chung
quanh. Cư sĩ có thể tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của mình mà phát nguyện
giữ thêm các giới khác như thập thiện, bồ-tát (tại gia); nhưng năm giới
là căn bản cần giữ gìn để bắt đầu một đời sống lý tưởng của người theo
Phật.
Thí là việc bố thí, cúng dường. Thí ở đây không giới hạn
trong việc hộ trì Tam Bảo, góp phần in kinh, tô tượng, đúc chuông, xây
chùa, mà còn là thiện ý chia sớt, san sẻ với người khác từ tài vật (tài
thí), kiến thức về đời sống và Phật Pháp (pháp thí), cho đến sự bình an,
không sợ hãi (vô úy thí). Trên căn bản của nhân-quả, bố thí mang lại
phước báo cho người thực hành, do đó, cư sĩ nên thực hiện để tạo thuận
duyên cho việc tu tập của mình và tha nhân. Ngoài phước báo tất phải gặt
hái ở đời này hay đời sau, bố thí còn là phương thức nhằm xả bỏ tâm
tham, buông dần những chấp thủ của mình đối với các ràng buộc của đời
sống, trước mắt là qua những gì mình sở hữu (ngã sở).
Vai trò của cư sĩ trong hoằng pháp
Định
danh chi tiết và có tính cách điển chương như trên là để nhận dạng nhân
cách đặc biệt của cư sĩ. Nói chung, cư sĩ là người tại gia phát nguyện
quy y Tam Bảo, giữ giới, thực hành bố thí, học và thực hành Phật Pháp
trong đời sống hàng ngày để lợi mình, lợi người.
Theo ý nghĩa
của hoằng pháp là duy trì và truyền bá giáo lý vi diệu của Phật, các yếu
tố nêu trên của người cư sĩ, nếu thực hiện đúng mức thì đều là việc
hoằng pháp.
- Quy y Tam Bảo chính là hoằng pháp: Trở về nương
tựa Phật, tin nơi Phật tánh sẵn có của mình và lấy việc thành Phật làm
cứu cánh tu học; trở về nương tựa Pháp, tin tưởng giáo lý của Phật có
khả năng giải thoát khổ đau, đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho
người; trở về nương tựa Tăng, tin tưởng Tăng là đoàn thể xuất gia đạo
hạnh, dấn mình trên con đường của Phật và có kinh nghiệm dẫn dắt mình đi
theo con đường đó một cách vững chắc. Nương tựa và tin tưởng sâu sắc
như vậy, tự thân người cư sĩ kiên trì giữ đạo, học đạo, khích lệ người
thân làm theo. Pháp Phật nhờ vậy mà được tồn tại và truyền rộng.
-
Giữ giới chính là hoằng pháp: Việc giữ giới của cư sĩ, tức tự nguyện từ
bỏ những điều tiêu cực có thể gây nên rối loạn, phiền não trong đời
sống gia đình và xã hội, tạo nên phẩm cách trong sáng của người đức
hạnh, khiến cho kẻ khác tin tưởng, quí trọng và noi gương. Giữ năm giới
không những là tự rèn luyện, trau dồi phẩm hạnh của mình mà còn là bài
học thân giáo, khẩu giáo đối với tha nhân. Ảnh hưởng của Pháp Phật có
thể được nhận xét và đón nhận trực tiếp qua nhân cách của người cư sĩ
giữ gìn năm giới.
- Thực hành bố thí chính là hoằng pháp: Trong
khi giữ giới là tránh xa những điều tổn hại kẻ khác (không làm các việc
ác) thì bố thí là hành động cụ thể nhất để mang lại lợi ích cho tha nhân
(nên làm các việc lành)[3]. Bố thí đứng hàng đầu trong tứ nhiếp pháp[4]
mà Phật dạy cho hàng cư sĩ dấn thân vào đời, cải hóa xã hội; và cũng
đứng hàng đầu trong lục độ[5]. Điều này cho thấy, bố thí không phải là
việc hành thiện bình thường mà chính là pháp môn tu, là phương tiện
thiện xảo của hàng bồ-tát nhằm cứu độ và cảm hóa chúng sanh. Về mặt tự
lợi, bố thí để diệt trừ tâm tham đắm chấp thủ, cởi bỏ dần sự chấp ngã
(như đã nói ở trước); về mặt lợi tha, bố thí để cứu nạn đói khổ, thiếu
thốn của tha nhân về phương diện tinh thần cũng như vật chất.
