để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, và
cầu phước lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình thường,
cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy, và vái.
b. Khấn
Khấn là lời cầu khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ
liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi
cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời
hứa.
Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính
cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du
dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ
trước mồ bước ra.” (câu 95-96)
c. Vái
Vái thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài
trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn
tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng
xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi
xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2,3,4, hay
5 vái.
d. Lạy
Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn
và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình.
Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn
trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có
mang ý nghĩa khác nhau.
- Thế lạy của đàn ông
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay
trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay
đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt
nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất,
và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất
người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc
bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang
quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để
cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy
tiếp cho đủ số lạy. Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo
thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân
nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về
phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó
để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng.
Sở dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên
dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng
vậy. Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ
chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy phủ phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa,
đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng thời quì hai đầu gối xuống
luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà
không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy
đã tập luyện hằng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng quí cụ mới
đi lễ chùa, phải cẩn thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy
của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng bằng.
- Thế Lạy Của Đàn Bà
Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt
chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái.
Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo
vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn
tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở
thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn
tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế
đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên
đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo
thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết. Lạy xong thì đứng lên và
vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống
chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi
giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu
thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ
tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau
ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hung dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy
của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế
lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy.
Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất
là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng
vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của
người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ
tiên. Nếu muốn giữ phong tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh niên
phải có lòng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn
ông, ta phải tập dượt lâu mới nhuần nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi
việc sẽ thành.
2 . Ý nghĩa của Lạy và Vái
Số lần lạy và vái đều mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Sau đây chúng
tôi xin trình bày về ý nghĩa của vái và lạy. Đây là phong tục đặc biệt
của Việt Nam ta mà người Tàu không có tục lệ này. Khi cúng, người Tàu
chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.
a. Ý nghĩa của 2 Lạy và 2 Vái
Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu
chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố
như em, con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2
lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba
vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa
nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại
nhà quàn, các người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố
như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác,
cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi.
Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái
người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn
sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí
hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn
rồi, phải lạy 4 lạy.
b. Ý nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và
Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, và thông hiểu mọi
lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là
tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên
tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen,
người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ âu phục, nếu cảm thấy khó
khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
c. Ý nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái
Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn
lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương,
tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ tượng (Thái
Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi
âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương
vào đó để làm chỗ trú ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
d.Ý nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành
(kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là
hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng
cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự.
Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy
5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
Khải Chính Phạm Kim Thư
(Tạp chí Quê Hương)