Sinh tại Quận Cam, ở miền Nam California trong một gia đình khá giả,
lên tám tuổi, cậu bé họ Phạm đã muốn trở thành một Geshe Tây Tạng.
Mà Geshe là gì?
Geshe
là học vị trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, tương đương với bằng Tiến
sĩ về Phật học của Tây phương. Bình thường ra thì phải mất hai chục năm
mới xong và nhiều người không xong nổi. Thế giới hiện chỉ có chừng 200
vị Geshe thôi.
Muốn được thành một Geshe thì phải thấm nhuần năm ngành học là Bát
nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật
(Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản (Pramana
Vidya). Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục
năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống
về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên và từ đó đi hoằng
pháp cho nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp
là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa và trung bình thì
phải sáu năm mới lên tới cấp tối ưu.
Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, Kyabje Lati Rinpoche, được Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu hướng dẫn chú bé gốc Việt họ Phạm
Vị cao tăng Tây Tạng đã hướng dẫn chú bé họ Phạm là một Lharampa Geshe, một hóa thân của danh tăng Gongkar Rinpoche.
Ngài được tôn là châu báu trong hàng Thánh tăng Tây Tạng ngày nay,
pháp danh là Kyabje Lati Rinpoche, hiện là cố vấn về Lý luận
(Tsen-shabs) của đức Đạt Lai Lạt Ma. Môn sinh của Tulku Lati Rinpoche
thường chỉ là những nhà sư được xác nhận là báo thân của một cao tăng,
một vị đạo sư, một guru từ kiếp trước nguyện tái sinh để tiếp tục hạnh
nguyện.
Và đức Đạt Lai Lạt Ma là người trực tiếp yêu cầu Tulku Lati Rinpoche dìu dắt chú bé.
Vì
sao một chú bé sinh trong một gia đình Việt Nam tại Hoa Kỳ lại được
nhận vào tu viện Tây Tạng, rồi được chính đức Đạt Lai Lạt Ma trao phó
cho một vị cao tăng hàng đầu của Ngài việc hướng dẫn tu học đó?
Có lẽ phải đi từng bước để nhìn ra con đường học đạo của vị tăng người Việt này.
Với
người Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đại từ Đại bi Bồ tát
Quán Thế Âm. Việt Nam ta quen gọi vị Bồ tát ấy là Phật Quan Âm, vì vậy,
nhiều người cũng gọi Ngài là Phật Sống Tây Tạng. Người Tây Tạng tôn
Ngài là "Kundun" với ý nghĩa ấy.
Trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, một Lạt Ma được coi là hiện thân
của Phật, và Bồ tát nguyện tái sinh để cứu độ chúng sinh. Bậc hóa thân
ấy được tôn là Tulku ("Chu cô" theo cách phiên âm Hán-Việt). Danh hiệu
Lạt Ma chỉ được dành cho những người giảng dạy giáo pháp và có thẩm
quyền thực hành nghi lễ của Phật giáo. Trong số những người được chứng
nhận là Lạt Ma, những vị uyên thâm và cao quý nhất thì được tôn là
Rinpoche (nghĩa là "vô cùng quý báu"). Trong hàng giáo phẩm và triều
đình Tây Tạng, người ta thấy nhiều cao tăng được tôn vinh là Rinpoche.
Bây giờ, chúng ta có đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - một vị Phật Sống -
ủy thác cho một Tulku Rinpoche việc dẫn đạo cho một nhà sư trẻ của Việt
Nam...
Nhà sư này phải có gì đặc biệt mà có lẽ người thường như chúng ta chưa thấy hết được.
Cách đây bốn năm, nhật báo Orange County Register đã gửi một phái
đoàn gồm hai nhà báo Anh Đỗ và Teri Sforza cùng đoàn nhiếp ảnh và truyền
hình qua tận Ấn Độ để làm loạt phóng sự bốn kỳ về chú tiểu họ Phạm này.
Người ta có thể tham khảo loạt bài được biên tập và trình bày công phu
dưới tựa đề "The Boy Monk" tại trang nhà của tờ báo trong bốn số ra ngày
19 đến 22 tháng Giêng 2003.
