04/05/2013 19:56 (GMT+7)
Số lượt xem: 95361
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Ngày xưa , cái học “ thiên kinh vạn quyển” , chắc là cái học ở chốn kinh thành , ở nơi có các trường thi dành cho các sĩ tử “cướp cờ , cướp biển” , như ở quê tôi có trường thi hương Bình Định . Chứ ở các vùng nông thôn thì cái học trướng lớp hiếm hoi lắm , số người đi học ít mà sách cũng ít .Sách Tam thiên tự ( tác giả Đoàn Trung Còn ) dạy vở lòng chữ Nho . Trẻ con nông thôn được





  học từ ông thầy đồ trong làng sách Tam thiên tự với những câu : “ Thiên- trời , địa-đất , cử-cất , tồn-còn , tử-con , tôn-cháu ” Ai học hết sách thì có vốn 3.000 từ làm “hành trang” buổi đầu đi học . Nhiếu trẻ con học chưa hết sách đã phải nghỉ học , vì nhà nghèo , cần ở nhà giúp đở cha mẹ . Những trẻ này tới khi lớn lên thành anh trai làng , bác nông dân , mà không bị xấu hổ , vì : Không biết được chữ nhất là một .

Tam tự kinh ( sách 3 chữ được Vương Ứng Lân , Trung Quốc biên soạn ) tập hợp những tinh hoa của Nho giáo . Ở trong các làng quê xưa , nhiều bác nông dân vừa mới rức nhân tay cho sạch bùn đất để đi ăn giỗ , nhưng đã ngồi vào cỗ là “nói chữ” , “xổ Nho” , : “ từ nhân chi sơ tánh bản thiện, Tính tương cận Tập tương viễn” ( nhớ thuở đầu m tính vốn lành , Tánh nhau gần , thói nhau xa )…Đến “ Dưỡng bất giáo Phụ chi quá Giáo bất nghiêm Sư chi đọa” : ( sinh không dạy , lỗi ở cha . Dạy không nghiêm lỗi tại thầy ). Cảnh ngồi cỗ giỗ mà đối đáp , rượu vào lời ra thế cũng vui , thường khi làm được việc giáo hóa điều gì đó . Từ “xổ Nho” ( cũng nói xổ Nho chùm) cũng có ý thầm phục : các vị có học đàng hoàng , có Hán rộng !

Sách Minh tâm bảo giám ( không rõ tác giả , do Trương Vĩnh Ký dịch ) được nông dân thích học , cứ bảo đó là “ gương báu soi lòng” . Nhiều câu trong sách Minh tâm nghe nói hoài giống như ăn cơm bữa , và sớm sớm nhập tâm trở thành nếp sống , nếp ngĩ của mọi người : “ Tích thiện phùng thiện , tích ác phùng ác , thiện hữu thiện báo , ác hữu ác báo “ ( chứa lành thì gặp lành , chứa ác thì gặp ác . Thiện có lành báo , ác có dữ báo ). Rồi những câu khuyên dạy : “ Phàm nhơn bá nghệ hảo tùy thân / đổ bác môn trung mạc khứ thân / năng sử anh hùng vi hạ tiện / giải giao phú quý tác cơ bần” … ( hể biết nghề nào cũng ấm thân ,. Mấy nơi cờ bạc chẳng nên gần . Anh húng mắc phải ra hèn hạ . Phú quý lâm rồi lại khó khăn ) …Rất phổ cập , đến thành bài học , thành câu hát “mùi mẫn” trong các làng quê .

Trở lên là những sách “ giáo khoa”  mà người nông dân ít nhiều thời trẻ thơ được học với ông thầy đồ hoặc với cha , anh ở nhà .

Tứ thư , Ngũ kinh là những sách dành cho nho sĩ . Những nho sinh , sĩ tử có mộng khoa danh thì cố “ôn nhuần kinh sử” . Cón đa số nông dân , nhờ cuộc sống làng quê có sự chung đụng giữa nho sĩ và nông dân mà kiến thức được chia sẽ cho nhau . Nông dân vẫn “nói chữ” : “ Quân quân , thần  thần , phụ phụ , tử tử ” ( Vua- tôi , cha-con , ai có bổn phận nấy – Luận ngữ ) mỗi khi muốn nhắc nhở cái bổn phận phải lo cho tròn , cái quan hệ , kỷ cương phải giữ . Ngoại tôi là nông dân ông đã chọn một câu hay trong Kinh thi : “Quan Quan Thư Cưu Tại Hà Chi Châu Yểu Điệu Thục Nữ Quân Tử Hảo Cầu ”( Chim thư kêu quan quan…Trên cổng sông Hoàng Hà . Gặp người gái đẹp . Quân tử phải lòng ) mà đặt tên cho các người con của ngoại . Ngoại có 16 người con trai gái , má tôi xinh đẹp, trúng tên Châu “ Nguyễn thị Minh Châu , cũng đẹp .

Sau này hết thời chữ Hán lâu đến ngàn năm , bước sang thời chữ Quốc ngữ mới ra đời .

