.
Công trình gồm có năm tầng thềm hình vuông, tiếp theo là
ba tầng thềm hình tròn và trên cùng là một bảo tháp lớn
(stupa), tất cả cao 43 m. Nhìn từ xa, ngôi đền giống như
một ngọn đồi hay một kim tự tháp với nhiều tượng Phật
và bảo tháp, công trình hoàn toàn được xây dựng và tạc
bằng một loại đá núi lửa màu xám khai thác trên đảo Java.
Chữ
« Borobopdur » có nghĩa là « Ngôi đền trên đỉnh đồi »,
ghép từ hai chữ tiếng Phạn là baram và buduhur, baram có nghĩa
là đền chùa, buduhur có nghĩa là trên cao. Nhưng thật ra tên
gốc là « Bhumisan barabadura », hai chữ này có nghĩa là « Ngọn
núi của vô lượng đạo hạnh », ý nghĩa của tên nguyên
thủy phù hợp hơn với hình dáng như một quả núi của ngôi
đền.
Vài nét lịch
sử
Vào
đầu thế kỷ thứ VIII, hoàng triều Sanjaya theo Ấn giáo và
thờ thần Shiva, đóng đô ở vùng Bắc trung tâm Đảo Java.
Một hoàng thân người Kampuchia được hoàng triều này che
chở, nhưng sau đó ông trở về Kampuchia vào năm 802 và lên
ngôi vua, lấy vương hiệu là Jayavarman II. Có thể chính ông
đã đem theo về nước dự án đầu tiên của Borobudur, vì
người ta tìm thấy trên đất Kampuchia một ngôi đền nhỏ
xây bằng gạch hình tháp tương tợ với mô hình của Borobudur.
Vì thế các nhà khảo cổ nghĩ rằng phần nền của Borobudur
do hoàng triều Sanjaya khởi công để xây dựng một ngôi đền
Ấn giáo, nhưng bỏ dở. Ngoài ra, các công trình khảo cổ
khác cũng phát hiện gần Borobudur một số di tích thuộc hoàng
triều Sanjaya vào thời đó. Vì vậy người ta càng tin hơn
là ngôi đền lúc khởi công rất có thể là một kiến trúc
Ấn giáo.
Sau
đó vào giữa thế kỷ thứ VIII, một hoàng triều thứ hai
là Saïlandra thiết lập kinh đô trên phần đất phía Nam của
trung tâm Java, hoàng triều này theo Phật giáo và đã từng
xây cất nhiều ngôi đền nổi tiếng khác, trong số đó có
ngôi đền Candi Sewu. Dưới triều đại Saïlandra Phật giáo
bành trướng nhanh chóng trên đảo Java, vì thế việc xây dựng
một ngôi đền Phật giáo lên trên một công trình Ấn giáo
bỏ dở cũng có thể là cách chứng tỏ uy thế của hoàng
triều Saïlandra. Công trình được khởi công khoảng năm 795,
nhưng trong khi xây cất, những người thực hiện công trình
lại quyết định sửa đổi và bỏ bớt trang trí các tầng
trên trong mục đích tạo cho phần đỉnh của công trình những
nét đơn giản, thanh thoát và nhẹ nhàng hơn so với phần dưới,
phần nền thì mở rộng thêm cho có vẽ vững chắc và đồ
sộ bằng một bức tường đá chạm trổ bao quanh.
Trong
khi hoàng triều Saïlandra dồn nổ lực xây cất và hoàn thành
Borobudur thì hoàng triều Sanjaya đóng đô ở phía Bắc phục
hồi được quyền lực và uy thế, thống nhất lãnh thổ vào
năm 832. Nhờ sự khích lệ mạnh mẽ về văn hoá của Ấn
độ, hoàng triều Sanjaya chiếm lại Borobudur, nhưng không tàn
phá công trình này, chỉ xây lại cửa cổng và cho khắc thêm
một số tượng nổi. Sự kiện này cho thấy tinh thần rộng
rãi của Ấn giáo thời bấy giờ.
Năm
850 có thể xem là năm hoàn thành Borobudur, tuy thế thỉnh thoảng
vẫn thấy có những công trình bảo trì và sửa đổi cho hoàn
thiện hơn. Nhưng vào khoảng đầu thế kỷ XIII, từ khi những
người buôn bán Á rập theo đường hàng hải đưa Hồi
giáo vào Inđônêxia, Borobodur trở nên hoang tàn. Chỉ trong vòng
hai trăm năm, cả quần đảo Inđônêxia gần như hoàn toàn
bị Hồi giáo hoá. Hồi giáo bành trướng nhanh chóng là do
các nhà truyền giáo Á rập rất tích cực, các vị vua địa
phương theo Hồi giáo dùng áp lực chính trị để huấn dụ
và cải đạo dân chúng. Vào thế kỷ XV, các nhà truyền giáo
Ki-tô người Bồ đào nha xâm nhập vào Inđônêxia, người
dân lại càng trở nên nhiệt tình hơn với Hồi giáo, có thể
đó cũng là những phản ứng tự nhiên trước bóng dáng của
một tín ngưỡng mới.