Từ ngày đó đến nay, việc tu học của nhà sư này đã có sự tăng tiến.
Một
người Mỹ xuất gia sang Ấn Độ tu Phật giáo đã là hiếm, nhưng vẫn có. Một
người sinh tại Mỹ - thuộc thế hệ thứ nhì vì cha mẹ là người Việt tỵ nạn
- thì lại hiếm hơn. Đây lại là người Mỹ đầu tiên được nhận vào tu viện
Tây Tạng Gaden Shartse, trong tỉnh Mundgod của tiểu bang Karnataka ở
miền Nam Ấn Độ để được tu học thành Sa di. Tên Mỹ-Việt Donald Phạm đổi
thành Konchog Osel. Người thân thì gọi là Kusho. Konchog có nghĩa là
hiếm quý, Osel là tịnh quang, ánh sáng trong lành, và Kusho là một cao
tăng.
Thế rồi, sau khi khảo hạch thì chính Tulku Lati Rinpoche đã thỉnh
đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ thọ giới Cụ túc cho chú tiểu sa môn. Có mặt
trong buổi lễ cử hành vào đúng ngày Phật Đản còn có bốn vị Rinpoche
khác. Chú được ban pháp danh là Tenzin Drodon, nghĩa là "Người nắm giữ
Phật pháp" (Tenzin) "cứu độ chúng sinh" (Drodon). Drodon là một pháp
danh ít có trong hệ thống Tăng già Tây Tạng.
Ngày nay, Phật giáo Tây Tạng có một nhà sư dung mạo sáng rỡ, nói
sành sõi tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Tạng với phương ngữ quý phái
của Kinh đô Lhasa, ở bên kia đỉnh núi tuyết ngàn trùng. Vào mùa Xuân
Đinh Hợi 2007, ở tuổi 21, Kusho sẽ thọ giới Tỳ kheo với đức Đạt Lai Lạt
Ma, một điều kỳ lạ nữa. Trong lịch sử Tây Tạng, đây là người Việt đầu
tiên được chính đức Đạt Lai Lạt Ma truyền thừa và truyền giới.
Có thể là sau này người ta mới được biết thêm rằng nhà sư trẻ cũng
là hóa thân của một hành giả, nguyện tái sinh trong một gia đình Việt
Nam tại Mỹ và tu học trong tu viện Tây Tạng tại Ấn vì lợi ích của chúng
sinh. Ba vị cao tăng đã lần lượt hướng dẫn nhà sư là Lharampa Geshe
Tsultim Gyeltsen tại tu viện ở Long Beach, là Lharampa Geshe Lati
Rinpoche, một vụ Tulku tại tu viện Gaden Shartse ở Ấn Độ và đức Đạt Lai
Lạt Ma đời thứ 14.
Bây giờ, chúng ta mới tìm hiểu về nhân vật này.
Vừa ra đời,
Donald Phạm đã chững chạc như người lớn. Chú bé là học sinh ưu tú, thích
âm nhạc, viết văn, trượt nước và chơi Nitendo! Là học trò giỏi tại
trường Aliso Viejo Middle School, chú bé đủ thứ game trong nhà và thừa
điều kiện thành công trong một môi trường đầy cơ hội là Hoa Kỳ. Ước
nguyện ban đầu của chú là thành nhà văn hay bác sĩ. Nhưng, khác mọi đứa
trẻ cùng tuổi, chú ít nói, kín đáo nhìn mọi sự chung quanh và đặc biệt
quan tâm đến người khác.
Cha mẹ chú là những người khá giả và chăm sóc kỹ lưỡng tâm hồn các
con. Mẹ chú sùng đạo từ khi còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ thì cả gia đình
thường đến ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, do đức Đạt Lai Lạt Ma đặt
tên là Thubten Dhargye Ling, để tu học Phật pháp. Đây là một việc không
dễ vì từ nhà đến chùa là 90 cây số và một tuần, gia đình lên chùa ba
lần.
