HIỂU VỀ VĂN HÓA
Phải nói rằng văn hóa là một cái gì đó
thật mênh mông, vô tận, đến nỗi hầu như mỗi nhà văn hóa học đều có một
định nghĩa riêng về văn hóa. Trong số hàng trăm hàng nghìn định nghĩa
ấy, ngoại trừ khác biệt trong cách diễn đạt, phần lớn người ta đã đồng
ý với nhau rằng văn hóa là một hệ thống của những giá trị được chấp
nhận bởi một nhóm người, một cộng đồng, hoặc một đất nước, và có thể
học hỏi và lưu truyền từ đời này qua đời khác.
Tín ngưỡng, tôn giáo, niềm tin, chủ
thuyết, đạo đức, giáo dục, văn học, pháp luật, triết học, nghệ thuật,
những thành tựu về khoa học, công nghệ, những sản phẩm của công nghiệp,
thủ công, v.v... là những hệ thống giá trị.
Vì văn hóa bao trùm mọi giá trị của
cuộc sống mà một cộng đồng, một nhóm dân tộc, một đất nước chấp nhận.
Do đó điều cấm kỵ trong văn hóa học là không thể nói văn hóa của một
dân tộc này là cao hơn, ưu việt hơn văn hóa của một dân tộc khác. Mỗi
nơi chấp nhận một bảng giá trị riêng, áp dụng một bảng giá trị riêng,
áp dụng một tập tục riêng.
Nhờ có đặc tính có thể học hỏi, lưu
truyền mà văn hóa của một cộng đồng, một bộ tộc, hoặc một quốc gia
không bị mai một, ngược lại được phát triển, nâng cao, thời đại sau
phong phú, đa dạng hơn thời đại trước. Nếu không có đặc tính này, ngày
nay loài người vẫn còn ở trong thời đại ăn lông ở lỗ, còn ở trong các
hang động của thời tiền sử.
Các nhà văn hóa học thường phân văn hóa
ra làm hai loại văn hóa vật chất (material culture hay tangible
culture) và văn hóa phi vật chất (non-material culture hay intangible
culture). Văn hóa vật chất đó là ngôi nhà, chiếc xe, cây cầu, bảng
quảng cáo, ngôi đình, sân bóng đá, rạp hát v.v... Văn hóa phi vật chất
là trí tuệ, kỹ thuật xây nên ngôi nhà, làm ra chiếc xe, công nghệ xây
cầu, những thứ tổng hợp lại để có một trận bóng đá, để có một phi
thuyền con thoi phóng vào vũ trụ, để có một công ty hoạt động sinh lời.
Hai thứ văn hóa ấy quyện lẫn vào nhau, gắn bó với nhau.
Giữa hai thứ văn hóa ấy, văn hóa phi
vật chất quan trọng hơn văn hóa vật chất. Vì rằng con người có thể xây
lại dễ dàng một ngôi nhà bị cháy hay một chiếc cầu bị sập (văn hóa vật
chất) hay một thành phố bị tàn phá trong chiến tranh nếu chúng ta còn
có kỹ thuật, bản thiết kế; đây là trường hợp sau Thế chiến Thứ hai ở
châu Âu. Ngược lại, nếu chúng ta mất đi văn hóa phi vật chất tức là kỹ
thuật, phần mềm, bí quyết thì khó lòng có thể tái tạo lại được công
trình vật chất đã bị mất. Kim Tự Tháp của Ai Cập là thí dụ điển hình,
vì không còn lại kỹ thuật, người ta không thể tu bổ lại được di sản văn
hóa nỗi tiếng thế giới này.
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VĂN HÓA
Các nhà văn hóa học thường phân biệt ra
làm bốn yếu tố cấu thành văn hóa. Đó là: tục lệ thông thường hay thông
tục (folk trails) phong tục tập quán (customs) định chế xã hội (social
structures) và pháp luật (laws).
