Song thân tôi gốc Quảng Trị, vào làm việc ở Huế
và sanh hạ tôi ra tại vùng Nam Giao, nơi có thông xanh vi vút suốt đêm ngày. Cho
nên, thời thơ ấu của tôi cứ quanh quẩn Huế và Quảng Trị. Chính vì vậy dù qua bao
nhiêu thời gian sống không biết bao nhiêu mái nhà, đến không biết bao nhiêu
thành phố, ngủ không biết bao nhiêu nơi, quốc nội cũng như hải ngoại, thế mà tôi
không thể nào quên được nhà hàng Charfanjon, nơi nổi tiếng bán những ổ bánh mì
Tây ngon lành, nhà hàng Morin frères, thanh lịch nhất của Huế thuở nào. Trường
Chaiglleau (Écoles Primaires), Trường Tiểu Học ngày xưa của thời tuổi trẻ .
Người ta thường bảo, lúc nhỏ ốm đau mà mẹ cho ăn
món gì thì lớn lên, món ăn đó không bao giờ quên được. Tôi cũng vậy ngoài những
món mẹ tôi cho ăn, bây giờ già rồi tôi không quên đã đành, mà cái vị dòn tan,
thơm phưng phức của ổ bánh mì Tây mà tôi mua từ nhà hàng Charfanjon ngày xưa,
đến bây giờ ở Los Angeles rồi mà tôi vẫn thèm ăn. Ngay ổ bánh mì Tây của xứ Huế
ngày xưa mà tôi quên không được, thì làm sao bảo tôi quên được xứ Huế của bao
nhiêu hình ảnh và khí vị thơ mộng?
Huế và Quảng Trị, hai tỉnh khác nhau nhưng thời
tiết của hai tỉnh nầy giống nhau như một. Nếu Huế mưa, bạn đi ra Quảng Trị vẫn
thấy mưa. Nhưng ngược lại, Huế mưa mà bạn vào Đà Nẵng thì bạn sẽ thấy ngược lại:
Đà Nẵng nắng ấm đẹp vô cùng. Đến Huế vào mùa mưa, nhà thơ Nguyễn Bính quên mất
hai câu thơ đầy ý nghĩa:
“Mưa chiều nắng sớm người ta bảo
Cả đến ông trời cũng đổi thay...
“Mà lại vẽ ra hai câu thơ khác, nói lên nỗi buồn
mênh mông, man mác và xao xuyến của tâm hồn con người xứ Huế.
“Trời mưa xứ Huế sao buồn thế?
Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày..."
Nỗi vui bao giờ cũng qua mau, nhưng nỗi buồn của
con người chẳng dễ gì qua mau được. Chính vì vậy, những người Huế ở ngoại quốc,
mỗi lần nghĩ tới quê cha đất tổ, chốn chôn nhau cắt rún, Huế đúng là trăm nhớ
ngàn thương. Nỗi buồn xót xa, lắng đọng và như mãi ray rức trong người?
Sau này, dân Huế tản mác vào Nam, sống nhiều ở
Sài Gòn thì thiếu đi cảnh mưa lụt dầm dề suốt ngày đêm của xứ Huế. Miền Nam
thường được gọi là xứ mưa nắng hai mùa. Còn Huế của tôi thì có đủ cả bốn mùa.
Bắt đầu tháng Giêng âm lịch là mùa Tết Việt Nam, nên ông Trời cũng bớt mưa dầm
dề. Mùng một Tết của năm mới trở đi, trời chỉ còn mưa bay bay, lanh lạnh để
thiên hạ ngồi ở nhà ăn Tết. Nói “ăn” Tết thật đúng ở đây. Ngoài táo mứt, hạt dưa...