Vậy,
qua tín, giới và thí nói trên, cư sĩ đã mặc nhiên thực hiện việc hoằng
pháp trong đời sống hàng ngày. Nói theo ngôn ngữ thông tục, vai trò của
cư sĩ là vai trò của người trực tiếp giữ đạo và truyền đạo.
Đạo,
nếu không giữ, sẽ mất; đã mất, lấy đâu mà truyền. Cho nên, cá nhân mỗi
cư sĩ có thể quyết định sự hưng-suy, còn-mất của Phật Pháp ngay trong
gia đình của mình. Tăng Ni truyền dạy Phật Pháp cho cư sĩ nơi giảng tòa
với thời gian giới hạn, nhất định; và để giữ cho Phật Pháp được lưu
chuyển trong nhân gian, chính cư sĩ là những kẻ phải thường trực đối
diện và phấn đấu để vượt qua những lôi kéo, quyến dụ của tài lợi, sắc
đẹp, danh vọng, hoặc ngay cả sự áp bức, đe dọa của cuộc đời, của ngoại
đạo, tà giáo và ác đảng.
Cho nên, có thể nói rằng trong việc đem
đạo vào đời, truyền bá chánh pháp, Tăng Ni gián tiếp, cư sĩ trực tiếp.
Trực tiếp ở đây là trong 24 giờ, ngày và đêm, người cư sĩ sống và tiếp
cận với con người trong gia đình và xã hội, trải nghiệm những khổ đau,
hạnh phúc, phiền não, an lạc, những được-mất, hơn-thua, vinh-nhục… bằng
cả thân và tâm của mình. Đời người cư sĩ, do vậy, là một cuộc dấn thân,
trắc nghiệm sở tri và nội lực tu học của mình ngay trong kiếp nhân sinh
vô thường, thống khổ. Chính cuộc dấn thân ấy là giữ đạo, truyền đạo; là
vai trò hoằng pháp cao đẹp của cư sĩ.
Cư sĩ mọi thời
Theo
tài liệu lịch sử cũng như trong thực tế, hàng cư sĩ đã có những đóng
góp lớn lao và tích cực hơn trong việc hoằng pháp chứ không phải chỉ qua
những gì trình bày ở trước. Một số cư sĩ có thể thuyết giảng hoặc viết
sách biên khảo về giáo lý Phật, hoặc góp phần hoằng pháp qua văn học
nghệ thuật. Trong một số trường hợp, cư sĩ là thầy dạy của các trường
Phật học chuyên khoa dành cho Tăng Ni. Ngoài ra, hình thức cư sĩ của hầu
hết các vị bồ-tát trong kinh điển Đại thừa (Quán Thế Âm, Đại Thế Chí,
Văn Thù, Phổ Hiền, Duy Ma Cật, Thắng Man, Thiện Tài…) cũng cho thấy vai
trò cư sĩ không phải là nhỏ trong công cuộc hoằng pháp, cứu độ chúng
sanh.
Trong quá khứ, không thiếu các cư sĩ nổi danh thời Phật
như vua Ba-tư-nặc (Pasenadi), trưởng giả Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika), tín
nữ Tỳ-xá-khư (Visākhā); sau thời Phật, có cư sĩ vĩ đại A Dục vương
(Ashoka); ở Trung Hoa có cư sĩ quyền uy như Lương Vũ Đế, có cư sĩ là học
giả uyên thâm như Lương Khải Siêu; ở Việt Nam thời Lý-Trần có các cư sĩ
“triều đình” như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung
Thượng Sỹ, thời hậu-Lê có cư sĩ Nguyễn Trãi, thời Trịnh-Nguyễn có cư sĩ
Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Du, thời cận đại và hiện đại có các cư sĩ danh
tiếng là giáo sư, học giả, nhà văn như Lê Đình Thám, Mai Thọ Truyền,
Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn, Trúc Thiên, Nhất Linh, Nghiêm Xuân Hồng, Bùi
Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn…; cũng không thể không nhắc đến
các cư sĩ tây phương cận đại như Edwin Arnold, Christmas Humphreys, E.
Conze, … và các cư sĩ tiếng tăm lẫy lừng trên màn bạc sân khấu hiện nay
tại Hoa Kỳ như Richard Gere, Steven Segal, Tina Turner, Oliver Stone,
Orlando Bloom…
Mỗi người cư sĩ, từ xưa đến nay, khắp các quốc gia
trên thế giới, đã tùy theo hoàn cảnh và căn trí của mình mà đến với
Phật giáo, thực hành giáo lý, góp phần hoằng pháp trong khả năng riêng,
bằng những phương thức khác nhau, qua các ngôn ngữ và văn hóa khác nhau.
