Viết về Trà Đạo cũng là một dịp để
hồi tưởng những kỹ niệm thời sinh viên, những tháng ngày lê gót mòn con
đường rợp bóng Thu phong dẫn lối vào giảng đường. Vào năm thứ nhất chưa
mấy bận rộn với bài vở, hễ có giờ trống chúng tôi cùng bè bạn rủ nhau
lên chùa. Chùa ở Nhật rộng rãi, yên tĩnh, vào mùa hè lại rất mát mẻ.
Hơn thế nữa cùng năm học có một người bạn vốn con của một vị trụ trì
ngôi chùa gần viện đại học. (Phật Giáo Nhật Bản có phái tiếp hiện, các
vị sư được phép lập gia đình ). Thêm vào đó người Nhật lại rất hiếu
khách, nên sinh viên ngoại quốc như chúng tôi đã được đối đãi như những
‘thượng khách’. Cho nên cứ mỗi lần đến chùa là được thưởng thức Trà
Đạo.
Từ khi chỉ biết ‘ngậm mà nghe’ vị
trà đắng chát cho đến lúc biết thưởng thức vị ‘đắng trước ngọt sau’ của
trà, chúng tôi đã bắt đầu biết ‘mê’, để từ đó từ từ đi vào nghệ thuật,
văn hoá của Trà Đạo.
Ở Trung Hoa, nghi thức uống trà được hệ
thống hóa từ thế kỷ thứ 8, khi Lục Vũ viết quyển Trà Kinh năm 760 ghi
chép mọi chi tiết về trà. Lục Vũ đã ghi rõ về nghi thức uống trà hết sức
công phu với 27 trà cụ và 20 người phục vụ. Vì rườm rà như thế cho nên
kiểu uống trà này chỉ thực hiện ở giới thượng lưu. Có lẽ vì vậy Trà Đạo
đã dần dần bị lỗi thời và đi vào quên lãng. Hơn nữa vào thời kỳ Thành
Cát Tư Hãn xâm chiếm Trung Hoa (1279-1368) Trà Đạo Trung quốc đã biến
mất hẵn. Sau đó một thời gian khá lâu, mặc dù người Trung Hoa đã cố gắng
phục hồi ‘nghệ thuật uống trà’, nhưng hoàn toàn khác nghi thức của ngày
xưa. Chỉ còn thấy Trà Đạo Nhật Bản và Đại Hàn với nghi thức dựa trên
bốn điểm của Thiền học Hòa, Kính, Tinh và Tịch, còn được nghiêm túc lưu
truyền mà thôi.
Theo truyền thuyết, người Trung hoa đã
biết dùng trà gần 5,000 năm trước. Thuở ban đầu, vì chỉ được dùng như
thuốc để chữa bệnh như trừ đàm, giải nhiệt nên gọi là lương thảo (cỏ
tốt), linh thảo (cỏ nhiệm mầu), hay dùng như một loại rau gọi là khổ
thái (rau đắng)... Dần dà khi nhận thấy uống trà đã làm con người tỉnh
táo, giúp điều hòa tiêu hoá, bài tiết... thì trà đã trở thành món giải
khát quí. Đến đời Tần (221-206BC), thay vì uống nước lá trà tươi, người
ta đã nghĩ ra cách biến chế trà để bảo quản lâu dài và thêm hương vị.
Đến cuối đời Hán (206BC-220AD) đã bắt đầu có Trà Phiến (trà phơi khô
trộn với nước cơm đặc quánh rồi ép thành bánh, phải dùng cối giả vụn
trước khi nấu uống). Về sau càng ngày càng xuất hiện nhiều loại trà có
tên khác nhau. Ví dụ trà siêu cấp mà ‘phó thường dân’ như chúng ta chưa
bao giờ được thưởng thức như Trảm mã trà, Trinh nữ trà hoặc Hầu trà. Trà
thông dụng như trà Thiết Quan Âm, trà hương phiến (hoa hồng), trà sen,
trà lài, trà Long Tỉnh (trà nầy hiện vẫn đang cung cấp cho Hoàng gia
Anh), trà Ô Long, Lục trà... (Nếu quí độc giả có nhu cầu tìm hiểu về các
loại trà xin nhắn về Chuyển Luân, chúng tôi sẽ viết thêm ở bài sau,
chúng tôi cũng có dự định tổ chức một buổi ‘mạn trà’, kính mời quí vị
nào có nhã hứng đến tham dự, chúng ta sẽ có dịp ‘đàm đạo’!).