1. Các thông tục
Các tục lệ thông thường hay thông tục
là những nét văn hóa giản đơn thường thấy trong đời sống hàng ngày của
một cộng đồng hay một tập thể. Ví dụ như có dân tộc thì dùng đũa, dân
tộc khác thì dùng nĩa, dao, có dân tộc thì dùng tay, người Việt thì có
thói quen lúc ăn thường để phát ra tiếng kêu, người Âu lúc ăn thì ngậm
miệng lại, không có tiếng kêu. Người cùng một dân tộc hay cộng đồng đôi
lúc không để ý đến sự khác biệt trong những thông tục ấy. Vi phạm những
nét văn hóa này chỉ làm cho người khác thấy khó chịu chứ không hề bị
luật lệ nào trừng phạt.
2. Các phong tục tập quán
Thành phần thứ hai của văn hóa sau các
thông tục là các phong tục tập quán. Phần lớn những dân tộc thuộc các
nước châu Á muốn tiến đến hôn nhân phải có sự sắp xếp hay đồng ý của
cha mẹ; ngược lại người phương Tây thì cá nhân tự lựa chọn ý trung nhân
của mình, thông qua một giai đoạn gặp gỡ, tìm hiểu, kể cả chung chăn
gối với nhau. Đối với các dân tộc ở phương Đông ăn ở với nhau trước
khi cưới hỏi sẽ bị xã hội lên án rất nghiêm khắc. Trinh tiết của một
người con gái trước khi lấy chồng là một phẩm chất quý nhất được các xã
hội châu Á trọng vọng. Người Esquimo cho vợ ra tiếp khách quý một đêm
hoặc cho bạn mượn vợ trong một mùa đi săn là một tập quán. Có dân tộc
theo chế độ độc thê, có dân tộc chấp nhận chế độ đa thê. Vi phạm những
phong tục, tập quán ấy sẽ bị cộng đồng, xã hội trừng phạt nặng nề.
3. Các định chế xã hội
Bộ phận thứ ba cấu thành văn hóa là các
định chế xã hội. Định chế xã hội thì có nhiều. Một số nhà văn hóa học
đã phân các định chế xã hội ra thành các loại sau đây:
Gia đình là một định chế xã hội. Có dân
tộc theo chế độ tiểu gia đình, trong gia đình thông thường chỉ có hai
vợ chồng và con cái. Người Việt Nam và người Trung Hoa theo chế độ đại
gia đình trong đó có nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau dưới một mái
nhà. Người phương Tây khuyến khích sự bình đẳng trong gia đình xem con
trai con gái như nhau, mỗi thành viên tự rèn luyện để phát triển nhân
cách và bảo vệ danh dự của mình. Trong gia đình người châu Á thường duy
trì tôn ti trật tự, người trẻ kính trọng người già, người em phải tôn
trọng người anh, trọng nam khinh nữ, mọi người phải có nghĩa vụ bảo vệ
danh dự của gia đình, hạnh phúc của gia đình là niềm vui của cá nhân.
Học đường là một định chế xã hội. Mỗi
trường học (tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học) thực hiện những mục
tiêu do cộng đồng đề ra, có nhiệm vụ giảng dạy những tri thức và kỹ
năng mà xã hội hay cộng đồng cần đến. Nếu là một viện đại học hay một
cơ quan nghiên cứu, ngoài nhiệm vụ giảng dạy, cơ sở giáo dục còn có
chức năng thực hiện các công trình nghiên cứu nhằm giúp xã hội phát
triển. Văn hóa trong các trường học ở các nước phương Tây khác với tập
tục trong các trường học Việt Nam.