Nhưng đâu là điểm đồng nhất của hàng cư sĩ mọi thời đại, mọi quốc độ?
Có
hai điểm tương đồng đáng lưu ý ở đây: một là, cư sĩ theo nhân duyên mà
đến với Phật, trong một tâm thức tự do, tự nguyện, không hề có sự bó
buộc, cưỡng ép; hai là, cũng với tâm thức tự do, cư sĩ phát nguyện quy y
Tam Bảo (với lễ nghi hoặc chỉ bằng tâm niệm).
Do tự nguyện mà nghi thức quy y Tam Bảo cũng là một chọn lựa, không phải là điều kiện hay qui định.
Kinh
điển ghi chép nhiều cư sĩ đã chứng được thánh quả khi chỉ một lần nghe
Phật thuyết pháp, và hầu hết những vị này phát nguyện quy y Tam Bảo sau
khi giác ngộ. Trưởng giả Úc-già (Ugga) trong Trung A Hàm là một điển
hình[6]. Điểm này cho thấy vấn đề chứng thánh, giác ngộ, không tùy thuộc
vào việc quy y Tam Bảo mà hệ trọng nơi căn cơ và trí tuệ của mỗi người
khi tiếp nhận và thực hành giáo pháp. Nhưng cũng chính điểm này xác minh
tầm quan trọng của việc quy y Tam Bảo: giác ngộ, chứng quả rồi, các vị
thánh cư sĩ ngày xưa vẫn phải phát nguyện quy y Tam Bảo.
Hãy tạm
gác qua hình thức của những buổi lễ trao truyền Tam Quy – Ngũ Giới dưới
sự chứng minh của đại diện Tăng bảo. Hãy tạm gác qua những phái điệp Quy
Y ghi tên và pháp danh của những người hiểu hoặc không hiểu Phật Pháp,
hành hoặc không hành Phật Pháp. Các lễ nghi và hình thức này, có người
được truyền thọ, có người không; có khi được truyền thọ mà lại không hề
quy kính Tam Bảo; có khi chưa hề tiếp thọ mà lại một lòng qui hướng
Phật, Pháp, Tăng.
Ý nghĩa chân thực của việc quy y Tam Bảo là,
với lòng hoan hỷ, kính mộ, với sự thông tuệ, tự do, với tâm thuần nhất,
dũng mãnh hướng về mục tiêu tối hậu là giải thoát giác ngộ (Phật), người
cư sĩ khẳng định chính mình như một con người mới, được sinh ra từ giáo
lý thâm diệu (Pháp), quyết định đặt đời sống của mình trên đạo lộ Trí
Tuệ, Từ Bi, dưới sự dìu dắt của những bậc thầy xuất gia cao quý (Tăng).
Trong
tinh thần tự nguyện và ý nghĩa quy y Tam Bảo như thế, cư sĩ mọi thời
đại, mọi nơi chốn, có chung một tiếng nói, một niềm tin, một con đường
cao đẹp; và chỉ những người cư sĩ như thế mới xứng đáng là kẻ “thừa tự
Chánh Pháp”[7] của Thế Tôn.
Vĩnh Hảo
[1] Mahàvagga – Đại Phẩm, Luật tạng, chương Trọng yếu, tụng phẩm thứ
2, đoạn 32. Xem bản dịch của Indacanda Nguyệt Thiên,
http://www.budsas.org/uni/u-luat-daipham/dp-00.htm.
[2] Tăng Chi Bộ tập 2, chương Tám Pháp, phẩm Gia Chủ, phần Mahànàma, HT. Thích Minh Châu dịch (phiên bản điện tử, trang 524).
[3] “Không làm các điều ác, nên làm các điều lành”, Kinh Pháp Cú, câu 183.
[4] Bốn phương thức cảm hóa chúng sanh, gồm có: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
[5] Sáu pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
[6]
Trung A Hàm, phẩm Vị Tằng Hữu Pháp, kinh Úc-già Trưởng giả (I), Tuệ Sỹ
dịch, phiên bản điện tử:
http://www.quangduc.com/kinhdien/Trungaham/trungah04-38.html
[7] Trung Bộ Kinh, Kinh Bất Đoạn - Anupada Sutta, HT. Thích Minh Châu dịch.
http://www.thienviendaidang.net/00/baimoidua.php?readmore=6634