Donald vào chùa là có phản ứng khác lạ. Tưởng đứa con lơ đãng nhìn
quanh, bà mẹ ngạc nhiên vì chú nghe được hết và nói lại rành mạch những
khái niệm rất lạ. Thí dụ như hiện tượng "tâm viên ý mã" trong lúc thiền
định! Người lớn nghe đã thấy khó lãnh hội, huống hồ một đứa trẻ ở tuổi
mẫu giáo!
Năm chú lên bốn, bà mẹ đọc báo thấy có tin là vị Đạo sư Lati
Rinpoche sẽ đến thuyết pháp ở Los Angeles. Quá mừng khi được cơ hội gặp
vị cao tăng mà mình đã đọc lời giảng trong sách từ khi còn mang thai chú
bé, bà dẫn chú đi nghe và năm đó Donald đã quy y với Tulku Lati
Rinpoche!
Khi chú lên năm, cô em kém chú hơn một tuổi bỗng khóc òa vì làm vỡ
cái đĩa. Chú bé đứng cao hơn quầy bếp đã lên giọng trấn an: "Đừng lo, đó
chỉ là đồ vật thôi. Nếu chấp vào vật nhỏ như vậy thì khi chết, làm sao
cái tâm bỏ được cái thân này?"
Rồi sau đó, thay vì là nhà văn hay bác sĩ, năm lên tám, chú muốn thành một Geshe!
Thấy
con mình có ý đi tu để thành Geshe, bà mẹ trình bày với vị Hoà thượng
trụ trì tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Long Beach là Lharampa Geshe
Tsultim Gyeltsen, thường được Phật tử quý mến gọi là Geshe La.
Hoà thượng Geshe La khuyên là hãy kiên nhẫn tìm hiểu tâm tư chú bé
đã. Cho con vào chùa là chuyện thường tình ở Á châu và Tây Tạng, nhưng
chúng ta đang ở tại Hoa Kỳ, trong một khu vực trù phú lịch sự. Con đường
tới chùa là một chặng đường khá xa cần phải tìm hiểu. Mà cách tìm hiểu
hay nhất là chính họ phải qua tận Ấn Độ thăm viếng một ngôi chùa Tây
Tạng đủ lâu để thấy hết tận mắt. Thày dạy, tu viện là một đại dương, có
rất nhiều ngọc nga châu báu vật đấy nhưng cũng có cá mập.
Hãy tìm hiểu rồi mới quyết định cho chú bé.
Khi Donald Phạm
lên chín, năm 1995, cha mẹ chú quyết định sang thăm tu viện, cách đó
đúng là vạn dậm. Bước đầu là từ California bay qua Ấn Độ, rồi đi xe buýt
leo đèo băng suối tới một tu viện trong khu định cư của người Tây Tạng
tại Mundgod, thuộc tiểu bang Karnatala ở miền Nam Ấn Độ. Đó là tu viện
Gaden Sharte của dòng Gelugpa Phật giáo Tây Tạng.
Khu vực định cư cho dân tỵ nạn thường không là một vùng đất trù phú
thịnh vượng. Sự nghèo khổ và thiếu thốn là quy luật chung. Huống hồ là
nơi tu hành. Người viện trưởng của Tu viện chính là ngài Tulku Lati
Rinpoche mà gia đình họ Phạm đã đọc rồi đã gặp tại Los Angeles.
Phép sinh hoạt nơi đây là sự khắc khổ nghiêm ngặt. Mọi người thức
giấc từ năm giờ sáng, chư tăng áo đỏ tụng kinh đến bảy giờ rồi ăn sáng.
Thực đơn khác hẳn bữa điểm tâm trong một ngôi nhà khang trang ở Laguna
Niguel tại California. Bánh mì chấm trà có pha đường, bơ tẩm muối. Sau
đó là học ngôn ngữ và tranh luận đến trưa. Quá ngọ là buổi học với các
đạo sư cho đến chiều. Cơm tối là cháo. Xong cơm là học tiếp về Phật pháp
qua tranh luận, có khi đến nửa đêm...
Giáo trình đào tạo còn nặng hơn mọi trường tư thục ưu tú nhất của
Mỹ! Và không có các màn giải trí qua truyền hình, chơi game, nghe nhạc
từ DVD... Cũng không có quà vặt, máy giặt máy xấy, nước nóng phòng
riêng...