Trong quyển Trà Kinh, Lục Vũ đã hệ thống hóa về Trà Trung quốc, gồm 10 mục như sau:
1. Nhất chi nguyên: Xác định
nguồn gốc, hình dạng, công dụng, đặc tính cũng như quan hệ giữa phẩm
chất trà và điều kiện đất đai, khí hậu nơi trồng trà.
2. Nhị chi cụ: Dụng cụ thu hoạch và chế biến trà.
3. Tam chi tạo: Thời điểm, phương pháp chế biến các loại trà.
4. Tứ chi khí: Dụng cụ nấu và uống trà.
5. Ngũ chi chữ: Kỹ thuật và nhiên liệu nấu trà như: than củi, phẩm chất và độ sôi của nước.
6. Lục chi ẩm: Nguồn gốc tục uống trà và những điều cần biết khi uống trà.
7. Thất chi sự: Những giai thoại, truyền thuyết về trà.
8. Bát chi xuất: Phân tích, so sánh phẩm chất trà của các vùng.
9. Cửu chi lược: Đơn giản hóa công trình chế biến cũng như dụng cụ pha nấu trà
10. Thập chi đồ: Chép Trà Kinh ra những tấm vải lụa như những bức tranh treo lên tường để tham khảo khi cần.
Theo Lục Vũ, trà ở rừng núi Giang Nam có
hương thơm đặc biệt. Trà ngon phải là những đọt trà non hái từ những
cây trà ‘vị thành niên’ nghĩa là chưa hoàn toàn trưởng thành. Muốn có
tách trà tuyệt hảo thì phải nấu trà bằng nước suối lấy từ trên nguồn
cao. Điều nầy thì người Nhật cũng xác nhận và luôn áp dụng.
Nước dùng để pha trà là yếu tố quan
trọng để có trà ngon hay không. Theo Lục Vũ thì tốt nhất là dùng nước
suối và là nước của những giòng chảy thật chậm len lỏi qua các khe đá.
Không nên dùng nước chảy ào ạt. Nếu phải dùng nước sông thì phải múc
nước giữa giòng, xa chỗ có người ở. Nước giếng thì phải là nước của
những giếng thường được sử dụng. Tóm lại dùng nước càng tinh khiết thì
càng ngon trà.
Độ nóng của nước cũng giữ vai trò quan trọng trong qui luật pha trà. Lục Vũ phân tích 4 giai đoạn nước đi đến sự sôi như sau:
1. Giải nhãn: (mắt cua), bong bóng nước li ti như mắt cua hiện dưới đáy nồi.
2. Ngư mục: (Mắt cá), bong bóng nước to hơn cỡ bằng mắt cá, bắt đầu có tiếng lao xao.
3. Liên chu: (chuỗi ngọc trai), bong bóng nước nổi quanh vách nồi như chuỗi ngọc trai.
4. Tùng phong linh: (Thông reo trong gió), nước reo sôi như tiếng thông reo.
Thuở ban đầu người ta nấu trà nên dĩ
nhiên là nước phải sôi. Đến cuối thế kỷ thứ XIX thì chỉ đổ nước sôi vào
trà, giai đoạn sang từ ấm nấu nước qua bình hay chén đựng lá trà thì
nhiệt độ nước đã giảm. Người Nhật cho rằng trà hảo hạng (làm bằng những
đọt trà non còn cuộn ống nhỏ như cây kim gút của cây trà trồng trong
bóng mát ở vùng lạnh) cần phải pha bằng nước nóng khoảng 60-650C mà thôi.
