Khi nhang đã cắm vào bát, điệu chắp
tay lại chờ sư thầy niệm hồi mở đầu bài kinh, Sanh vẫn không ngớt nhìn
lên bàn thờ, khói bay từ một chấm sáng đỏ và vòng vèo lên trên, tựa một
trò chơi nhập nhằng nào đó.
Qua
mùa đông, sư thầy lại bận rộn hơn với những công việc bên ngoài chùa,
chủ yếu vẫn là đi làm lễ cầu siêu cho các gia đình trong vùng. Ngày xưa,
độ này trời lạnh, mùa giáp hạt, người chết nhiều. Vùng nghèo, chết thì
chôn, dẫu có nghĩ đến việc tiếp dẫn đạo sư để linh hồn siêu thoát cũng
chịu. Cái thời ấy sư thầy chưa về đây, ngôi chùa này chỉ là nơi đặt mấy
lư hương lạnh tanh. Bây giờ có điều kiện hơn, người ta lại vời thầy về
để làm việc hiếu, độ cho âm siêu dương thái.
Nhớ những ngày đầu mới về trụ trì, thầy phải lo mọi việc, từ dọn dẹp
khuôn viên, thiết trí lại chánh điện, sắp đặt bát nhang đèn dầu… Thế
nhưng những việc ấy xem chừng vẫn đơn giản, khó nhất là làm cho người
dân hiểu đúng đạo của thầy. Chùa có khang trang bao nhiêu, tượng Phật có
rạng ngời chừng nào mà không có người tin tưởng thì cũng vô ích. Đạo
Phật ra đời không phải để đặt đó, trưng ra cho người ta xem mà phải đưa
đức tin vào con người để họ sống tốt hơn. Thầy hiểu điều đó, nên việc
đầu tiên sau khi đã an ổn nơi ở và thờ tự, thầy bắt tay ngay vào công
việc đi tìm hiểu cuộc sống dân làng.
Mới đầu, người ta ngại giới tu hành, nghĩ sư thầy chắc cũng giống các
ông bà lang băm chữa bệnh cùi hủi, hoặc tựa tựa mấy ông thầy đồng bóng
nhảy nhảy rồi hét toáng lên như giẫm phải lửa. Dần dà, thấy bộ dạng
thong dong, vẻ mặt an nhiên của sư thầy, người ta cũng tôn kính. Có khi
người ta mời thầy về làm một cái lễ trong nhà, bảo thầy cúng cho cả gia
đình con mạnh khỏe, làm ăn khấm khá. Thầy nhận lời, nghĩ, đừng làm mất
lòng tin của người ta. Ở đời mất cái gì còn lấy lại được chứ mất lòng
tin thì khó vực lại lắm. Cỗ vật giản đơn, chủ yếu bánh trái hoa quả cúng
Phật, có trầm hương xông lên. Thầy tụng một bài kinh cầu an, xong ngồi
lại nói chuyện với gia đình, đó mới là phần hành pháp chính. Thầy nói,
đại ý, người ta muốn có sức khỏe thì bỏ bớt tham mê nhục dục, muốn giàu
sang thì không gì ngoài lao động. Chứ dẫu có cầu trời khấn Phật mà tâm
tánh vô minh, chân tay biếng lười thời cũng chẳng mang lại ích gì.
Giảng thì giảng vậy, chứ thầy cũng không mong người ta hiểu hết, chỉ
cần họ thấu được một ít thôi là được rồi. Phá vỡ đi một thành trì mê tín
cố hữu trong lòng người thật khó lắm thay. Trước khi sư thầy về đây,
trong vùng người ta mu mu mê mê. Động một tí ốm đau lại kêu ông thầy
lang cúng để đuổi con ma gây bệnh; trong nhà có người chết thì kêu ông
thầy phù thủy về triệu hồn. Sư thầy biết vậy, nhưng đâu dám bài xích trò
mê tín ấy ngay được một sớm một chiều, trong khi thầy mới chân ướt chân
ráo về chùa và đạo Phật hầu như chưa bao giờ được người dân ở đây biết
đến. Song, thầy vẫn giữ một niềm tin chắc chắn, rằng người ta ai cũng có
nhận thức, biết phân biệt đúng sai, nhận chân phải trái để mà làm theo.
Ngày xưa, con đường gây dựng đạo pháp của đức Bổn sư còn khó hơn thế
nhiều, trải qua hai ngàn năm trăm năm nay đạo Phật vẫn tồn tại và phát
triển, há chẳng phải đấy là một căn lành? Thầy nghĩ thế để lấy cho mình
động lực mà hoằng pháp.
Có lần người ta thỉnh thầy về cồn Mai, bãi đất nghĩa trang chôn cất
người làng, nhờ thầy tụng cho bài kinh địa mẫu. Kinh địa mẫu là kinh gì?