Cơ sở tôn giáo cũng là một định chế xã
hội. Những cơ sở tôn giáo khác nhau có những sinh hoạt văn hóa khác
nhau. Nhà thờ đạo Ki-tô có sinh hoạt khác với nhà thờ đạo Tin lành, đạo
Bà-la-môn, Ấn giáo hay Hồi giáo. Nhà thờ đạo Tin lành khác với chùa
Phật giáo Bắc tông. Chùa Phật giáo Bắc tông khác với chùa Phật giáo Nam
tông. Văn hóa trong các cơ sở tôn giáo khác nhau từ nước này qua nước
nọ, và khác nhau ngay cả trong mỗi nước. Cũng như văn hóa, không có tôn
giáo nào cao siêu hơn tôn giáo nào. Mỗi tôn giáo có niềm tin riêng,
giáo điều riêng, giáo chủ riêng, nơi thừa tự riêng, điều cấm kỵ riêng.
Trong tất cả cái riêng ấy có cái chung nhất. Đó là mọi tôn giáo đều răn
dạy tín đồ của mình niềm tin, tình thương và lòng vị tha.
Công sở có những sinh hoạt riêng, không
giống với các định chế xã hội khác. Làm việc trong các công sở là những
người ăn lương lấy từ thuế của dân, do đó mục tiêu chủ đạo của các công
sở là phục vụ đắc lực người dân, tránh lối đa nạn cửa quyền. Công tác
quản lý mỗi ngày do dây chuyền máy móc vận hành, hạn chế tối đa giấy tờ
và bàn tay của con người ở những khâu không cần thiết. Ngày nay theo
tâm lý chung của các xã hội phát triển, công sở không phải là tất cả.
Khi tốt nghiệp, người sinh viên bấy giờ thường có khuynh hướng thích
làm việc trong khu vực tư hơn là ở các công sở, ngoại trừ những người
muốn thủ phận. Văn hóa trong các công sở tại các nước ở Âu, Mỹ rất khác
với văn hóa tại công sở ở các nước trong khu vực châu Á.
Cơ sở kinh doanh là một định chế xã
hội. Cơ sở này bao gồm nhiều yếu tố từ cơ sở vật chất như phòng ốc,
trang thiết bị, mục tiêu cơ quan, chỉ tiêu thực hiện, quản lý tài chánh
và nhân viên, nghệ thuật lãnh đạo và điều hành, tổ chức nơi làm việc,
điều kiện và an toàn lao động, chế độ phúc lợi xã hội và hưu bổng, tổ
chức công đoàn v.v... Sự thành công trong một cở sở kinh doanh tại các
nước ở châu Á phần lớn dựa trên quan niệm cá nhân của người lãnh đạo cơ
quan, trong lúc đó tại các nước tư bản, sự thành công phần lớn dựa trên
nhiều yếu tố tổng hợp như khả năng quản lý các nguồn lực, năng xuất làm
việc, linh động của các nhân viên, lãi suất của công ty, các qui định
kích thích cạnh tranh, khả năng hoàn thành kế hoạch, uy tín của công ty
v.v...
Thể chế chính trị là một định chế xã
hội. Thông qua thể chế chính trị người ta có thể thấy một hình thái
sinh hoạt văn hóa của một nước.
4. Pháp luật
Pháp luật là một bộ phận của văn hóa.
Pháp luật trong một nước là phương tiện để bảo vệ các định chế xã hội
và một phần các phong tục tập quán của nước ấy. Nói một phần vì không
phải mọi phong tục tập quán đều phải nhờ đến sự bảo vệ của pháp luật.
Có những phong tục tập quán không cần đến phép vua mà chỉ cần lệ làng
là đủ. Mỗi một định chế xã hội đều có luật pháp bảo vệ. Xã hội càng
phát triển cao càng cần có nhiều luật pháp tinh tế. Một xã hội sơ khai
như những làng bản của người dân tộc chỉ cần những lệ làng. Có một sự
khác biệt lớn giữa các xã hội là ở phương Tây mọi sinh hoạt đều dựa
hoàn toàn trên pháp trị còn ở phương Đông vừa pháp trị vừa nhân trị, có
trường hợp tình nặng hơn lý. Luật gia đình của mỗi nước chắc chắn không
giống nhau.