Sau
người Bồ đào nha là người Anh và người Hoà lan xâm nhập
vào Inđônêxia. Vị toàn quyền người Anh trên đảo Java là
Sir Stamford Raffles khi đi kinh lý trong vùng, dân chúng nơi đây
chỉ cho ông di tích hoang tàn của Borobudur. Ông biết ngay đó
là một kỳ quan khác thường và nhờ một chuyên gia người
Hoà lan là Cornelius đo đạc và vẽ địa hình hình. Vào cuối
thế kỹ XIX sang đầu thế kỷ XX, người Hoà lan ra công khai
phá cây rừng, trùng tu Borobudur dưới sự điều khiển của
ông Theodore van Erp. Sau chiến tranh thứ hai, Inđônêxia ý thức
được tầm quan trọng của Borobudur liền mời nhiều nhà khảo
cổ trên thế giới đến xem, đồng thời yêu cầu UNESCO giúp
sức để trùng tu. Một chương trình cấp thời vào năm 1948
do Liên Hiệp Quốc đưa ra đã giúp cho Borobudur thoát khỏi
cảnh hoang tàn và quên lãng. Tiếp theo là một chương trình
trùng tu rộng lớn hơn kéo dài từ 1973 đến 1982 do UNESCO đảm
trách với sự hợp tác của 27 quốc gia trên thế giới đã
hồi phục cho Borobudur. Chương trình trùng tu tốn 17 triệu
đô-la thời bấy giờ, hai phần ba số tiền này do quốc gia
Inđônêxia đóng góp.
Ý nghĩa của
kiến trúc Borobudur
Borobudur
tổng cộng có 1460 tấm tranh điêu khắc và tạc nổi trên
mặt đá, trình bày các cảnh tượng của Tam giới, kể lại
các gương sáng của những vị Bồ-tát, cuộc đời và những
tiền thân của Đức Phật và sau hết là các câu chuyện về
Đạo Pháp mô tả trong kinh sách. Ngoài những cảnh tượng
điểu khắc, còn có 1212 trang trí khác tạc trên đá. Nếu
xếp các cảnh điêu khắc thành hàng thẳng sẽ có một chiều
dài 5 km. Kiến trúc tổng quát của ngôi đền có thể chia
làm ba phần từ thấp lên cao, tượng trưng cho ba cảnh giới
của Ta-bà : các tầng thấp nhất là Dục giới, tiếp theo
là Sắc giới và những tầng trên hết là Vô sắc giới.
Viếng
Borobudur bắt đầu từ cổng phía Đông, đi theo chiều kim đồng
hồ, mỗi tầng đều có bậc thang để trèo lên tầng cao hơn,
hết tầng này đến tầng khác. Trên vách đá hiện ra các
cảnh tượng điêu khắc của Dục giới, phô bày những cảnh
tượng của thế giới tham dục (kamadhatu), gồm đủ loại
chúng sinh như quỷ đói, súc sinh, loài người, các cảnh tượng
tham lam, những xung năng thấp kém, tham dục và hận thù, tiếp
theo là cảnh tượng của Sắc giới gồm những bậc thánh
nhân, và sau hết là các thiên nhân thuộc Vô sắc giới. Những
tầng cao hơn hết kể lại sư tích tiền thân của Đức Phật
trong nhiều kiếp trước, sau đó là ngày đản sanh ở Ca-tỳ-la-vệ,
ngày Đức Phật từ bỏ cung điện đi tìm đạo, ngày đạt
được Giác ngộ ở Chính giác sơn, ngày chuyển Pháp luân
lần đầu ở vườn Lộc uyển…
Bên
trên năm tầng hình vuông là ba tầng hình tròn với các bảo
tháp đục rỗng, trong mỗi bảo tháp là một tượng Phật
trong tư thế thiền định. Tầng thứ nhất có 32 bảo tháp,
tầng thứ hai có 24 và tầng thứ ba có 16 bảo tháp. Trung tâm
của tầng thứ ba là một bảo tháp lớn nhất với đường
kính 15m, và cũng là đỉnh cao nhất của kỳ quan Borobodur.