Về các loại nước thì Lục Vũ cũng đã công
phu thử pha trà bằng 20 thứ nước khác nhau rồi phân hạng thứ nhất là
nước Lư sơn, Khang vương cốc, thứ nhì là nước suối đá ở Huệ sơn tự cũng
trên Lư sơn, huyện Vô tích... Sau cùng hết là nước tuyết tan.
Cách pha trà cũng đã thay đổi qua nhiều giai đoạn:
1. Nấu trà: Thời nhà Đường (618 - 907),
người ta nấu trà vì thế vị trà đắng, chát cho nên đôi khi người ta thêm
‘gia vị’ như gừng, bạc hà, muối để làm dịu bớt đi vị đắng, chát.
2. Điểm trà: Thời nhà Tống (960 - 1279),
đã có trà phiến nên người ta bỏ trà đã tán thành bột vào chén, chế nước
sôi vào khuấy mạnh và đều rồi uống.
3. Châm trà: Gần cuối triều nhà Minh
(1368 - 1644), nhờ kỹ thuật chế biến trà ngày càng tinh xảo, người ta
không còn nén trà thành phiến để khi pha phải nghiền thành bột nên cách
pha trà từ từ giản dị, tiện lợi hơn. Người ta bỏ trà vào bình châm nước
sôi, đợi nước thấm, hương vị cũng như màu sắc sẽ ra trà viên mãn . Cách
pha trà nầy thông dụng cho đến ngày nay.
Trà được pha vào ấm hoặc bình chỉ mới
bắt đầu thấy vào thế kỷ thứ XIV. Trước đó trà được pha trước hết vào
chén tống rồi sau đó châm vào các chén quân. Một bộ đồ trà xưa gồm: dầm
(dĩa đựng chén tống), tống (chén lớn để pha trà), quân (chén nhỏ để
uống trà).
Trà ngon quí thì phải pha trong những
ấm, bình chế tạo bằng nguyên liệu trứ danh. Ví dụ như chén trà sản xuất
tại Việt châu được Đỗ Phủ tán tụng: ‘Da trắng như tuyết, tiếng trong như ngọc’
Nghệ thuật chạm khắc trang nhã, tinh vi, với những biểu hiện ảnh hưởng
Phật giáo, Lão Trang, Khổng Mạnh như sen, tùng, cúc, trúc. . .đôi khi là
vài câu thơ trong một bài thơ của thi nhân nổi tiếng, để người uống trà
khi nâng ly vừa thưởng thức trà ngon vừa ngắm nhìn phong cảnh hay ngâm
trọn bài thơ được viết dở dang một hai câu trong chén.
Bình trà thì có bình Tử Nê làm bằng đất
sét Tử sa do một Hòa Thượng ở Kim Sa Tự tìm ra, chất đất sét rất mịn,
hàm lượng sắt cao, chịu đựng độ nung đến 1,2000C. Bình Tử Nê
cách nhiệt, giữ độ nóng lâu, rất nổi tiếng. Người xưa quan trọng hóa
bình trà và chung uống trà đến nỗi đã ví bình trà là ‘động phủ của Tiên,
tinh xá của Phật’. Đỗ Phủ cũng ví trà ngon rót từ bình quí là ‘Nghiêng vàng rót ngọc’. Vào thời nầy có những bình trà bằng đất nung giá lên đến mười mấy lượng vàng.
Trà làm cho sảng khoái tinh thần, không
buồn ngủ, giúp tiêu hóa, khử độc, tiết chế tình dục nên đầu tiên được
Tăng lữ Phật giáo dùng nhiều. Vì tôn kính Tam Bảo nên Phật tử cũng tạo
thói quen uống trà. Từ thời Nam-Bắc triều (420-589), rồi đời Tùy
(589-617), đời Đường (618-907) thì việc canh tác và chế biến trà chung
quanh các chùa để cung ứng nhu cầu hằng ngày trong chùa và cũng để đãi
khách viếng chùa. Rồi đến một ngày lan tràn đến dân chúng, thịnh hành
tới mức già trẻ bé lớn, ai ai cũng uống trà. Trà trở thành một trong bảy
thứ thiết yếu trong nhà: củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm và trà. Trà
cũng còn là một sính lễ không thể thiếu trong dịp cưới hỏi. Có thuyết
nói rằng sở dĩ trà được dùng làm sính lễ cưới hỏi là vì người xưa hiểu
là cây trà chỉ có thể sống ở một nơi cố định. Đã mọc nơi nào thì chỉ
sống nơi đó mà thôi, nếu dời đi nơi khác trà sẽ không sống nữa, đó là
tượng trưng cho sự chắc chắn, thủy chung. Có ý nghĩa là người con gái
một khi đã nhận trà rồi thì không thể đổi thay.
