Ở 
nước ta, tuy chưa có số liệu chính thức, nhưng sự có mặt của các nhà 
hàng và quán ăn chay cùng lượng thực khách đông đảo cho thấy số người ăn
 chay đang ngày càng tăng dần.
Gần đây, qua báo chí phương Tây, một số người bày tỏ quan tâm đến sức
 khỏe của người ăn chay, vì họ cho rằng ăn chay có thể bất lợi cho sức 
khỏe của xương. Tuy nhiên, bằng chứng khoa học cho thấy ăn chay không có
 ảnh hưởng tiêu cực đến xương; ngược lại, ăn nhiều chất đạm động vật có 
thể là yếu tố nguy cơ của loãng xương và gãy xương.
Sức khỏe của xương có lẽ phản ảnh chính xác nhất qua mật độ chất 
khoáng trong xương (viết tắt là MĐX) và tần số gãy xương trong một quần 
thể. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học trên thế giới cho thấy MĐX
 ở người ăn chay tương đương với MĐX ở người ăn mặn. Một nghiên cứu do 
các bác sĩ thuộc Trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch thực hiện tại 
TP.HCM năm ngoái cũng cho thấy không có sự khác biệt nào về MĐX giữa 
người ăn chay và ăn mặn.
Ăn mặn dễ gãy xương
Gãy cổ xương đùi là một hệ quả nguy hiểm nhất của loãng xương vì bệnh
 nhân gặp nhiều biến chứng, thậm chí sau khi bị gãy xương khoảng 15-20% 
bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nam, tử vong sau 12 tháng gãy cổ xương đùi.
 Nguy cơ gãy cổ xương đùi ở người ăn chay thấp hơn so với người ăn mặn. 
Một phân tích trên 34 nước trên thế giới cho thấy những nước có lượng 
tiêu thụ đạm động vật nhiều cũng là những nước có tỉ lệ gãy cổ xương đùi
 (hệ quả nguy hiểm nhất của loãng xương) nhiều hơn so với những nước có 
lượng tiêu thụ đạm thấp.
Đứng trên phương diện sinh học, ảnh hưởng tiêu cực của đạm động vật 
đến xương là điều có thể hiểu được. Sức khỏe của xương tùy thuộc vào sự 
cân bằng giữa axit và bazơ. Tất cả thức ăn phải được chuyển hóa qua thận
 dưới dạng axit hoặc bazơ. Khi ăn nhiều chất đạm động vật, cơ thể hấp 
thụ nhiều axit hơn bazơ.
Tăng hàm lượng axit cũng có nghĩa là máu và các mô trong cơ thể trở 
nên “chua” hơn, và để dung hòa tình trạng này hệ thống nội tiết phải huy
 động calcium để đóng vai trò chất bazơ. Vì phần lớn calcium xuất phát 
từ xương nên khi cơ thể huy động calcium cũng có nghĩa giảm chất khoáng 
trong xương, dẫn đến hệ quả giảm sức mạnh của xương và làm xương dễ bị 
gãy.
Ít bệnh “thời đại”
Ba nhóm ăn chay
Danh từ “ăn chay” đối với người Việt chúng ta là chế độ ăn uống không
 có đạm động vật, nhưng với người phương Tây có đến ba nhóm ăn chay. 
Nhóm thứ nhất là ovo-lacto gồm rau, đậu, hạt, trứng và bơ sữa. Nhóm thứ 
hai là lacto, cũng có chế độ ăn uống như nhóm ovo-lacto nhưng không ăn 
trứng. Nhóm thứ ba là vegan, hoàn toàn không ăn đạm động vật, có lẽ là 
nhóm gần như ăn chay theo cách của người Việt hay các tu sĩ Phật giáo 
đại thừa.
Rất nhiều nghiên cứu khoa học trong 20 năm qua đều cho thấy ăn chay 
có lợi cho sức khỏe, vì giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến “hiện 
đại hóa” như tim mạch, tai biến mạch máu não, đái tháo đường và ung thư.
Chế độ ăn chay do sử dụng nhiều rau quả thường chứa ít chất béo và 
cholesterol hơn chế độ ăn mặn. Chất béo và cholesterol là hai yếu tố 
nguy cơ của bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư. Do đó, có nhiều 
nghiên cứu khoa học cho thấy người ăn chay ít mắc bệnh tim mạch, đái 
tháo đường và ung thư hơn những người ăn mặn.