Bảo tháp này hoàn toàn trống không, không tượng Phật cũng
không có một trang trí nào khác, sự trống không tượng trưng
cho tánh Không và sự Giác ngộ, vì thể phần đỉnh của công
trình củng có thể xem như một sự biểu hiện của cõi Niết
bàn. Điều đáng chú ý là trang trí của các tầng hình vuông
hết sức phong phú và tinh xảo với hàng ngàn cảnh tượng
tạc nổi trong đá, nhưng bổng nhiên không còn thấy một điêu
khắc nào nữa khi trèo lên các tầng hình tròn, sự đơn giản
hiện ra một cách lạ lùng. Nơi đây bàng bạc sự trong sáng
và tinh khiết của thể dạng « vô hình tướng », tượng
trưng cho sự tĩnh lặng của tâm thức.
Lúc
hoàn thành Borobodur có 602 pho tượng Phật, nhưng một số đã
bị mất cắp, ngày nay còn 504, một số bị lấy mất phần
đầu. Ngoài các tượng Phật đặt ở các góc, hầu hết các
tượng Phật thuộc những tầng bên dưới được đặt trong
các hóc thụt sâu trong tường, nhưng trên ba tầng cuối cùng
các tượng Phật được đặt bên trong các bảo tháp đục
rỗng như vừa kể trên đây. Vào thời kỳ xây dựng Borobudur,
học phái Ngũ Phật thuộc Kim cương thừa Tây tạng phát triển
rất mạnh mẽ, học phái này thờ năm vị Phật là : Tì-lô
Giá-na (Mahavairocana), A-súc (Akyobhya), Bảo sinh (Ratnasambhava),
A-di-đà (Amitabha), Bất không Thành tựu (Amoghasiddi). Theo như
Mạn-đồ-la của Mật giáo thuộc Kim cương thừa, vị Phật
Tì-lô Giá-na, còn gọi là Đại nhật Như lai Phật ngự ở
trung tâm, bốn vị Phật còn lại ngự ở bốn góc. Tại
Borobudur, người ta thấy Phật A-di-đà được đặt vào hướng
Tây, phía Đông là Phật A-súc, phía Nam là Phật Bảo sinh,
phía Bắc là Phật Bất không Thành tựu. Trên tầng cao nhất
của Borobodur là Phật Tì-lô Giá-na.
Một vài
cảm nghĩ thay cho lời kết
Borobodur
chẳng những là một kỳ quan đồ sộ mà còn là những trang
kinh sách vĩ đại tạc trên đá diễn tả khái niệm về vũ
trụ, thế giới của chúng sinh, cuộc đời của Đức Phật,
giáo lý của Ngài và cuối cùng là sự Giác ngộ và Giải
thoát. Giác ngộ, Giải thoát và Niết bàn là những gì hết
sức cao siêu và trừu tượng nhưng đã được diễn tả bằng
kiến trúc một cách tuyệt vời.
Cách
nay khá lâu sau khi được UNESCO trùng tu, Borobodur vẫn còn nằm
trong quên lãng và thờ ơ của người dân Inđônêxia và cả
thế giới. Trong nhiều năm đầu tiên khi Borobudur mới được
trùng tu xong, người ta có thể thuê xe ôm, xe ba bánh tuk tuk
từ Yoyakarta để đến viếng Borobodur, và có thể ở lại
với Borobudur cả ngày trong vắng vẻ không một bóng người,
để ngắm một cách thanh thản những cảnh tượng của thế
giới tham dục và sau cùng trèo lên cảnh giới của Niết bàn,
nhìn ra phong cảnh xanh tươi và bát ngát chung quanh. Ngày nay,
du khách tấp nập phải mua vé để vào, những tấm bảng chỉ
« lối ra » thật sự là để đánh lừa người hành hương
lọt vào khu buôn bán tượng Phật, tràng hạt, và những đồ
lưu niệm khác.
Phật
giáo Nam tông được truyền vào Inđônêxia vào năm 600 đúng
vào thời đại của hoàng triều Srivijaya trên đảo Sumatra,
và không lâu sau đó Phật giáo Bắc tông cũng du nhập vào
đây. Hoàng triều Srivijaya theo Phât giáo và rất hùng cường,
quản lý cả Mã lai, đảo Java và Borneo. Vì thế Phật giáo
từ Sumatra đã lan tràn sang các nơi vừa kể. Con đường biển
giúp các nhà sư truyền giáo từ Ấn độ đến Trung quốc
và những người hành hương từ Trung quốc đến Ấn độ
đi ngang bờ biển đảo Sumatra, vì thế Sumatra đã trở thành
trạm dừng chân trên con đường vạn dặm này. Hoàng triều
Srivijaya bang giao thân thiện với Trung quốc cũng là một điểm
thuận lợi khác khuyến khích Phật tử Trung quốc đến hành
hương và tu học ở Sumatra.