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VĂN HÓA Việt nam
Từ xưa đến nay đã có nhiều người nghiên
cứu văn hóa Việt nam. Từ thế kỷ 19 về trước, số học giả viết những công
trình liên quan trực tiếp đến văn hóa Việt nam không quá 20 vị. Nhưng
từ đầu thế kỷ 20 đến nay, số học giả cả người Việt lẫn người nước ngoài
viết về văn hóa Việt nam khá nhiều.
Một số công trình tập trung viết về văn
hóa Việt nam: lịch sử văn hóa, đặc tính văn hóa, văn hóa một vùng, văn
hóa một dân tộc, văn hóa đối chiếu v.v... Một số công trình khác viết
về một chủ đề khác nhưng có liên quan đến văn hóa: khảo cổ học, lịch sử
học, địa chất học, dân tộc học, văn học, triết học, tôn giáo, âm nhạc,
hội họa. Đa số đề tài tập trung vào quá khứ xa xưa. Những công trình ấy
là kim chỉ nam tối cần thiết cho những nhà nghiên cứu Việt nam học.
Tuy nhiên văn hóa không chỉ có quá khứ.
Người nước ngoài đến Việt Nam không phải chỉ để tìm hiểu các di tích
lịch sử, chùa chiền, lăng miếu, để đi thăm các danh lam thắng cảnh ở
vịnh Hạ Long, ở Hoa Lư, ở cố đô Huế, ở Sapa, Đà Lạt, Vũng Tàu. Họ muốn
biết người Việt Nam đang sinh sống ra sao, đang làm gì và nghĩ gì về
tương lai. Họ muốn biết tập tục của người Việt Nam trong kinh doanh,
trong khi giao tiếp với người nước ngoài. Họ muốn thấy tận mắt người
phụ nữ Việt Nam đang làm gì? Người lớn tuổi đang sống ra sao? Tuổi trẻ
Việt Nam đang hướng về đâu? Họ muốn biết hệ thống giáo dục Việt Nam,
luật pháp Việt Nam, chế độ an sinh xã hội. Họ muốn biết tác dụng trên
mỗi người dân của các cuộc chiến tranh vừa qua v.v... Tóm lại có muôn
ngàn điều họ muốn biết về người Việt Nam đang sống, đang hít thở không
khí, đang vừa mới thoát ra một cuộc chiến kéo dài gần một nửa thế kỷ và
đang chuẩn bị như thế nào để bước vào thế kỷ XXI.
Điều đáng tiếc là các nhà văn hóa Việt
Nam viết còn quá ít những gì đang xảy ra trên đất nước này. Tôi chưa
đọc được một tác phẩm sử học nào đồ sộ do các sử gia người Việt viết
cuộc chiến vừa qua. Tôi cũng chưa thấy một công trình văn hóa nào do
người Việt viết để giúp cho người nước ngoài biết một cách tổng thể văn
hóa Việt Nam, cách giao tế với người Việt, biết cách làm ăn với người
Việt, ngoại trừ quyển Sketches for a Portrait of Vietnamese Culture
(tạm dịch là Phác thảo diện mạo văn hóa Việt Nam) của Hữu Ngọc, in năm
1995, quyển Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc của Nhà xuất bản Văn
hóa Dân tộc in năm 1996, và một vài quyển sách mỏng giới thiệu về du
lịch Việt Nam mới xuất bản gần đây.
Chúng ta đang cần những quyển sách viết
về tổng quan văn hóa Việt Nam tương tự như Việt Nam Phong Tục của Phan
Kế Bính (viết từ đầu thế kỷ). Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đào Duy Anh
(trước năm 1945). The Culture of Vietnam (Văn Hóa Việt Nam) của Ann
Crawford (in năm 1968), nhưng phải phong phú hơn, cặp nhật hơn, bao
trùm cả thời kỳ đương đại. Bạn bè năm châu đang cần đọc những công
trình nghiên cứu để biết những vấn đề đang xảy ra cho người Việt Nam,
trên đất nước này hoặc ở đâu đó trên thế giới. Những tác phẩm The Long
Journey (Hành Trình Dài) của Nancy Viviani (in năm 1984), Vietnamese
Studies in a Multicultural World (Việt Nam học trong thế giới Đa văn
hóa) của người viết bài này (in năm 1994)
Hiện nay trên thế giới đang cần những
thông tin về Việt Nam trong mọi lãnh vực, từ văn hóa, chính trị, lịch
sử, giáo dục, đến kinh doanh, đầu tư, phụ nữ, thanh niên, người già.