Hơi lác đác vòng vo về trà, bây giờ xin trở lại với đề tài trà đạo.
Trà đạo Trung Hoa
Trà đạo Trung Hoa đặt trọng tâm vào nghệ
thuật thưởng thức tạo hóa thiên nhiên. Ví dụ như trà thất là một căn
nhà gỗ, mái tranh, giống như những am tự của các nhà tu ẩn dật. Mùi
nhang thơm thoang thoảng tượng trưng cho mùi hương của vạn vật, thiên
nhiên. Một bức tranh phong cảnh. Một tranh cuộn với bài thơ vịnh cảnh
hữu tình. Những điệu nhạc mang âm hưởng tiếng gió vi vu hay tiếng hót
của chim muông. Một bình hoa được cắm tỉa biểu hiện nét thiên nhiên của
động, thực vật. Trà cụ cũng mang tính chất thiên nhiên, như bình và
chung uống trà bằng đất nung màu trầm, tối. Trong trà đạo Trung hoa
người ta không dùng trà bột mà dùng trà nguyên lá. Tóm lại điểm chính
yếu là tất cả mọi chi tiết của buổi trà đạo đều để gợi lên vũ trụ và
thiên nhiên. Tuyệt nhiên không thể chấp nhận có một chi tiết nào gợi cho
người dự buổi trà đạo liên tưởng đến đời sống hiện đại, ví dụ như không
thể dùng hộp đựng trà bằng plastic chẳng hạn.
Quy luật trà đạo Trung Hoa:
Những qui luật phải giữ nghiêm túc trong trà đạo Trung Hoa là:
1. Khách chỉ được thảo luận những đề
tài liên quan đến nghệ thuật, thi tứ, triết lý và thảo luận trong ôn
hòa chớ không được tranh cải.
2. Không ai được chiếm ưu thế trong cuộc đàm thoại.
3. Người chủ phải lưu ý không để chung trà của một người khách nào cạn trà quá lâu.
4. Ly trà thứ nhất phải nâng bằng hai tay, từ ly thứ hai thì dùng một tay khi đưa chung trà lên miệng uống.
5. Khi dùng một tay nâng ly trà phải
là tay mặt. Bởi vì thuở xa xưa tay mặt dùng để xử dụng vũ khí. Nâng
chung trà bằng tay mặt để chứng tỏ rằng không có ý định làm tổn hại
người khác. Trong khi uống trà tay trái phải để yên trên đùi, tuyệt đối
không được dùng vì tay nầy dùng để rửa ráy cho chính mình mà thôi.
Trà đạo Nhật Bản
‘Nhật Bản Hậu Ký’ có ghi: Nhân dịp Thiên
Hoàng Nhật Saga (Sai Ngã) (809-823) viếng chùa Sùng Phúc. Đại Sư trụ
trì chùa là Eichu (Vĩnh Trung) có biếu giống trà cho Thiên Hoàng làm
quà. Trà nầy được mang về, trồng trong hoàng thành và Thiên Hoàng dùng
làm quà tặng hàng năm. Mãi dến thế kỷ thứ XI. Thiền sư Eisai (Vinh Tây)
trong chuyến du học Trung Hoa về có mang giống trà về trồng ở Seburui
(Bối châu sơn) và Kozanji (Cao sơn tự) ở Kyoto. Thiền sư Eisai đã dày
công nghiên cứu và cải thiện cách chế trà của Lục Vũ. Lịch sử trà xanh
Nhật Bản bắt đầu từ đó.