Đại Nam quốc sử diễn ca ( của Phạm Đình Toái ) được dạy ở trường tiểu học . Vẫn thường vang vọng trong xóm thôn tiếng ôn tập bài học của các học trò trường huyện . Khi thì “ Hùng Vương đô ở Châu Phong  / Ấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao Giang / Đặt tên là nước Văn Lang /Chia mười lăm bộ bản chương cũng liền”… Khi thì : “ Bà Trưng quê ở Châu Phong  / Giận người tham bạo thù chồng chắng quên / Chị em nặng một lời nguyền ”…

Đến sách Quốc văn giáo khoa thư ( QVGKT – nhóm ông Trần Trọng Kim biên soạn ) , được những nông dân ấu thơ đọc với cả lòng hứng thú . Bài nào cũng học mau thuộc , mau nhớ . Bài Rắn đầu biếng học ( của Lê Quý Đôn ) : “ Chẳng phải liu điu vẫn giống nà ! / Rắn đầu biếng học quyết không tha /  Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ / Nay thét mai gầm rát cổ cha ”.. là một trong những bài trong sách được học một lần là nhớ cả đời . Người ta nói : có” tình nghĩa giáo khoa thư” để chỉ cho tình bạn , tình huynh đệ của những người học chung cuốn sách đó . Chẳng bao lâu , những chú bé học trò ngày trước học QVGKT trở thành các bác nông dân thuộc sử nước nhà , biết cảm thụ , biết thế nào là một bài văn hay .

Từ nhỏ tới lớn ta vẫn nghe ông cha cứ dặn bảo :”Học làm người” , bài học cần học cả đời . Và ai cũng biết cái phẩm chất bao trùm của người là hiếu thảo , cho nên những nhà chứa sách ( tích thư ) đều có cuốn “ Nhị thập tứ hiếu” ( tác giả Lý Văn Phức ) . Bác nông dân nhân khi nhàn rỗi vẫn ngồi đó ‘giảng sách’ Nhị thập tứ hiếu cho con cháu nghe mà cũng là dịp cho mình ôn lại : “ Người tai mắt đứng trong trới đất / Ai là không cha mẹ sinh thành / Gương treo đất nghĩa trời kinh /Ở sao cho xứng chút tình làm con ”…Vẫn kể rành rẽ 24 gương hiếu thảo cảm động trời đất , được ghi trong sách cũng như được truyền khẩu trong dân gian . Trong xóm thôn , những nhân vật Tử Lộ , Mẫn Tử Khiên ..hình như ai cũng biết .

Bên cạnh cuốn Nhị thập tứ hiếu , trên giá sách của các gia đình , còn có quyển Gia huấn ca . Từ khi quan đại thần Nguyễn Trãi viết Gia huấn ca , trong cả nước ( Đại Việt hồi đó , nước Việt sau này )., thì nhà nhà đọc , nhà nhà dạy Gia huấn ca , Người ta đứng hát , ngồi không với nhau hát “ Đặt quyển sách văt tay nằm nghỉ / Hễ làm người dạy kỹ thì nên” . Người nông dân vẫn bảo dạy : “ Dạy con từ thuở còn thơ” …Thật đã có cảm hứng từ bài học Gia huấn ca . Thực là ông cha ta đã đề cao vai trò quan trọng bậc nhất của giáo dục .

Tuy không thiên kinh vạn quyển như đã nói , nhưng bằng mấy cuốn sách đó , kết hợp với kinh nghiệm bản thân , người nông dân đã nâng cao kiền thức học được bao nhiêu điều lợi ích . Không ai nghi ngờ chuyện nông dân thuộc sử Việt , trong tâm thức nông dân có niềm tự hào lịch sử nước nhà có Bà Trưng , Bà Triệu , Ngô Quyền , Lê Lợi , Quang Trung …Nông dân không cục mịch như người ta tưởng , mà trái lại họ có một tâm hồn đa cảm , luôn tìm đến với văn chương – nghệ thuật . Người ta vẫn ham thích đọc tiểu thuyết chương hồi ( Trung Quốc ) , vẫn biến ngẫu truyện cười dân gian …bằng cách ai biết chữ thì đọc , ai không biết chữ thì nhờ con cháu đọc cho nghe . Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn viết về phong tục , chuyện tình đôi lứa không thành , thơ Tiền chiến viết về đồng quê của Nguyễn Bính , Anh Thơ , Đoàn Văn Cừ …vẫn đem lại sự yêu thích cho các nông dân biết đọc biết viết . Nông dân ta chẳng những đọc sách , “ giảng sách” , “nghe sách” mà còn là người sáng tác nữa . Ca dao , dân ca , hó vè …là sáng tác đầy hứng thú từ những tâm hồn yêu thương trong trẻo của nông dân .

Bây giờ xin hỏi , nhờ đâu mà những cuốn sách xưa phổ cập với những người nông dân sống trong các làng quê hẻo lánh như vậy ? Chắc là trong các nguyên nhân được nêu ra , có nguyên nhân tôi cho không thể thiếu : đó là sách hay , sách đem lại cho người ta cái thú đọc sách .

Ngày nay , có ai về nông thôn ( giữa thời buổi nhiều sách báo , có tủ sách xã thôn ) mà tìm một nông dân thuộc năm ba câu Kiều , vài đoạn Lục Vân Tiên , biết truyện Nỏ thần An Dương Vương , Thánh Gióng …để cùng nhau hào hứng “ trà dư tửu hậu” thì thật khó quá . Cái “thú đọc sách” ( trước đèn xem truyện Tây Minh –Lục Vân Tiên ) , cái “từ” nghe sách “giảng sách”, rất quen hồi xưa , nay cũng không còn nghe thấy , trông thấy nữa.

http://vanhoaphatgiaoblog.com/xahoi/sach-va-nguoi-nong-dan-xua.html


Âm lịch

Ảnh đẹp