Thầy đâu có biết. Là kinh cúng mẹ đất hay thổ địa, có người biết họ
dùng để cầu cơ đó thầy. Ồ, đạo Phật không có tạng kinh đó. Tại người ta
nghĩ kinh Phật ở đâu cũng tụng được, bệnh tật gì thuốc thang nấy, kiểu
như mấy ông thầy phù thủy bịp bợm trước đây thường đặt ra một cách tùy
tiện, hòng làm quáng gà mắt gia chủ mà thôi. Người làng không phân biệt
được đâu là nghi lễ nhà chùa, đâu là nghi lễ cúng bái phong tục. Họ nghĩ
đám ma có các đạo lộ để nhờ thổ thần dẫn đường linh cữu, thì nhà Phật
có kinh địa mẫu.
Minh họa của Thúy Hằng
Trong khuôn viên chùa, nằm chệch về phía bên phải là một đài âm hồn.
Đài âm hồn có chuông vuông chừng mười mét vuông, xung quanh là tường xây
năm lối gạch, trong đó đặt bát nhang. Tất cả nay đã cũ lắm rồi, rêu
xanh bám lên trên nước xỉ xám. Ngày trước người ta xây đài âm hồn cạnh
chùa là để thờ các vị thần, và dân trong vùng mỗi lần có chuyện chẳng
lành, hoặc ai đi xa đều đến đây thắp hương cầu khấn. Hằng năm, cứ đến
rằm tháng tám làng lại mổ heo, hong xôi đội lên cúng. Thế thì luôn thể
đặt lên bàn thờ trong chùa một phần xôi thịt. Có thờ có thiêng, có kiêng
có lành. Người ta nghĩ chỗ nào có bát nhang thì cứ đặt cỗ mà cúng. May
thay khi đó chưa có tượng Phật, hoặc do chiến tranh loạn lạc, người ta
chưa kịp an vị lên trên đó một bức tượng.
Từ khi sư thầy về chùa, tượng Phật đã có. Dân làng muốn làm gì trên
chùa cũng đến hỏi ý kiến thầy. Thầy bảo trước mắt nên bỏ tục oản xôi
thịt đối với bàn thờ Phật, cúng cỗ như thế là thiếu tôn kính Phật. Nếu
có lòng thành, xin làng dâng hoa trái thôi là được rồi. Còn ngoài đài âm
hồn, thì tùy quý vị, vì đấy là phần lễ của hương thôn. Vị đại bái làng
vừa nghe sư thầy giảng, vừa gật nhẹ đầu, tỏ ra tâm đắc. Bữa sau họp
làng, quyết như ý kiến của sư thầy.
Cách đi vào lòng dân của thầy nhẹ nhàng cẩn trọng như vậy.
Trước nay mỗi lần lễ ở đài âm hồn, ban hương sự của làng tự cúng, vị
đại bái làm chủ lễ. Lần này có sư thầy về, người ta thỉnh thầy ra cúng
cho, dù sao có thầy vẫn linh thiêng hơn. Thật khó xử cho thầy, vì cỗ vật
làm mặn thì bậc tu hành đâu dám cúng. Hay thầy ra đứng chứng giám cho
chúng tôi cũng được. Thú thật, kể từ ngày có thầy về, dân làng sống yên
ổn hẳn, mùa màng bội thu, gió mùa thôi thốc mạnh. Lần này có thầy ra
chứng lễ thì càng hay.
Niềm tin nhiều khi là động lực cho con người, nhưng có lúc lại làm con
người bị chèo kéo khỏi quỹ đạo vốn dĩ của mình. Bữa nay xem ra người
làng đã tin cẩn thầy lắm rồi đấy. Cơ hội càng rộng mở để thầy giáo độ
chúng sanh. Không ra dự lễ có khi đánh mất một lần củng cố niềm tin, lại
dễ khiến dân họ nghĩ thầy làm cao. Thầy miễn cưỡng đi ra đài âm hồn,
điệu Sanh cũng chạy theo.
Vị đại bái nhập lễ, đọc cáo văn, rồi ban hương sự của làng thứ tự theo
tuổi tác lớn đến nhỏ vào lạy. Sư thầy đứng bên nhắm mắt, tay lần tràng
hạt cố gắng giữ tâm thật an nhiên, dặn lòng đừng tỏ ra bất cứ sự nao
núng nào. Điệu Sanh liếc sang cái đầu heo, chỉ thấy vui vui chứ không
thèm. Nhưng ngó tới mâm xôi đầy, thì… nuốt nước miếng như thằng Bờm khi
xưa thấy cục xôi của phú ông.
Người ta cắm thêm nhang vào quanh đài âm hồn, cho các vong linh vất
vưởng thêm chút hơi ấm. Khói xông lên, điệu Sanh lại chảy nước mắt. Xem
chừng điệu ấy sắp khóc đến nơi rồi. Khi xong lễ, sư thầy vái chào các cụ
rồi đi lẹ vào tịnh thất, mắt cũng rơm rớm.