Trước khi đến Việt Nam, nếu là du khách họ phải nghiền ngẫm quyển
Vietnam, the Guidebook (Hướng dẫn Việt Nam) của nhà xuất bản Lonely
Planet. Nếu là một viên chức hoặc một thương gia, họ phải dự một số
buổi thuyết trình giới thiệu về Việt Nam, những công ty có mục tiêu
Quản lý các sự khác biệt về văn hóa (Managing Differences) đang được
thành hình khắp nhiều nước.
Một vài đề xuất
Những hụt hẫng trên đây đang đặt ra
những vấn đề mới: ngoài những chủ đề đang nghiên cứu, các nhà văn hóa
học Việt Nam cần dành một tỷ lệ lớn về đề tài cho các công trình nghiên
cứu hướng đến những vấn đề văn hóa đương đại (đang sống, làm việc) và
chú trọng đến mọi đề tài liên quan đến con người (phụ nữ, thanh niên,
người già, giáo dục, kinh doanh, hồi hương, các chính sách lớn của nhà
nước v.v...) từ các nét nhỏ của văn hóa (cách đi, đứng, ăn, ở, giải
trí, sở thích v.v...) đến các tập quán (hôn nhân, tang lễ, trinh tiết,
đại gia đình, tiểu gia đình, nạo thai, giao tế...) các định chế xã hội
(gia đình, học đường, công sở, cơ sở thương mại, tổ chức chính trị) và
các định chế luật pháp (xin xem các yếu tố cấu thành văn hóa trên đây)
Những sinh hoạt của hơn hai triệu người
Việt Nam hiện nay đang sống rải rác trên thế giới cũng cần phải được
quan tâm nghiên cứu đúng mức. Họ là những người đóng một vai trò then
chốt trong việc duy trì và phát triển văn hóa Việt Nam tại nước ngoài.
Họ cũng là những người đang làm đầu mối cho sự hợp tác văn hóa và kinh
tế giữa Việt Nam và các nước bạn trên thế giới. Một số lớn người Việt
Nam ở nước ngoài có một trình độ cao về khoa học và công nghệ, và nếu
có chính sách, họ có thể trở thành một lực lượng thực sự cần thiết cho
sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước nhà hiện nay. Việc
nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam cho các thế hệ
thứ hai, thứ ba của người Việt ở nước ngoài là một vấn đề lớn của các
nhà ngôn ngữ và văn hóa người Việt ở trong nước. Người Việt ở nước
ngoài, ví như những con chim cánh cụt (penguin), ngày ngày đi kiếm sống
ngoài biển khơi, rồi khi đêm về, tìm hạnh phúc với bầy con dại trong
các tổ ấm trên đất liền. Văn hóa Việt Nam có tác dụng giúp cho những
con him cánh cụt mẹ có những giờ phút ấm áp với đàn con của mình.
