Trước năm 1945, làng Trung Phước của chúng tôi ở phía Tây huyện Quế 
Sơn tỉnh Quảng Nam có sáu phái (đơn vị như ấp, thôn) là phái Thượng, 
phái Hạ, phái Thị, phái Trung, phái Trà Viên và phái Giáp Nam. Nhà anh 
Văn Phú Nhẫn ở phái GiápNam, phái bên trái quan lộ theo hướng chợ Trung 
Phước vào đèo Le, giáp ranh với xã Quế Lộc ngày nay*.
Anh Văn Phú Nhẫn chỉ có hai anh em, người em trai của anh là Văn Ngọc
 Hưng. Hai anh em mồ côi cha rất sớm. Thân mẫu của hai anh, được người 
làng gọi là bà giáo Nhẫn theo lối lấy tên con trai đầu để gọi một cách 
kính trọng, thuộc thành phần trung nông, lo thờ chồng, nuôi hai con ăn 
học nên người.
Trong nhiều điều tôi nhớ về người bạn quê xưa vừa qua đời nói trên 
nổi đậm lên thời gian thi sĩ Bùi Giáng chăn dê tại quê chúng tôi. Nơi 
Bùi thi sĩ ngày ngày thả dê là rặng đồi cây lúp xúp, một chi sơn giữa 
dãy núi Chúa và núi Hòn Tàu. Rặng đồi này ở ngay phía sau nhà hai anh 
Phú Nhẫn và Ngọc Hưng.
Thời gian này là trọn năm 1951 và mấy tháng đầu năm 1952. Thi sĩ Bùi Giáng chỉ chăn dê trong vòng một năm rưỡi ấy mà thôi.
Như nhiều người trong chúng ta có biết, nơi sinh của Bùi Giáng là 
làng Vĩnh Trinh thuộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam, nhưng thân phụ của
 thi sĩ là cụ Cửu Tý có nhà cửa, vườn cây và nà trồng dâu bắp bên sông 
tại Trung Phước huyện Quế Sơn. Bùi thi sĩ thành hôn hồi đầu năm Ất Dậu 
1945 rồi đôi vợ chồng trẻ lên Trung Phước ở với gia đình.
Trung Phước và mấy làng lân cận như Đại Bình, Trung Lộc, Phước Bình… 
đời nào cũng có nhiều người làm thơ. Họ kết thân với nhiều nhà thơ gần 
xa và các nhà thơ này thường lui tới giao thiệp với nhau. Thời Bùi Giáng
 đến ở tại Trung Phước thì tại địa phương này có các nhà thơ đã thành 
danh như Huỳnh Lý, Hoàng Châu Ký, Huỳnh Hưng, Nguyễn Thụy Khái, Tạ Ký… 
Bạn thơ của họ từ các nơi xa thường đến đây ở chơi năm bảy hôm. Người 
viết bài này còn nhớ trong số đó còn có các nhà thơ nổi tiếng như Trinh 
Đường, Khôi Anh (Phạm Văn Kỳ), Hồ Thấu, Nguyễn Đình, Hồ Hiếu Dân… Bùi 
Giáng đến với quê hương thứ hai này có thể vì hai lý do: lập nghiệp với 
gia đình và kết bạn thơ.
Sau Tết Ất Dậu ấy, khi đã rời làng Vĩnh Trinh lên Trung Phước, chị 
Sáu Giáng quản lý nà dâu, bán dâu rừng nứa cho các hộ nuôi tằm. Mẹ tôi 
thường bảo tôi đến mua dâu của chị vì chị tính giá “nới” hơn các chủ nà 
khác, chưa sẵn tiền trả ngay thì chờ xong lứa tằm sẽ thanh toán cũng 
được.
Tôi và một số bạn yêu thơ trong làng rất quý mến thi sĩ Bùi Giáng. 
Chúng tôi gọi thi sĩ bằng cái tên thân mật là anh “Sáu Giáng”.
Suốt mấy năm ở cùng làng, ngày ngày gần gũi nhau, tôi không hề thấy 
anh biểu lộ chút gì gọi là “điên” cả. Anh rất hiền, ít nói, hay cười, y 
phục luôn gọn gàng, sạch đẹp. Anh cũng chẳng mấy khi nói về thơ, tranh 
luận về lĩnh vực thi ca lại càng không. Chỉ khi nào chúng tôi đến nhà 
anh thì anh mới đưa cho xem bản thảo những bài thơ hoàn chỉnh của mình. 
