và thành đạo cũng ở vùng đó. Trong gần
năm mươi năm thuyết pháp, Ngài đã đi qua rất nhiều nơi trên đất nước
rộng mênh mông này. Vậy thì Ngài đã dùng ngôn ngữ gì để có thể hoằng
pháp cho hằng triệu triệu người nói rất nhiều ngôn ngữ địa phương khác
nhau? Đức Phật nói không thành văn. Tất cả các điều Phật dạy chỉ do Ngài
A-nan ghi lại trong bộ óc siêu việt của mình để truyền lại cho Phật tử,
nên chắc chắn không có thông dịch viên. Ngay ở Trung Hoa cách đây không
lâu, khi chưa có tiếng phổ thông, người các tỉnh khác nhau, nếu không
học tiếng quan thoạ , có khi phải dùng bút đàm vì không thể nói tiếng
địa phương của vùng khác.
Trong đời sống hiện đại, giữa biển người trên thế giới, cũng vẫn có người ngu muội, kẻ thông minh.
Người thông minh chưa nói đã hiểu, như Ngài Ca Diếp chỉ nhìn cánh hoa của Đức Phật đưa ra mà đã biết được ý của Đức Thế Tôn.
Kẽ ngu muội thì nói cả trăm lời chưa chắc đã lĩnh hội được một, chưa kể là đôi khi nghe nói ý này lại hiểu ra một nghĩa khác .
Ở Ấn Độ thời Phật tại thế, cũng có những người trí thức, những bậc
học giả nghiên cứu về tôn giáo, về tâm linh. Thuyết pháp để thay đổi tư
duy của những người ở đẳng cấp này là một điều hết sức khó khăn. Đại đa
sồ dân chúng thì chỉ là nhũng người tẩm thường nếu không gọi là ngu
muội, hoặc không phải là tín đổ của những tôn giáo đa thần khác, thì
việc thuyết pháp lại càng khó khăn hơn theo đường khác.
Trong kinh Xuân Thu có viết chuyện một người đứng giữa chợ khảy một
khúc đàn phổ thông. Mọi người bu quanh rất đông lắng nghe. Cao hứng,
người đó khảy một khúc đàn cao hơn. Người nghe đi bớt. Đến khi nguời
dạo đàn khảy một khúc đàn cao diệu rất tâm đắc, thì chung quanh chỉ còn
lác đác người ở lại.
Không khác gì nhạc cổ điển vốn kén khách hơn những buổi trình diễn ca khúc .
Phật pháp có những điều rất vi diệu, không phải ai cũng lãnh hội một
cách dễ dàng.Vậy thì Đức Phật đã dùng thứ ngôn ngữ nào để có thể hướng
dẩn cho người ngu dốt đi vào đạo pháp. Thật là một điều kỳ diệu.
Trong tác phậm của Alexix Zorba, nhả hiền triết Nikos Kazantzakis đã
thú nhận ngôn ngữ của ông bị hạn chế trước một người thô lỗ vô học như
Zorbar. Khi ông nói những điều cao siêu thì con người thô lỗ này không
thế nào hiểu được. Trái lại, khi Zorba muốn diển đạt một điều gì, nếu
không thể diển tả bằng lời nói thì anh ta có thể nhảy múa, hay đem cây
đàn santuri ra gãy thì nhà hiền triết hiểu được ý hắn ta ngay.
Hồi trẻ, tôi đọc một cuốn sách nói về một nhân vật có tên là
Nathaniel Bowditch, một nhà to họán học người Mỹ sinh trưởng ở Boston
hồi cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỳ thứ 19. Lúc còn trẻ, ông làm việc cho
một hảng tàu buôn, lui tới dọc ngang trên biển cả. Ông muốn dạy cho
thủy thủ cách thức tính toán vị trí của các vì sao để có thể định vị
chiếc tàu trên biển. Căn bản là phải biết toán học. Sau một thời gian,
ông nhận thấy thủy thủ thời đó là hạng người ngu dốt nhất, khó có thể
giải thích cho họ những điều căn bản của toán học. Thất vọng, lúc về
nhà, trong ý nghĩ muốn tìm một phương pháp dạy cho dể hiểu, ông luôn bị
dắn vặt, nóng nảy. Vợ ông nói: Anh như một người vác một cây thang dài
và đi trong một căn phòng hẹp. Càng nóng nảy thì càng bị rối không thể
nào thoát ra khỏi căn phòng được. Câu nói của vợ khiến ôngđi tỉnh ngộ,
và sau đó, ông đã tìm được một phương pháp, dạy cho những người thủy
thủ ngu dốt kia môn toán học dành cho người đi biển. Một số thủy thủ sau
đó trở thành những người lái tàu giỏi, có người trở thành thuyển
trưởng.