Trong một nghiên cứu trên 47.000 người Mỹ, nhóm ăn chay có nguy cơ 
mắc bệnh tim mạch thấp hơn nhóm ăn mặn khoảng 20%. Ăn chay và ăn nhiều 
rau quả còn giảm nguy cơ tai biến mạch máu não đến 22%. Ngoài ra, ăn 
chay còn giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ruột và phổi so với ăn mặn.
Một nghiên cứu khác trên 26.000 người Mỹ cho thấy người ăn chay có tỉ
 lệ mắc bệnh đái tháo đường thấp hơn người ăn mặn khoảng 25%. Vì chế độ 
ăn chay có chỉ số glycemic thấp nên ăn chay còn được xem là một liệu 
pháp điều trị bệnh đái tháo đường. Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 
652 bệnh nhân đái tháo đường, các bác sĩ cho bệnh nhân ăn uống có hàm 
lượng chất béo rất thấp (dưới 10% năng lượng, tức như ăn chay) và họ ghi
 nhận ở những bệnh nhân được điều trị bằng insulin, 40% không cần đến 
insulin nữa; trong số bệnh nhân điều trị do chỉ số glycemic thấp, 71% 
không cần tiếp tục điều trị.
Trong cùng thời gian, nồng độ đường trong máu giảm 24%, cholesterol 
giảm 30%. Ảnh hưởng của chế độ ăn chay đến các chỉ số lâm sàng liên quan
 đến bệnh đái tháo đường tương đương ảnh hưởng của các thuốc thông dụng 
trên thị trường. Vì ăn chay chẳng tốn kém gì nhiều nên hiệu quả kinh tế 
của ăn chay có phần cao hơn so với một số thuốc điều trị bệnh đái tháo 
đường.
Quay về truyền thống
Trong một nghiên cứu về ảnh hưởng của ăn chay đến bệnh viêm thấp 
khớp, các nhà nghiên cứu Na Uy chia bệnh nhân thành hai nhóm: nhóm ăn 
chay và nhóm ăn mặn. Sau 12 tháng theo dõi, bệnh trạng nhóm ăn chay giảm
 rõ rệt, trong khi nhóm ăn mặn không có thay đổi đáng kể. Dù cơ chế ảnh 
hưởng của ăn chay đến bệnh viêm thấp khớp chưa được hiểu rõ, nhưng có 
thể lý giải vì chế độ ăn chay hạn chế năng lượng, đạm và một số chất 
khoáng có chức năng ức chế hệ thống miễn dịch, và ức chế hệ thống miễn 
dịch là một phương án điều trị các bệnh tự miễn, nên ăn chay có thể đem 
lại lợi ích cho bệnh nhân viêm thấp khớp.
Nói tóm lại, bằng chứng khoa học cho thấy ăn chay có lợi cho sức 
khỏe. Thật ra người ăn chay tính trung bình có tuổi thọ cao hơn người ăn
 mặn. Các nghiên cứu mới nhất gợi ý rằng ăn chay còn có thể là một 
phương án thực tế để điều trị bệnh đái tháo đường và viêm khớp xương.
Trong vài năm gần đây tỉ lệ béo phì trong dân số nước ta ngày càng 
tăng. Theo nghiên cứu dịch tễ học, tại TP.HCM cứ ba người tuổi trên 40 
thì có một người béo phì. Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ ở Mỹ và các 
nước châu Âu! Béo phì là một yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường và 
tim mạch. Một xu hướng và cũng là một nghịch lý đáng quan tâm là ở các 
nước Âu Mỹ, bệnh đái tháo đường thấy ở những người lao động có thu nhập 
thấp, thì ở nước ta bệnh này tập trung ở những người giàu có, thu nhập 
cao.
Xu hướng “Tây hóa” (như ăn uống với nhiều chất đạm động vật) có thể 
là một yếu tố góp phần vào tình trạng đáng ngại này. Đã đến lúc chúng ta
 quay về với chế độ ăn uống truyền thống (gạo, rau quả) hơn là nhiều 
chất đạm động vật.
 (Theo TTO)