Anh chỉ làm thơ tại nhà chứ không bao giờ ghi ghi chép chép trước mặt 
người khác tại bất cứ đâu.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp 19/12/1946, mấy nơi giáp 
ranh với Trung Quốc chỉ cách một dãy núi và đường truông Thạch Bàn như 
Thu Bồn, Kiểm Lâm, phía tả ngạn là Phú Thuận, Giao Thủy… đều bị giặc 
Pháp tạm chiếm, đóng đồn. Vùng Trung Phước đổ lên mãi tận đầu nguồn sông
 Thu Bồn, chạy vào phía Nam của tỉnh gồm huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam 
Kỳ, Tiên Phước, Trà Mi là vùng tự do rộng lớn của ta tiếp giáp với các 
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, suốt chín năm chống Pháp là vùng 
bất khả xâm phạm. Địa phương tôi ở là khu Hoàng Văn Thụ có một công binh
 xưởng lớn chế tạo vũ khí, có nhiều cơ quan, kho tàn của ta. Đấy cũng là
 địa bàn thường có các đơn vị chính quy cấp tiểu đoàn trú đóng và xuất 
kích đánh địch tại vùng xuôi.
Không tiến công, lấn chiếm, đóng đồn được, giặc Pháp dồn sức vào việc
 dùng máy bay thả bom, bắn phá ác liệt vùng tự do của ta. Xã tôi, nhất 
là khu vực chợ Trung Phước, phải chịu vô số lần máy bay giặc trút bom, 
bắn phá, có cả bom napalm (xăng đặc). Xóm cụ Cửu Tý (thân phụ anh Bùi 
Giáng) nhà cửa khang trang, vườn xanh tốt nhất địa phương, lại gần chợ, 
nên thường bị máy bay giặc oanh kích nhiều hơn các nơi khác.
Thi sĩ Bùi Giáng có cái “tật” chết người là không bao giờ chịu vào 
hầm trú ẩn để tránh bom đạn của máy bay giặc. Khi nghe tiếng kẻng báo 
động vang lên từ gò Đồn, mọi người vội chạy ra khỏi nhà và xuống hầm, 
chỉ riêng anh Sáu Giáng cứ đứng nơi góc sân để… coi. Anh theo dõi hoạt 
động của máy bay giặc và tùy từng lúc mà la lớn cho mọi người trong hầm 
nghe:
- Nó thả bom. Hai quả… bốn quả…
- Nó chúi… bắn.
- Xóm chợ có nhà cháy! (…)
Cụ Cửu Tý và mọi người cự nự anh về chuyện không nấp hầm thì thi sĩ 
của chúng ta lại cười và giải thích một cách rất… Bùi Giáng: “nó thả 
bom, nó bắn chắc chi đã trúng, lỡ trúng chắc chi đã chết?”.
Thấy nguy hiểm quá nên sau cái Tết năm Tân Mão 1951, cụ Cửu Tý mua 
bầy dê năm con vừa lớn vừa nhỏ cho “Bán Giùi” của cụ làm công việc chăn 
dê. Cụ thuê người vào thôn Giáp Nam làm cái chuồng dê thô sơ bên mé đồi 
sau nhà bà giáo Nhẫn như đã nói ở trên. Sáng thật sớm, Bùi thi sĩ mang 
theo cơm gói bằng mo cau và ống tre đựng nước chè, vào đấy mở cửa chuồng
 lùa bầy dê lên đồi cho chúng ăn lá cây. Chủ dê ngồi hay nằm trên cỏ 
dưới bóng mát của một lùm sim già. Anh nhìn trời, ngắm núi, ngâm nga thơ
 của các nhà thơ nổi tiếng. Tôi chưa bao giờ nghe anh ngâm hay đọc thơ 
của anh, lại càng không bao giờ nói về thân thế mình với bất cứ ai. Điều
 này anh giữ cho đến cuối đời:

Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã qua
Và Bùi Giáng đã trả lời chung những ai muốn hiểu sâu về con người, 
đời riêng, tâm sự của mình như nhiều người đã thấy nơi bìa sau cuốn Tư 
Tưởng Hiện Đại của anh viết được tái bản tại Sài Gòn năm 1972:
“Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn”…
Hồi ấy, cụ Cửu Tý giao việc nuôi dê cho anh Sáu Giáng mục đích là để 
anh tránh xa vùng oanh kích hàng ngày của máy bay giặc Pháp chứ không 
phải vì kinh tế.
Thời gian này, các vùng hậu phương thực hiện chủ trương “tăng gia sản
 xuất, tự cấp tự túc”. Thấy anh Bùi Giáng chăn dê, tưởng đây là một kiểu
 làm ăn có lợi nên có người cũng tạo bầy dê thả rong trên cùng dãy đồi 
này. Năm ấy tôi đã thoát ly. Một lần về phép, tôi đến thăm và ở chơi 
trọn ngày với anh Sáu Giáng. Hai anh Văn Phú Nhẫn và Văn Ngọc Hưng cũng 
có mặt. Gần trưa, “ông chủ dê” lấy gói cơm mo cau cắt ra từng miếng ngon
 lành mời chúng tôi ăn. Cơm gói chấm muối mè, lại ngồi dưới bóng lùm sim
 râm mát, bốn anh em chuyện trò quá đỗi hưng phấn, gói cơm hết veo mà 
bụng mỗi người  vẫn còn… ấm ức. Nhưng không sao, bà giáo Nhẫn đã đoán 
trước cớ sự này nên tăng cường kịp thời cho chúng tôi một rổ cơm nóng 
lót lá chuối với một trã  cá đồng kho lá gừng ngon tuyệt!