Thiền sư Eisai cũng đặt ra nghi thức
uống trà theo hệ thống hẳn hoi dựa trên bốn điểm căn bản của Thiền học
là: Hoà (Wa =Harmony),Kính (Kei=Respect) Tinh (Sei=Purity), Tịch (Jaku
=Tranquility). Sau nầy Sennorikyu (Thiên Lợi Hưu) hoàn thành và xướng
khởi nghệ thuật uống trà xanh ở Nhật Bản thành Trà Đạo Nhật Bản độc đáo,
lưu truyền trong xã hội Nhật. Từ trà cụ đến cách thức pha trà, cách
thưởng thức trà trong trà đạo Nhật dù qua nhiều trào lưu thời đại vẫn
không thấy thay đổi nhiều.
Vào thế kỷ thứ XII, khi thiền được tái
nhập vào Nhật, trà được dùng làm thức uống trong những buổi thiền trong
các thiền viện. Mục đích là để giữ cho các tu sĩ tỉnh táo trong lúc ngồi
thiền quá lâu. Đến thế kỹ thứ XV thì nghi thức uống trà được phát triển
và trở nên thịnh hành, không những chỉ trong giới tu sĩ mà còn cả thi
sĩ, nghệ sĩ, những người có quyền hành, chức vụ cao cấp.
Có chuyện kể vào thế kỷ XVI, Thiên Lợi
Hưu, một trong nhữngVị Tổ của trà đạo Nhật Bản đã dựng một ngôi nhà uống
trà nho nhỏ trong Tổng hành dinh của Tổng Tư Lệnh đệ nhất quyền thế
Hideyoshi, ngay tại chiến địa để làm nơi giải lao và nghỉ ngơi cho các
tướng lãnh trước khi ra trận. Những vị tướng lãnh trước khi vô phòng
uống trà đều cởi bỏ vũ khí ngoài cửa rồi mới vào ngồi quanh ấm trà nóng
để đàm đạo .
Thiên Lợi Hưu sữa đổi, giản dị hóa đôi
chút nghi thức trà đạo quá tốn kém của Lục Vũ để có thể đại chúng hóa
trà đạo. Tăng Ni ở các chùa, thiền viện dĩ nhiên là phải thực hành thuần
thục về trà đạo, người con gái Nhật trước khi về nhà chồng hầu hết cũng
đều dự học ít nhất một khóa trà đạo. Các trường trung học, đại học đều
có club trà đạo.
Trà thất lý tưởng là ngôi nhà kiểu Nhật
thuần túy, nằm trong khung vườn có phong cảnh trầm lắng, nên thơ. Cách
thức phối hợp thiên nhiên hài hòa,cây cỏ lá hoa đều được chăm sóc, cắt
xén mỹ thuật. Ngõ vào quanh co phủ rêu xanh cổ kính được lót bằng những
tảng đá hình dạng thiên nhiên bóng mòn in dấu thời gian. Chiếc cổng gỗ
hoặc tre với mái lá lợp dầy trên chặng đường đưa vào trà thất cũng nhuộm
màu năm tháng cũ kỹ. Gần đến thềm trà thất, thế nào cũng có một giếng
đá nhân tạo phủ quanh bởi vài khóm hoa kiểng. Nước từ nguồn suối hoặc
giếng xa nào đó chảy mỏng manh xuống ống tre kêu róc rách, ống tre nằm
thăng bằng trên hai cành tréo cứ hứng nước đầy rồi quằng trĩu một đầu
trút nước vào giếng gõ nhịp trên thành giếng đá, đều đặn như tiếng mõ
buông lơi, thêm nét chấm phá cho bầu không khí yên tĩnh của khu vườn
(người Nhật kể rằng ngày xưa khi thú vật còn nhiều, tiếng gõ của ống tre
là tiếng động để dọa thú như khỉ, chồn sợ không đến gần nơi người ở).
Tiếc rằng kẻ viết bài không đủ tài miêu
tả hết cái đẹp và không gian tĩnh mặc nầy, xin hẹn ở một buổi trà đàm
nào đó sẽ trình bày bằng phim ảnh cùng quí vị.