Văn hóa đối chiếu là một bộ môn trở nên
rất quan trọng ngày nay. Đối chiếu văn hóa giữa nước này với nước nọ,
giữa các vùng trong một khu vực, giữa các vùng trong một nước, giữa ba
miền Bắc, Trung, Nam, giữa các vùng cao của Việt Nam v.v... Người nước
ngoài dến thăm Việt Nam chưa bao giờ đọc được những công trình nghiên
cứu công phu về văn hóa đối chiếu để biết mỗi miền có những phong tục
tập quán khác nhau như thế nào. Thí dụ văn hóa Việt Nam khác với văn
hóa Lào như thế nào. Văn hóa Lào khác với văn hóa Thái ra sao. Người Ấn
muốn mời một khách quý đến dự một buổi tiệc quan trọng bao giờ cũng để
cho khách ấn định ngày giờ. Trong lúc đó, người Mỹ muốn mời ai phải ghi
rõ ngày giờ địa điểm. Nếu thư mời không ghi rõ ngày giờ thì thư đó được
xem là không đứng đắn, nghiêm túc. Nếu không biết sự khác biệt trong
mỗi nền văn hóa, những người Mỹ và người Ấn ấy sẽ không bao giờ trở
thành những người bạn thân. Ngành văn hóa đối chiếu sẽ giúp cho con
người trong các quốc gia khác nhau, màu da khác nhau.. hiểu biết nhau
hơn, tôn trọng lẫn nhau, và cùng nhau hợp tác trong những chương trình
vì lợi ích chung.
Kế thừa và phát triển là một đặc điểm
của Văn hóa. Từ nhiều năm nay chúng tôi nghiên cứu đặc tính này của văn
hóa Việt Nam và đã thu tóm trong một công thức. Chúng tôi mong có nhiều
nhà nghiên cứu xem xét nghiên cứu đặc điểm này, và nếu được, phát triển
công thức này được hoàn chỉnh hơn. Trong việc rà xét ấy, chúng tôi xin
đón nhận chỉ dẫn từ nhiều phía. Công thức tóm lược đặc tính văn hóa
Việt Nam thể hiện qua mỗi giai đoạn như sau:
1. Trong buổi bình minh, lúc đất nước
còn độc lập, Văn hóa Việt Nam (VhVn) xin được gọi là Văn hóa Hồng Việt
(VhHv), được biểu diễn qua công thức
VhVn = VhHv
Văn hóa Hồng Việt là sinh hoạt tinh
thần và vật chất của người Việt trong thời bình minh của lịch sử trước
khi có sự xâm lược của người phương Bắc.
2. Qua đến thời kỳ Bắc thuộc, Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung quốc (VhTq). Văn hóa Việt Nam nới rộng ra:
VhVn = VhHv + VhTq
3. Cũng trong thời gian này, Việt Nam
tiếp xúc với cả nền văn hóa Ấn Độ (VhAđ), chủ yếu văn hóa Phật giáo.
Văn hóa Việt Nam có thêm những đặc điểm mới:
VhVn = VhHv + VhTq + VhAđ
4. Đến lúc tiếp xúc với nền văn hóa
Phương Tây (VhPt), điển hình là khoa học và công nghệ, tinh thần trong
sáng trong các phương pháp, và giáo lý của đạo Ki-tô, nền văn hóa Việt
Nam có đầy đủ cạnh nét hơn, màu sắc hơn. Công thức như sau:
VhVn = VhHv + VhTq + VHAđ + VhPt
5. Địa thế (YtĐt = Yếu tố địa thế) nằm
kế cạnh Trung Quốc, một nước khổng lồ có tác động lớn đối với Việt Nam,
cộng với yếu tố thời tiết, khí hậu (YtTt = Yếu tố thời tiết) của Việt
Nam cũng đã rèn luyện nên những con người Việt Nam có đặc điểm biết hợp
quần, đoàn kết, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau khi gặp hoạn nạn do đó
công thức đầy đủ như sau:
VhVn = Vhhv + VhTq + VhAđ + VhPt + YtĐt + YtTt
Hay:
VhVn = Vh (Hv +Tq + Ađ) + Yt (Đt + Tt)
Với đặc tính có thể học hỏi và truyền
đạt, văn hóa Việt Nam trong thời nguyên thuỷ VhHv sẽ không còn nguyên
vẹn là VhHv mà là VhHv khi tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc VhTq. Tương
tự, khi VhHv tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ VhAđ thì cả VhHv lẫn VhTq đều
không còn nguyên trinh như trước mà đã trở thành VhHv và VhTq. Nói rõ
hơn, văn hóa Việt Nam ngày nay, sau nhiều thế kỷ tiếp xúc và pha trộn,
không còn giống hệt như văn hóa Việt Nam ở thời xa xưa.