Làm sao cho con mình vào sống nơi đó?
Gia đình ở lại sáu tuần và chú Donald Phạm cho biết là muốn học đạo ở nơi đây.
Trường
hợp của chú hiển nhiên đã được Geshe La và Tulku Rinpoche chú ý. Phải
tìm lời giải trong phép khảo chứng bí truyền của Tây Tạng. Vị cao tăng
thực hiện buổi lễ linh thiêng ấy chính là Tuku Rinpoche. Lời giải là chú
bé này là một đứa trẻ đặc biệt, sẽ vào chùa thành một vị sư Tây Tạng.
Donald Phạm cũng cảm thấy như vậy.
Việc cháu Donald muốn đi tu đã gây nhiều phản ứng và tranh luận
trong đại gia đình. Đầu tiên thì chị và em không muốn xa Donald. Còn ông
ngoại thì hoàn toàn không vui! Điều ấy cũng thật dễ hiểu. Nhưng ý của
chú đã quyết và cha mẹ cũng thông cảm và hỗ trợ nên mọi người quen dần
với quyết định này.
Gần bốn năm trôi qua, rồi vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, cả gia đình
Donald Phạm đã theo Hoà thượng Geshe La qua Ấn Độ. Chú sẽ ở lại nơi đây.
Tết Nguyên đán Kỷ Mão thì xuống tóc, trở thành Sa di Kusho Konchog
Osel. Tu viện có 1.500 người cùng học nhưng chú được chính đức Đạt Lai
Lạt Ma ân cần phó thác cho vị Viện trưởng Tulku Lati Rinpoche trực tiếp
hướng dẫn. Mọi người ân cần gọi chú là Kusho-la.
Hai năm sau, Kusho được đưa lên Dharamsala, miền cực Bắc Ấn Độ, vào
học viện Lý luận Phật giáo, Institute of Buddhist Dialectics. Có 300
sinh viên, học viện này nằm gần thị trấn McLeod Ganj của Ấn. Thị trấn
được gọi là "Little Lhasa", trụ sở của Chính quyền Lưu vong Tây Tạng, và
học viện IBD là nơi đức Đạt Lai Lạt Ma thường giảng pháp.
Trong học viện, tiểu Sa di Kusho là người trẻ nhất và được chú ý vì
khả năng lãnh hội lẫn tranh luận. Chú còn được khen là từ tốn khiêm
nhường và thường trầm lặng trước mối quan tâm của truyền thông báo chí.
Nhiều người đã luận rằng Kusho có thiện nghiệp để trở thành sư, và có
phúc duyên được hướng dẫn bởi những vị cao tăng để theo đuổi Phật học
đến chỗ thâm sâu.
Ngày nay, Kusho đã thành một vị sư 21 tuổi, và Xuân này sẽ thọ giới
Tỳ kheo với chính đức Đạt Lai Lạt Ma, thành Shakya Bikshu Tenzin Drodon.
Trong khi ấy, gia đình ở nhà cũng thay đổi.
Càng luống
tuổi, ông ngoại của Kusho càng thấy ra hai lẽ. Phần mình, thì đời người
quả là hữu hạn. Phần cháu ngoại Donald, thì việc cháu trở thành sư là
một điều lành.
Đầu năm 2007, ông cụ lâm trọng bệnh và từ Ấn Độ, Kusho trở về thăm
ông, có thể là lần cuối. Hai ông cháu gặp nhau trong một cảnh ngộ cảm
động.
Được hỏi về chuyến thăm viếng, nhà sư trẻ giải thích là vì
muốn cầu nguyện cho tâm của ông ngoại được thảnh thơi, vững mạnh, và
buông xả hết mọi ưu phiền.
Kusho không tin là mình có "thần lực" hay khả năng hộ niệm để ông
"siêu sinh tịnh độ" như ta thường nói. Cháu chỉ muốn gặp ông, hàn huyên
để ông vui với tuổi già, có cái nhìn lạc quan tích cực về mọi chuyện.