Cửa vào trà thất rất thấp, buộc người
vào phòng phải cúi khom mới vào được, những trà thất xưa, hiện được xem
là quốc bảo, cửa vào chỉ cao khoảng 9 tấc, bắt buộc người vào phòng phải
quì mọp lết mới vào, biểu hiện cho sự khiêm cung (humility). Trà thất
xây dựng trên căn bản: bình dị (simplicity), tĩnh lặng (serenity), sạch sẻ (cleanliness) và phong nhã (grace). Tường
màu đất nhạt, phòng sáng sủa. Một bức tranh cuộn được treo nơi trang
kính gọi là tokonoma, vây khung bằng gỗ quí dành riêng để chưng bày
tranh, hoa hay bảo vật. Cửa sổ trà thất treo tấm rèm trúc nhìn ra khu
vườn thoảng hương thơm hoa lá hòa với hương nhang nhè nhẹ. Trong phòng
không có bàn ghế, khách ngồi trên tọa cụ đặt trên sàn tatami (chiếu đóng
khung để lót sàn nhà Nhật).
Trà cụ gồm có: Thẩu đựng trà (natsume),
chén trà (yunomi), bình đựng nước lạnh để châm thêm khi ấm gần hết nước
sôi, cây khuấy trà bằng tre (sasen) một đầu chẻ mịn uốn cong như hình
nhụy hoa quỳnh, muỗng múc trà (chasaku), khăn lau (fukusa), ấm nấu nước
(kama), gáo tre múc nước... Chén trà dùng trong nghi thức trà đạo làm
bằng đất nung, to như cái tô cỡ vừa vừa, do các nghệ nhân nắn bằng tay
theo nghệ thuật riêng của mỗi người, vì thế mỗi chén trà có một vẻ riêng
biệt, không thể có hai cái giống nhau. Trà đạo trung lưu thì dùng chén
trà men trắng nhỏ hơn để nổi bật màu xanh tự nhiên của nước trà.
Qui luật trà đạo Nhật Bản
Những qui luật trà đạo Nhật Bản được qui định đã hơn 600 năm, cả khách lẫn chủ đều phải tôn trọng.
1. Người tham dự phải giữ thân tâm trong sạch
2. Người chủ phải đích thân hướng dẫn
khách vào. Nếu trang phục người chủ không đàng hoàng, trà cụ thiếu thốn
hoặc không được sửa soạn chu đáo thì khách có thể từ khước không tham
dự.
3. Người chủ phải gõ chuông báo tin
cho khách khi nghe tiếng nước sôi (còn gọi là tiếng thông reo trong gió
=soughing of the wind in the pines)
4. Khách phải tuyệt đối giữ im lặng, không được nói chuyện. Nhất là chuyện chính trị và những chuyện đàm tiếu (scandal).
5. Cả chủ lẫn khách, không một ai được tâng bốc một người nào, bất cứ bằng ngôn từ hay cử chỉ.
Nghi thức trà đạo Nhật Bản
Nghi thức nầy có thể kéo dài đến 4 tiếng đồng hồ. Trà đạo được cử hành theo 3 giai đoạn:
1. Chờ đợi (zenseki=tiền tọa).
Khi khách bước vào trà thất quì tọa (ngồi kiểu Nhật) trước tokonoma
(khung chưng tranh, hoa hay bảo vật) thưởng lãm tranh (có khi là một hài
cú hoặc một chữ, ví dụ chữ Tĩnh hay chữ Nhẫn) và mùi hương thoảng quanh phòng.
Vị trí khách ngồi theo thứ tự: khách danh dự nhất được ngồi gần chủ và tokonoma.
2. Giai đoạn giữa (nakadachi =trung lập). Khách được mời ít thức ăn đơn giản và bánh ngọt. Sau đó khách được thong thả dạo ngắm cảnh vườn.
3. Phần cuối (nochiseki=hậu tọa).
Trong trà thất, trước khung chưng tranh , bức tranh đã được thay thế
bằng một bình hoa cắm đầy nghệ thuật theo lối ikebana của Nhật. Khi nghe
tiếng nước reo sôi, người chủ đánh chuông báo, khách trở vào trà thất.