Khi uống nước chè tươi, anh Giáng nói với chúng tôi rằng anh ngại dê 
của anh lộn với dê người khác. Chúng tôi đề nghị anh hãy tròng vào cổ 
mỗi con dê một cái vòng tre nhuộm màu khác nhau. Ba đứa chúng tôi tìm 
tre, pha phẩm màu thực hiện ngay. Do đó sau này mới có giai thoại mỗi 
“em dê” của thi sĩ Bùi Giáng mang một chiếc “kiểng” có màu trắng, đen, 
xanh, vàng, đỏ. Điều này, sau khi Bùi Giáng từ trần thấy có người viết 
gần đúng sự thật. Kỳ dư, về sự chăn dê, địa điểm và số năm chăn dê của 
thi sĩ Bùi Giáng đã có nhiều người viết nhưng đều không đúng. Chẳng hạn 
có người nói Bùi Giáng chăn dê vì bất mãn cuộc đời, anh chăn dê tại Vĩnh
 Trinh nhiều năm gần giống như ông Tô Vũ đời Hán Vũ Đế bên Tàu…
Chính xác, thi sĩ Bùi Giáng không hề chăn dê tại quê nhà Vĩnh Trinh 
và anh chỉ chăn dê trong vòng một năm rưỡi như đã nói ở trên. Đầu năm 
1948, phu nhân của anh từ trần. Sau đám tang, anh bỏ nhà đi đến các địa 
phương phía Nam của tỉnh Quảng Nam, vào Quảng Ngãi, Bình Định, vào tận 
Phú Yên. Đến năm 1950, anh trở về nhà. Nghe có kỳ thi Tú tài đặc biệt 
của Liên khu 5 tổ chức tại Bồng Sơn tỉnh Bình Định, anh đi thi và đỗ Tú 
tài toàn phần.Về nhà, anh chuẩn bị mọi thứ rồi theo đoàn người băng rừng
 lội suối ra Liên khu IV để học đại học tại Hà Tĩnh. Đây là trường đại 
học của ta trong thời kháng chiến chống Pháp. Nhưng ngay hôm khai giảng,
 vì không vừa ý điều gì đó, Bùi Giáng bỏ học và lại băng rừng lội suối 
về lại Quảng Nam. Chuyến đi ra rồi đi trở vào toàn luồn đường rừng, 
tránh các đồn bót của giặc Pháp… mất trọn 3 tháng. Nội cái chuyện ra đi 
vào hết sức gian nan, nguy hiểm này cũng đã nói lên một phần 
tính-cách-Bùi-Giáng.
Khoảng tháng 5 năm 1952, Bùi Giáng đã từ giã Trung Phước, ra Đà Nẵng 
rồi ra Huế một thời gian ngắn, sau đó vào Sài Gòn tự học, làm thơ, biên 
khảo, trước tác, dịch thuật một khối lượng tác phẩm đồ sộ đủ loại cho 
đến tận ngày cuối đời. Thi sĩ Bùi Giáng từ trần lúc 14 giờ 15 phút ngày 
thứ Tư, 7-10-1998, nhằm ngày 17 tháng 8 năm Mậu Dần tại Bệnh viện Chợ 
Rẫy TP.HCM, thọ 73 tuổi (17-2-1926 – 1-7-1998).
Nơi thi sĩ Bùi Giáng chăn dê thuở trước, bây giờ mé đồi đã thành đất 
thổ cư, nhiều nhà mọc lên, toàn cảnh đã khác xưa. Bà giáo Nhẫn khả kính,
 thi sĩ Bùi Giáng, anh Văn Phú Nhẫn và bao người quen thân nhau thời ấy 
đã không còn nữa. Anh Văn Ngọc Hưng, một trong những người thuộc lứa đàn
 em rất gần, rất kính mến thi sĩ Bùi Giáng nay là Đại đức Thích Thiện 
Huệ, trụ trì chùa Tâm Thành, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng 
Tháp…
Đêm trực tang thi sĩ Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm các bạn văn nghệ 
sĩ đã nói với nhau: cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Bùi thi sĩ là “bất
 khả tư nghị”.Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên, riêng về việc chăn
 dê của cố thi sĩ thì tôi xin phép được viết để trả lại đúng sự thật cho
 một mẩu giai thoại về một con người, một thi sĩ có khá nhiều giai 
thoại.
* Làng Trung Phước cũ ngày nay là xã Quế Trung, huyện Nông Sơn – Quảng Nam