Riêng mình, thì đứa cháu rất cảm động nghe ông nói, rằng mình mừng cho
cháu đã đi tìm hạnh phúc trong sự tu tập, vì hạnh phúc thật là khi mưu
cầu cho hạnh phúc của người khác. Hai ông cháu đã hoàn toàn cảm thông và
cùng nhìn vào một hướng.
Nói đến chuyện "thần lực" hay "hóa thân", đề tài kỳ diệu khi ta nghĩ
đến Phật giáo Tây Tạng, Kusho cười hiền hoà và giải thích bằng cả tiếng
Việt lẫn tiếng Anh: Không, chú không là hoá thân hay đang tu tập để có
thần lực thi hành được những việc siêu nhiên. Việc tu tập để tìm thần
lực hay khả năng siêu nhiên là điều sai.
Nhưng, khi tu tập, Kusho thấy hay nghĩ "mình là ai?" Là một chú bé
Việt Nam, một thiếu niên Mỹ hay một Sa di Tây Tạng - Là tất cả!
Ban
đầu, khi ở trong Tu viện Gaden thì còn mơ hồ vì có lúc thấy mình là một
thiếu niên Mỹ, một đứa trẻ Việt Nam, và nhất là khác lạ với chúng bạn
người Tây Tạng chung quanh. Thế rồi một cách tiệm tiến và nhẹ nhàng tự
nhiên, chú thấy mình tách rời với tất cả những "hành trang" ấy của quá
khứ mà cảm nhận ra một sự thể gì bao nhiếp tất cả. Một sự an nhiên kỳ lạ
khiến mình thấy thư thái và tự do hơn.
Cảm giác gọi là "giải thoát" ấy xuất phát từ sự tu tập hay từ ý chí
của mình? - Có lẽ, phép tu tập giúp cho ý chí ấy thành vững mạnh hơn và
quan trọng nhất, giúp cho mình thấy được cách suy nghĩ tích cực và nuôi
dưỡng nghị lực tích cực.
Kusho suy nghĩ rồi nói bằng tiếng Anh: "Positive Energy"
Nhưng,
trong tu viện Gaden hay trong học viện ở Dharamsala, Sa môn Kusho có
biết hay được biết gì về thế giới bên ngoài không, về "đời sống thật"
không?
Ban đầu, trong tu viện thì chỉ học về kinh điển và phép luận giải,
chứ qua học viện tại Dharamsala thì các học viên đều có thể xem truyền
hình và đọc báo để biết về những gì đang xảy ra trên thế giới. Chính đức
Đạt Lai Lạt Ma đã muốn các học viên chứng đắc Phật pháp bằng cách hiểu
được cộng đồng và thế giới. Ngoài ra, giáo trình của học viện chẳng khác
gì nhiều nếu so với một Đại học tân tiến, học viên được giáo dục để
biết về thế giới cũng như Phật pháp.
Sau khi hoàn tất khóa học rất dài tại Dharamsala, Kusho sẽ trở lại
tu viện Gaden và lúc ấy mới lại sống như một vị tăng trong chùa.
Nhưng,
khi biết rằng thế giới này "khổ" - vì nạn đói ở Phi châu hay khủng bố
tại Trung Đông chẳng hạn - học viên nghĩ sao? Và muốn làm gì để giải trừ
cái khổ ấy?
Nhà sư trẻ suy nghĩ giây lát mới giải thích. Trước hết, những tin
tức ấy có giá trị "khích lệ", là yếu tố càng thúc đẩy học viên phải tu
tập để góp phần giải trừ cái khổ.
Nhưng, nhìn từ các tu viện,
cái khổ ấy có là một ý niệm trừu tượng xa vời của "chúng sinh" hay của
người khác không? Thí dụ như một bác sĩ vẫn có thể chữa chạy cho bệnh
nhân sau khi học về những triệu chứng hay hậu quả của bệnh. Một nhà xã
hội cũng có thể học về khủng hoảng để góp phần giải quyết dù mình chẳng
là nạn nhân... Liệu cảm nhận về cái khổ này có là một khái niệm tách
bạch xa vời vì không trực tiếp liên hệ đến mình ở trong chùa hay trong
học viện?