Trà được sửa soạn và phục vụ.
Giờ phút sửa soạn và mời trà (temae) là
giờ phút chính, giai đoạn hấp dẫn nhất. Người chủ xếp trà cụ ra, dùng
khăn lau, làm ấm chén trà và que đánh trà. Múc 2,3 muỗng trà vào chén,
múc nước sôi với chiếc gáo bằng tre đổ vào chén xong dùng que đánh cho
trà tan đều và sệt. Cách cầm cán gáo, lượng nước múc, lượng nước đổ vào
chén... đều có qui tắc riêng. Đây là giây phút người chủ trì nghi thức
trà đạo cũng như khách tham dự lắng đọng thiền tâm. Không gian chìm lặng
chỉ còn nghe tiếng của thiên nhiên và tiếng ‘thông reo trong gió’. Khi
đã hoàn tất việc pha trà , chén trà được người chủ trao cho người khách
danh dự quí nhất. Hai tay nâng chén trà, vị khách nầy sẽ hớp nhẹ thưởng
thức hương vị trà rồi uống thêm 2 hớp nữa mới lau miệng chén và trao
chén trà cho người bên cạnh, chén trà cứ thế lần lượt được chuyển sang
người khách kế tiếp (Khách chỉ giới hạn bốn người mà thôi).
Sau khi mọi người đã uống cạn chén,
người khách danh dự bèn ngỏ lời xin được ngắm xem để thưởng thức nghệ
thuật và sự cổ kính đã được truyền từ mấy đời của chén trà. Người chủ
đáp ý khách rồi rời khỏi phòng. Chén trà lại lần lượt được mọi người
chuyền tay ngắm nghía, bình đựng trà, muỗng múc trà... cũng được chiêm
ngưỡng. Khách chiêm ngưỡng xong trà cụ, chủ nhân trở lại phòng. Chủ và
khách lại bắt đầu đàm đạo về lịch sử trà cụ cùng tên tuổi các nghệ nhân
đã sáng tạo ra chúng.
Sau cùng chủ mời khách một chén trà xanh. Buổi trà đạo kết thúc.
Chúng tôi chỉ xin lược thuật, thực ra có
hàng trăm chi tiết như cách xếp khăn, xoay chén trà trước khi mời và
sau khi uống, những ngôn từ trước và sau khi uống v.v. . cần phải học và
thực tập thật nhiều mới hiểu được nghi thức và triết lý của trà đạo
Nhật Bản.
Cách uống trà của người Việt Nam
Không biết tục uống trà của người Việt
Nam có tự bao giờ và cây trà đầu tiên được trồng ở đâu, từ lúc nào? Chỉ
biết rằng tự thuở xa xưa ông bà ta đã biết uống trà.
Hai loại trà thông dụng là chè tươi và
trà. Chè tươi là nước nấu từ lá trà tươi mới hái. Cách uống nầy không
thấy nhiều ở miền Nam nhưng ở miền Trung và Bắc thì rất thông dụng.
Người miền Trung nấu nước sôi, vò lá trà bỏ vào nhưng đổ bỏ đợt nước đầu
vì chát, chỉ dùng đợt nước thứ nhì trở đi, nếu thích thì bỏ tí gừng
vào, gọi là chè gừng. Người miền Bắc nấu chè tươi không qua giai đoạn
khử chát, chỉ cần rửa sạch lá trà xong bỏ vào nước đun sôi rồi uống.
Càng ngày nhu cầu uống chè tươi càng giảm vì đã có quá nhiều loại trà
chế biến, ướp thơm ngon, cách pha giản dị không phải lặt rửa, nấu mất
thì giờ.