Chúng tôi mong có nhiều người nghiên
cứu tường tận văn hóa Việt Nam để phát hiện được những đặc điểm văn hóa
Việt Nam. Những đặc điểm ấy rất quan trọng. Chúng sẽ giúp cho bạn bè
người nước ngoài ở mọi nơi hiểu người Việt Nam hơn, từ đó có thể xây
dựng được những mối hợp tác lâu dài. Chúng tôi nghĩ có thể nhờ những
đặc điểm này mà gần hai triệu người Việt ở nước ngoài, chỉ trong một
thời gian ngắn, không những đã ổn định được cuộc sống mà lại còn có
những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội ở những nước họ
đang cư ngụ.
2-1997
[]
Phụ chú của Chuyển Luân: Tác giả là
một nhà giáo dục được đào tạo từ một đại học Mỹ nên phong thái viết rất
là Mỹ: trong sáng, quy cũ, mọi quan niệm đều được định nghĩa trước,
khoa học nên không có thể hiểu mập mờ hay nhằm để người khác hiểu mập
mờ. Tuy tác giả có dùng nhiều từ ngữ trong nước nhưng nếu bài viết được
chọn đăng trên một tạp chí trong nước, quả là... phải đến đã đến! Dân
Hà Nội uống Cô Ca thay nước vối thì giới trí thức cũng phải được nếm
những công trình nghiên cứu không có tính cách... sô vanh (chauvinist)
mà các nhà nghiên cứu xã hội chủ nghĩa hay mắc phải. Vì chỉ là một bài
báo nên có nhiều ý niệm quá tổng quát (như phương Đông, Á Châu, Âu
Mỹ...). Và vì quá khoa học nên quan niệm văn hóa trình bày có tính cách
hình thức máy móc. Các nhà nghiên cứu Các Mác hay khẳng định hạ tầng cơ
sở định tính cho thượng tầng cơ sở. Tây phương thì trái lại nhấn mạnh
đến vai trò của tôn giáo và triết lý trong việc phát triển các định chế
xã hội. Hai ngàn năm lịch sử tây phương được thành hình do tư tưởng của
Plato và Do Thái -Ki Tô. Chủ nghĩa tư bản phát triển là do sự thúc đẩy
của đạo đức Tin Lành. Đạo Phật thì vừa khế cơ (định chế xã hội, hoàn
cảnh lịch sử) vừa khế lý (tinh yếu của tư tưởng Phật Giáo). Nhờ lý
duyên khởi mà đạo Phật không bị những khám phá mới của khoa học biến
thành một thứ giáo điều lạc hậu. Nhờ khế lý -khế cơ mà đạo Phật không
bị mắc kẹt trong cuộc xung đột đẫm máu giữa duy tâm và duy vật. Nhờ
quan niệm vô thường vô ngã mà người Phật Tử không phải là những người
cuồng tín và không phải dính mắc vào các cuộc thánh chiến như ở Ái Nhỉ
Lan, Trung Đông và Bosnia. Không có kiến thức về tôn giáo hay triết lý
thì không thể hiểu những động lực hình thành một văn hóa. Chúng tôi
đăng nguyên văn công trình nghiên cứu khoa học của đạo hữu Nguyễn Xuân
Thu chỉ dám mạo muội xin sửa một từ ngữ (tín đồ thay vì con chiên) mà
theo chúng tôi không được chính xác. Trong Phật Giáo không có ai là con
chiên và ai là người chăn chiên. Người tin theo đạo Phật chúng tôi gọi
là Phật Tử hay Phật Giáo Đồ. Ai muốn giải thoát thì cũng phải nỗ lực tự
mình thắp đuốc lên mà đi.