Kusho tìm chữ diễn tả, cả Việt lẫn Anh, rằng sự hiểu biết về cái khổ
ấy tác động rất mạnh vào tâm trí, nhưng theo hướng khác. Ý thức về
những vấn đề ấy khiến mình càng thêm tin tưởng vào Phật pháp và càng
thôi thúc mình làm một cái gì đó để cứu giúp người khác. Đây cũng là
bước cần thiết để chứng nghiệm đức tin của mình.
Nếu tu học để thành sư mà không nghĩ đến việc giúp đỡ người khác thì
là một sự lãng phí! Phật giáo Tây Tạng rất chú ý đến việc tu dưỡng Bồ
đề tâm, đến Bồ tát hạnh và coi việc giúp đỡ người khác là một bổn phận
trọng yếu, một phần không thể tách rời trong đức từ bi của người Phật
tử.
Nói đến người khác, Kusho có nghĩ đến người Việt và Phật giáo Việt Nam không?
Vị
Sa môn trẻ này cám ơn mẹ cha là những Phật tử đã khuyến khích và giúp
đỡ mình trên con đường học đạo. Chính là tấm lòng yêu thương của bà mẹ
đã khiến chú cố gắng tu tập để có thể làm tròn bổn phận với Việt Nam.
Vì vậy, sau giai đoạn tu chứng, nhà sư trẻ còn phải đi một bước rất xa là học hỏi thêm về Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Phật
giáo Tây Tạng theo Kim cang thừa (Varayana) của Đại thừa Mahayana,
nhưng cũng áp dụng phép tu có đặc tính Mật tông và cả Bồ tát hạnh trong
những giáo lý nền tảng của Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Vì vậy,
trong giáo trình đào tạo và tu học, các học viên đều phải thấm nhuần
những lý giải Tiểu thừa hay Nguyên thủy. Sau này, Kusho sẽ học thêm về
những đặc tính đa diện của Phật giáo Việt Nam và phải thông thạo tiếng
Việt để tiếp xúc với Phật tử người Việt.
Một con đường rất dài... Khi viết, Kusho sử dụng cả hai tay, trái và
phải, để viết chữ Tây Tạng hay tiếng Anh. Khi học, có lẽ cũng phải nhớ
đến tương lai là tìm đến Phật giáo Việt Nam. Vả lại, chính đức Đạt Lai
Lạt Ma đã căn giặn như vậy.
Hôm đó, sau khi được Ngài truyền giới, vị tiểu sa môn được đức Đạt
Lai Lạt Ma gọi riêng ra chụp chung tấm hình. "Con giữ tấm hình này cho
quê hương con. Cho nước Việt Nam". Kusho treo tấm hình trong trai phòng
tại học viện, như một nhắc nhở hàng ngày.
Việc nhà sư Tenzin Drodon này sẽ chứng đắc học vị Geshe có thể chỉ
là thời gian vì tâm nguyện như vậy. Nhưng, việc một người có tâm hồn và
giáo dục Việt Nam được tu học thành nhà sư Tây Tạng mới là một hạnh ngộ
hiếm hoi.
Lời khuyên của Tulku Lati Rinpoche là Kusho hãy cố gắng tinh tấn tu
học để trở thành một sa môn đầy đủ Bồ tát hạnh là Bi, Trí, Dũng để hoằng
pháp lợi sanh cho nhân thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ hơn trong từng
buổi gặp gỡ: "Đừng quên Việt Nam. Lòng từ bi và trí tuệ của con sẽ giúp
ích rất nhiều cho quê hương con."
Pháp danh Drodon quý hiếm này, có lẽ Ngài chọn cho Kusho để hướng tới trách nhiệm với Việt Nam.
Sông
Mekong xuất phát từ vùng đất Kham đã tái sinh của hai vị cao tăng Tây
Tạng là Gehse La và Tulku Rinpoche. Nơi con sông này đổ ra biển chính là
Việt Nam.
Phải chăng, đức Đạt Lai Lạt Ma đã thấy vạn sự từ đầu nguồn tiền kiếp, mà chưa đến lúc nói ra?
Copyright © 2009 Cộng Đồng Phật Giáo New England| All Rights Reserved
Webmaster & Designer: Thích Nguyên Dũng