Trong các chuyện Thiền, các vị thiền sư luôn luôn dùng những công án
rất khó hiểu để khai ngộ các đệ tử . Đôi khi chỉ nhờ một tiếng hét, một
cây gậy hay một câu hỏi mà người học thiền được khế ngộ. Như vậy, thì
trong tâm hay trí người nào cũng đều có một cánh cửa. Nếu không có một
khả năng tự mở thì có thể có được người khác mở cho mình. Nhưng nếu muốn
mở hộ cành cửa cho người khác thì phải tìm cách đi vào bên trong tâm
trí họ.
Chuyện không phải đơn giản. Đó là vấn đề ngôn ngữ. Phật giáo có tám
vạn bốn ngàn pháp môn để dẫn dắt con người tới cửa Phật, nhưng không
phải dễ tìm đường.
Tấu lên một khúc nạc phổ thông, cả vạn người nghe. Càng cao hơn càng
ít người biết thưởng thức. Từ nhạc bình dân lên nhạc cổ điển. Từ Tứ Diệu
Đế tới Bát nhã, từ Bát Nhã lên Kim Cang. Đôi khi thấy mình đã hiểu vì
thấy vấn đề chẳng có gì khúc mắc nhưng hiểu để có thể chứng ngộ được là
vấn đề khác.
Dẫn một người đi sâu vào kiến thức không phải dễ dàng gì .
Trong cuốn gương kiên nhẫn, học giả Nguyễn Hiến Lê kể câu chuyện thần
kỳ về cuộc đời của bà Hellen Keller, một người đàn bà vừa câm vừa điếc
vừa mù từ lúc chưa được hai tuổi. Làm thế nào để bà trở thành một nhà
thông thái có thể diễn thuyết trước công chúng ? Đó là nhờ sự kiên nhẫn
của người đã dạy dỗ bà từ bé Người ta chỉ biết đến cái tên Hellen
Keller và chẳng ai biết đến người thầy giáo, cô Anne Sullivan.
Từ một cách nào đó làm cho đứa bé vừa mù , vừa câm , lại vừa điếc có
thể hiểu thế nào là đất, là nước, là không khí, là gió, rồi đến thế nào
là Thượng đế, là tình yêu là tâm linh, là trừu tượng … cả một quá trình
của sự kiên nhẫn cũng chính là một loại ngôn ngữ đưa người khác đến với
kiến thức.
Vấn đế chính là hình thức của ngôn ngữ.
Dạy cho một người mù hiểu được một vật thể còn dễ. Dạy cho một người
bình thường mà tâm trí đã bị nhồi nhét những tạp niệm là một chuyện khó
khăn. Ngay như nhân vật Kiều Phong trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung
chẳng hạn. Một thân võ học thượng thừa trong võ lâm, nhưng lại không học
được Dịch cân kinh, là một trong 72 tuyệt kỷ trong phái Thiều Lâm.
Trong khi đó Du Thân Chi, một chút võ công cũng chưa có, lại học được
một cách dễ dàng. Ấy chỉ vì trong Kiều Phong tàng chứa quá nhiều thứ vô
công, không khác chi đầy ắp những tạp niệm vậy.
Nói chuyện lý lẽ với một người còn hai mắt mà tâm trí đang bị một lớp vỏ vô minh che phủ còn khó khăn hơn nữa.
Ôi ! khó khăn thay trăm đường ngôn ngữ.