gần như nhà nào cũng có bánh tét bánh chưng. Hai thứ bánh này làm bằng nếp, nấu
suốt đêm ba mươi để khuya Mùng Một vớt ra cúng ông Bà Tổ Tiên. Sau khi cúng xong
rồi, từ Mùng Một đến Mùng Bảy Tết, khách khứa lại nhà, ngoài mứt gừng mứt bí ra,
đều được đãi bánh tét hay bánh chưng, ăn với sà lách hay loại cải cay vải vung
quanh nhà. Sau này sang Nhựt học, đêm Giao Thừa thấy người Nhựt quây quần trong
nhà với cối bánh Mochi, tôi nhớ nhà vô cùng. Từ ngày Tết cho đến hết tháng Hai
âm lịch, thời tiết Quảng Trị và Huế sao mà giống nhau như hệt. Ngoài những cánh
mai vàng tươi nở mùa Xuân, ngoài những bông thược dược, hoa hồng, hoa sói, thơm
ngát để cho mọi người thưởng thức Xuân ra, cái không khí lành lạnh và mưa bay
thực dễ làm đầy tâm hồn con người đến thế. Mùa Xuân thực sự đến với Huế vào
tháng Ba âm lịch. Tháng này hình như ông Trời chuyển mình để tiến dần sang mùa
Hạ nên chi Trời đã có nắng để mùa Hạ thì nắng hanh vàng cả con mắt. Gió Nam từ
dãy Trường Sơn từ xứ Lào thổi xuống, gió thổi qua đâu như lửa thổi đến đó, làm
cho khí hậu trở nên oi bức vô cùng. Nóng oi bức nhất là tháng Năm âm lịch Những
chiều trời muốn đổ mưa dông nhưng mưa không được, nên cái tức tối của khí trời
làm cho con người như bị nung đốt. Bù với những khí hậu oi bức đó, Huế có những
đóa hoa sen nở từ hồ Tỉnh Tâm trong Thành Nội, mang cái hương vị mát dịu về cho
thành phố. Và trên miền Nam Giao, tức vùng gần núi, về đêm thì hoa ngọc lan, hoa
lài, hoa sứ và nhứt là hoa cau thơm ngát cả núi đồi, làng xóm, làm cho mọi người
như dễ chịu ra về đêm. Riêng tôi, sau này trong những tháng gần mùa Hè ra dạy ở
Văn Khoa Huế, có những chiều sau giờ dạy học xong, anh chị em sinh viên đưa tôi
lên đồi Vọng cảnh để nhìn xuống đầu nguồn sông Hương từ Trung Tâm Liễu Quán lên
đến gần trường Luật Khoa, đi như thế để cảm nghe chút gió thoang thoảng thì cũng
đủ làm mát dịu cái nóng oi bức của ngày Hạ. Mùa Hè của xứ Huế bắt đầu từ tháng 4
âm lịch và chấm dứt vào cuối tháng 6 âm lịch. Đầu tháng 7 âm lịch là mùa Thu,
mùa của Nguyễn Khuyến với Ao Thu, của Tản Đà với Cảm Thu, Tiểu Thu, của Tương
Phố với Giọt Lệ Thu ... dù những phương trời Thu ấy có khác, Huế thì có câu ngạn
như: Tháng Bảy nước nhảy lên bờ, có nghĩa là mùa của lụt lội, mưa ngâu. Ngày xưa
học trò xứ Huế mưa không có áo đi mưa. Lúc mưa chỉ mang tơi đọt hay tơi cá. Tơi
đọt chằm bằng lá đọt, còn tơi cá chằm bằng lá thường. Tơi đọt có màu vàng sang
trọng và quý phái, để dành cho con nhà giàu. Con nít gặp trời mưa, mang một cái
tơi đọt từ Nam Giao về tận trường Chaigneau mà học, trên đường đi nó ấm lạ lùng.
Sau này, học trò và sinh viên mặc áo mưa ni-lông nên không có cái ấm thú vị của
chiếc tơi đọt hay tơi cá ngày xưa.
Nói về thời tiết thì Huế không giống như ở Nhựt
nhưng cái phong vị của cuộc sống con người thì chưa chắc ai hơn ai. Bốn mùa của
Nhựt đều có cái sắc thái đặc biệt: mùa Xuân đi các công viên xem hoa anh đào nở;
mùa Hè đi trên núi hay đi tắm biển cho đen người, mùa Thu đi vào rừng xem lá
vàng đổ xuống và mùa Đông thì thiên hạ đua nhau đi trượt tuyết.
Còn Huế thì mùa Đông về cầu Đông Ba ăn bánh
khoái với nâm mối, mùa Hè xuống Cồn Hến để ăn chè bắp và nghe nhạc Trịnh Công
Sơn... Tôi nghĩ những thưởng thức đó của người Huế cũng thú vị có thua gì người
Nhựt đâu? Nhưng thôi, Huế của tôi là Huế của trước chiến tranh Pháp-Nhật. Ngày
đó, đàn Nam Giao rợp bóng thông xanh, có thành trong thành ngoài bao phủ. Bên
cạnh có sân đá ba-lông, mà mỗi ngày thứ Năm và Chủ Nhật lũ trẻ chúng tôi tha hồ
đá bóng. Cũng ngày thơ ấu đó, tôi không bao giờ quên được ông Thị Lược, cứ mỗi
lần có hoa quỳnh nở thì ông không muốn thưởng thức một mình, mà ông lại cho mời
bà con lối xóm làng lân cận lại để cùng xem hoa quỳnh nở. Lúc hoa quỳnh sửa soạn
nở cũng chính là lúc tôi sắp muốn ngủ tới nơi, nhưng khi pháo nổ, rượu chúc mừng
được rót ra, lũ con nít chúng tôi vỗ tay reo cười vang dậy cả trời Nam Giao.