Một
vị cao tăng Trung quốc là Pháp Hiền (320? - 420?) đã từng
ghé vào Inđônêxia trên đường từ Ấn độ trở về Trung
quốc. Ông đi đường bộ từ Trường an vòng sang vùng Cận
đông để đến Ấn độ tu học trong nhiều năm, lúc ấy ông
đã sáu mươi tuổi. Vào năm 410 ông dùng đường biển để
đi Tích lan, Sumatra và Java, nơi nào ông cũng lưu lại ít lâu
trước khi trờ về Trung quốc vào năm 412. Một cao tăng Trung
quốc khác là Nghĩa Tịnh (635-713), dùng đường biển đi Ấn
độ để tu học, ông ghé vào đảo Sumatra vào năm 673 và hết
sức ngạc nhiên khi gặp trên đảo hàng ngàn nhà sư đồng
hương với ông đang học tiếng Phạn, tu tập và nghiên cứu
kinh điển Phật giáo ở đây. Riêng ông thì rời Sumatra để
đến Tu viện Đại học Nalanda ở Ấn độ và tu học trong
20 năm liền. Khi trở về Trung quốc ông trở thành một trong
những nhà dịch thuật kinh sách nổi tiếng.
Một
đại sư người Ấn là A-ti-sa (980-1054), đã từng đến Sumatra
cùng với hơn 100 đệ tử, riêng ông đã tu học trong suốt
mười hai năm với một vị thầy tên là Dharmarakshita, tên
tiếng Tây tạng là Serlingpa Tchokyi Drakpa. Năm 1025, ông
quay trở về Ấn độ, nhưng vào lúc đó Phật giáo ở Ấn
đã suy vi, Nhà vua Tây tạng là Gougué Tchangchoup Ö và cả nhà
dịch thuật nổi danh của Tây tạng thời bấy giờ là Rhinchen
Zangpo cùng tỏ ý mới ông lên Tây tạng để giảng Pháp. Ông
nhận lời và đến Tây tạng vào năm 1042 cùng với hai mươi
bốn đệ tử. Ông là người đã giữ vai trò chính trong việc
du nhập và phát triển Phật giáo lần thứ hai trên đất nước
Tây tạng.
Từng
là một trung tâm Phật giáo lớn của Á châu, nhưng Inđônêxia
đã trở thành một nước Hồi giáo từ đầu thế kỷ XIII.
Hai trăm năm sau khi được xây cất, Borobodur rơi vào cảnh
hoang tàn ; cây rừng, gió mùa và mưa nhiệt đới gặm mòn
và tàn phá Borobudur suốt một ngàn năm cho đến khi được
trùng tu trong thời đại chúng ta. Đồng thời với việc trùng
tu Borobudur, hình như Phật giáo Inđônêxia cũng đang hồi sinh,
giống như trường hợp của Phật giáo tại một vài quốc
gia khác trên địa cầu này. Ngoài Á châu, Phật giáo cũng
bắt đầu thu hút người Tây phương, các nước thuộc Trung
và Nam Mỹ ngày nay cũng có hội thiền và chùa Tây tạng.
Tất
cả những đổi thay đó, những thăng trầm đó, chẳng qua
cũng chỉ là những biểu hiện do sự vận hành của nguyên
lý vô thường trong vũ trụ mà thôi, ta cũng không nên bám
víu vào đó để xem đấy là một việc đáng buồn hay một
niềm hy vọng. Buồn vui, hy vọng hay ước mong cũng chỉ là
những bám víu. Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan thuộc A-phú-hãn
bị đặt mìn và phá hũy trước sự chứng kiến và bất lực
của cả thế giới, và trong trường hợp khác, Borobudur lại
được trùng tu một cách tuyệt vời. Tất cả đều là những
biến cố không nhất thiết liên quan mật thiết đến một
tôn giáo nào cả mà đấy chỉ là những biểu hiện của vô
thường, của quy luật tương liên, tương tác trong vũ trụ.
Tôn giáo phải giữ những vai trò thiết thực hơn như thế.
Nếu
hiểu rằng Phật giáo là một tôn giáo giúp con người loại
bỏ khổ đau để mưu cầu hạnh phúc, thì khi nào khổ đau
vẫn còn trong thế giới này, Phật giáo sẽ chưa bị hũy diệt.
Nếu hiểu rằng Phật giáo là một tôn giáo giúp con người
xoá bỏ vô minh để tìm lấy con đường giải thoát và sự
tự do đích thực cho chính mình, thì khi nào thế giới này
vẫn còn u mê, hận thù và bao lực, Phật giáo sẽ vẫn còn
trường tồn để giúp đỡ con người.
Từ
ngàn năm, những pho tượng Phật của Borobodur ngồi im với
cây cỏ và muôn thú của rừng sâu, ngày nay vẫn ngồi im cho
những người hành hương đến chiêm bái và du khách ngắm
nhìn một cách tò mò. Dù sao, nơi ngôi đền Borobudur, gương
mặt của những pho tượng vẫn hiền hoà, vẫn sâu thẳm và
phẳng lặng với thời gian.
Bures-Sur-Yvette,
29.01.08