Ở Việt Nam trà có ở mọi nơi: chùa chiền
thoát tục hay trần lụy dân gian, trong nhà, ngoài phố, ở tiệm, ngoài bến
xe. . . đâu đâu cũng có trà. Từ thành thị đến thôn quê, nhà giàu nhà
nghèo. Giàu thì trà ngon, trà đắt tiền, nghèo thì trà thường, trà rẻ
tiền. Khách tới nhà đâu có mời Coca, nước ngọt. Chỉ cần mời nhau tách
trà là đủ để dẫn tới bao nhiêu câu chuyện của thế sự thăng trầm. Hôn,
quan, tang, tế nhất định không thể thiếu trà. Cùng bằng hữu bên chén trà
thơm ngắm một chậu Lan hoặc hoa Quỳnh hé nhụy bàn họa thi tứ, bình văn
xướng nhạc, cảm hứng có thể kéo dài cả đêm không dứt. Vui cũng trà, buồn
cũng trà. Tết nhất mà không có trà thì chưa đủ nghĩa. Còn giây phút nào
ấm cúng hơn là được cùng người thân quây quần sum họp đợi ngắm nụ hoa
Thủy tiên bên chén trà thơm, nhâm nha mứt gừng mứt bí chờ đón Giao thừa.
Cuộc sống ở đây ngày nào cũng vội vã
chạy đua với thời gian. Thôi thì chỉ còn biết tìm về với căn phòng trang
nghiêm nho nhã trong gian thờ tự của gia đình, có bàn thờ Tổ Tiên, vài
đôi liễn trên mấy thanh cột gỗ lim bóng nước, giữa phòng là bộ tràng kỷ
cẩn xa cừ mát rượi, trên bàn một bộ đồ trà với những chung trà được
truyền lại từ mấy đời đã rạn da rắn. . . trong hồi tưởng vậy.
Chúng ta đang sống ở một nơi mà mùi cà
phê, mùi rượu át cả mùi trà. Dù sao cũng đừng quên trà là một thức uống
giúp tinh thần tỉnh táo, giúp tuần hoàn tiêu hóa, làm giảm mỡ trong máu,
uống thường xuyên sẽ giúp ngừa bệnh ung thư mà mấy năm gần đây người ta
nghiên cứu nhiều và xác nhận. Trà còn chứa Vitamine C có tác dụng ngăn
ngừa cảm mạo, Fluoride ngừa sâu răng. Nhất là trà xanh, tức là trà không
qua giai đoạn lên men có công hiệu nhiều hơn bội lần.
Vậy thì thay vì mời nhau rượu, cà phê
chúng ta hãy mời nhau tách trà xanh vừa thơm ngon vừa có nhiều dược tính
ngăn ngừa các chứng bệnh hiểm nguy. Có thể chén trà xanh đầu tiên sẽ
khó uống vì khẩu vị hơi đắng chát nhưng sau vị đắng đó là hậu ngọt. Khi
uống trà không cần thêm sữa vào, vì chất protein trong sữa sẽ làm cho
những chất antioxidants mất hiệu quả.
Trà cũng là hương vị của ngàn xưa, sẽ giúp ta khám phá ra niềm hạnh phúc đơn sơ của tổ tiên của ông bà ta hằng bao thế kỷ trước.
Hương trà thơm bay bay
Bao ước mơ dừng lại
Tưởng vọng dần lãng phai
Tâm an nhiên tự tại
Mãn nguyện ôm tròn tay
Cảm thấu bao huyền vi
Người xưa tràn hạnh phúc
Vì không nhiều mơ ước.
Không tham vọng cuồng quay.]
Tài liệu tham khảo:
1. Minh Di, 1996. ‘Trà’ trong ‘Giai phẩm Xuân Giáp Tuất’: 64-76.
2. Quảng Thiện, 1998. Trà xanh hay thần dược. Chuyển Luân 9: 10-13.
3. Taylor, N., 1998. Green Tea, the natural secret for a healthier life. Kesington,USA.
4. Vương Hồng Sển, 1971. Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa. NhàXuất Bản TPHCM, Vietnam.
5. Sen So Sa, 1991. Ro Shogo no chaji (tiếng Nhật). NHK, Tokyo, Japan.
6. Sen So Sa, 1992. Asa-cha (tiếng Nhật), NHK Shumi Hyakka. Chano-yu, Tokyo, Japan.]