Ngày đó bây giờ không còn nữa. Ngày đó đi qua cũng như hàng hàng lớp lớp thông
xanh của đài Nam Giao đêu bị đốn hạ sau năm 1945. Cảnh thơ mộng của xứ Huế đã
mất đi rất nhiều từ núi Ngự Bình, từ sông Hương, cái thơ mộng hiền hoà êm ả của
xứ Huế. Tuổi trẻ của tôi đã từng hít thở cái không khí rêu phong cổ kính, trầm
lặng của lăng tẩm, đền đài. Tôi đã nhiều lân nhìn cảnh hùng vĩ của lăng Gia
Long, đã say sưa hái rau hái lá lốt tại lăng Minh Mạng, đã từng ăn hoài ăn mãi
bún chợ Quán mà không thấy chán và sau này, đã từng ngắm mãi lăng Thiệu Trị,
lăng Tự Đức để thưởng thức tâm hồn thơ mộng của người xưa. Mùa Hè đến lăng Thiệu
Trị thì cái hương của hoa sứ đã làm ngây ngất, đến ngồi nhà Thủy Tạ của Lăng Tự
Đức thì hương sen đã mang lại những giày phút thoát tục, quên chuyện trở về nhà.
Tôi cũng đã từng trèo lên tận đỉnh núi cao của núi Thiên Thai, ngồi dưới gốc của
chồm cây dương liễu để nhìn về thành phố, hay lên tận đỉnh núi Ngự Bình để nhìn
về Thành Nội im lìm hay Thuận An nhấp nhô sóng nước. Đó chưa kể đến những ngôi
chùa đẹp như trong tranh, ai có cơ hội đến một lần trong các ngày Tết thì trọn
đời không quên được. Chùa Từ Hiếu nằm giữa một rừng thông, trước Tam Quan Chùa
là một hồ bán nguyệt, nước trong veo với bầy cá lội sáng ngời. Sau lưng chùa là
một rừng mai vàng nở rực trời. Hương của hoa mai bay ngát cả vùng. Chùa nằm giữa
một lô đất rộng chừng hơn 5 mẫu, nào là hoa, nào mít, nào tiêu. Chùa Tây Thiên,
Chùa Trúc Lâm, Chùa Báo Quốc, Chùa Thuyền Tôn... Mỗi chùa có một vẽ đẹp riêng,
một sắc thái riêng. Chùa Từ Hiếu ở làng Dương-Xuân-Thiện hay chùa Trà Am ở sau
núi Ngự Bình là những ngôi chùa giống như chùa Long Giáng trong Hồn Bướm Mơ Tiên.
Riêng chùa Linh Mụ, nếu bạn có dịp ở lại vào một đêm trăng, nhứt là trăng sau
cơn mưa vừa tạnh hiện ra vào khoảng 4 hoặc 5 giờ sáng thì cái không khí trong
lành của đêm khuya sẽ mang lại cho bạn những giờ phút giải thoát. Chính vào lúc
này, Thầy Mật Thể đã sáng tác bốn câu thơ bất hủ:
Trăng sáng sau khi trời mới tạnh
Hiên ngoài thoang thoảng gió hương đưa
Tiếng chuông ngân ngợi trong đêm vắng
Thử hỏi hồn ai đã tỉnh chưa?
Huế với tôi như vậy. Ngoài Huế ra, nhứt là Huế
Phật Giáo, không ai có 4 câu thơ đẹp như thế. Chính vì vậy, trong những tháng
ngày sống ở Los Angeles dù thị thành rực rỡ đến đâu, nhưng mỗi lần nghĩ đến Huế,
thì đúng là: Huế, trăm nhớ ngàn thương. Huế là một thành phố cổ kính, một thành
phố hâm ấm cái linh hồn của dân tộc với những đền đài cũ rêu phong, với những
nếp chùa cổ kính im lìm giữa ngàn xanh và với ngay cả những chiều mưa, tháng
nắng hay chỉ là một cơn gió thoảng. Để rồi ở phương trời xa, cảnh đó, người đó
có rộn ràng, tấp nập bao nhiêu thì Huế vẫn đúng là Huế, trăm nhớ ngàn thương.