*
Nhà người ta có con chết nước mùa lũ, cũng nhờ thầy về làm lễ triệu
hồn, gọi hồn về nhập với xác. Thầy bảo không được đâu, nên tụng kinh cầu
siêu chứ sao lại gọi hồn về chi nữa. Cầu siêu là sao? Là để cho linh
hồn được siêu thăng về miền tịnh độ, cho họ thoát khỏi khổ đau cõi
người, chứ triệu hồn về nhập với xác rồi giữ họ dưới đất ấy à. Gia chủ
nghe thấy phải, chấp thuận.
Phần nhạc lễ trong cúng cầu siêu phải có thêm một chiếc tang(vật
nhỏ như cái đĩa con dẹt, bằng đồng, cán trúc). Hồi năm ngoái thầy kiếm
được một miếng đồng ở quầy phế liệu, đem về dùng đá tán một buổi chiều
mới được. Rồi thầy dạy cho điệu Sanh cầm một nan tre cong để gõ tang.
Nhịp gõ khi mạnh khi nhẹ, sao cho âm đồng vừa đi đúng mạch bài kinh, vừa
có tác dụng làm vơi khổ đau của quý thân chủ. Khi người sống an tâm,
không còn lưu luyến nuối tiếc nữa thì linh hồn mới đặng siêu thoát. Ý
nghĩa tiếng gõ tang là thế.
Điệu Sanh đứng bên thầy gõ tang. Trong nhà gia chủ cứ thắp nhang từng
bó, cho rằng đốt càng lắm nhang thì lời nguyện cầu càng linh. Khói bay
lên nghi ngút, thi thoảng gió vợt qua, bao nhiêu khói cứ vỗ vào mắt chú
tiểu. Sanh nhắm mắt lại, cố gắng đừng để nan tre trong tay không lạc
nhịp tang. Thế mà đôi khi vì quá cay mắt, điệu phải dừng lại đưa tay
quệt dưới chân mày thật nhanh rồi mới gõ tiếp được.
Hai bên bàn thờ treo rất nhiều đồ vàng mã: áo quần, mũ mão, giày dép,
gương lược, hòm rương… tất cả đều bằng giấy màu, làm y như thật. Mỗi thứ
như thế có đến năm sáu bộ, nghe nói về dưới ấy, còn phải chia chác cho
các quan giữ cửa âm ty nữa nên mới dâng cúng nhiều thế. Không rõ ai chết
rồi quay về báo mộng cái trò mua chuộc này, hay là thấy chốn người sống
có sao thì cõi người chết y vậy. Trần đời đang rỉ tai nhau chuyện bây
giờ cứ là phải quà cáp đút lót thì việc mới xong. Sư thầy không cấm đoán
được việc đó, âu cũng bởi cõi người còn chìm ngập trong cảnh tranh tối
tranh sáng, mình thầy ở chốn vắng đạo này thật khó lòng lôi người ta ra
khỏi mê tín và cám dỗ ngay được.
Cuối lễ, gia chủ đem hóa vàng tất cả mớ lủng lỉnh đồ giấy. Cứ chọc que
vào mà cời cho lửa bén, tàn đen bay lên mù mịt, khói xám lôm côm đè nhau
bươn lên trời. Khói xoáy vào mắt đầm đìa. Con ơi con, nhận đi mà mặc,
dưới kia lạnh lắm phải không?
Thầy bảo, đốt thế không sợ con nó cảm thấy đủ đầy quá mà ở mãi dưới địa
ngục âm ty à? Chi bằng tĩnh tâm nguyện cầu mười phương hộ trì sáu căn,
cải nghiệp cho hồn được lên cõi cực lạc. Gia chủ nín thinh, nghe chừng
cũng lọt tai, nhưng lần sau đâu lại vào đấy, vẫn cứ sắm sửa cho nhiều
rồi đốt thành tro. Càng ngày người ta càng làm ra nhiều thứ hàng mã y
như thật, đến cả ô tô xế hộp cũng có.
Mỗi lần thầy làm lễ tại gia xong, ra về, thể nào người ta cũng đùm một
túi hoa quả cho điệu Sanh. Chú tiểu xách túi quà lủng lẳng, ngồ ngộ, hai
con mắt đỏ hoe vì khói. Hai thầy trò quảy túi nải, trở về chùa, phía
sau khói vẫn chưa ngơi, phía trước cánh đồng vừa xong mùa gặt, ai đó đốt
rơm cho khói bay lên trời kết mây xám. Buổi trời râm râm ủ ê.
Điệu Sanh đưa cái túi quà lên ngắm nghía. Nhiều quá thầy ơi! Ăn sao hết
đây? Thầy trả lời vu vơ, cứ như là đang nói với chính mình: của chúng
sanh trả ơn, ăn thì cũng hết, chỉ có điều sợ không làm sao thỏa lòng
người thì khó mà nuốt cho trôi.
Hoàng Công Danh