II. PHẦN KÍNH PHỤNG DI GIÁO
Ý Nghĩa Của Nội Dung
Nay nên nói tổng quát về ý nghĩa nội
dung của sách này, tức của 9 tiểu phẩm:
Một, kinh Di giáo nói Phật diệt độ rồi thì Giới là Thầy; Giới ấy là
pháp thân còn mãi của Phật; và hành trì thì phải "bất phóng dật": đó là
giáo huấn tối hậu của Phật.
Hai, kinh Bát đại nhân giác thì luận Phân biệt công đức nói "bát đại
nhân niệm" (Chính 25/51); tôi chắc 8 điều giác ngộ kinh này nói, vốn
được tuyển tập như trường hợp kinh Pháp cú: sự quan trọng của 8 điều ấy
là ở đó.
Ba, văn Khuyến phát bồ đề tâm nói về chí nguyện của người xuất gia,
mà quan trọng nhất là chí nguyện làm cho Phật pháp tồn tại.
Bốn, Phát bồ đề tâm, giảng giải thật rõ, theo luận học, về sự phát bồ
đề tâm.
Năm, văn Cảnh sách thì nổi bật nhất khi nói "người xuất gia là cất
bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác
hẳn thế tục"; "trong lòng tự kỳ hẹn cho mình phải làm trụ cột cho Phật
pháp, làm gương mẫu cho tương lai"; "cưỡng lại mà tự làm chủ tể, đừng
thí thân theo tánh tình con người của mình".
Sáu, Tỳ ni thì nguyện "nghịch lưu", chính nơi đời sống này mà diệu
hóa nó ra, và căn bản là phải biết 5 đức tính "một là phát tâm xuất gia,
vì cảm bội Phật pháp; hai là hủy bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y; ba
là cát ái từ thân, vì không còn thân sơ; bốn là không kể thân mạng, vì
tôn sùng Phật pháp; năm là chí cầu đại thừa, vì hóa độ mọi người. Trên
đây là ý nghĩa nội dung của 6 tiểu phẩm thuộc loại "phù trì của Sa di
giới và Sa di ni giới".
Bảy, Sa di luật nghi thì nói về 10 giới luật và 24 uy nghi cho Sa di.
Tám, Sa di ni luật nghi thì nói về 10 giới luật và 22 uy nghi cho Sa di
ni. Chín, Sa di luật nghi lục yếu cũng nói về giới luật và uy nghi cho
Sa di và Sa di ni.
Nhân tiểu phẩm này, cũng nên biết danh từ Sa di mà xưa nay dùng, tôi
cũng dùng, hầu hết vốn chỉ cho cấp bậc Sa di, tức gồm cả Sa di và Sa di
ni. Và trên đây là nội dung ý nghĩa của 3 tiểu phẩm thuộc loại "chủ yếu
của Sa di giới và Sa di ni giới".
Mục Đích Nội Dung Ấy
Mục đích chính yếu, và có thể nói là duy nhất của Sa di giới và Sa di
ni giới là để trở thành Tỷ kheo hay Tỷ kheo ni. Giới pháp cấp bậc Sa di
đòi hỏi cấp bậc này về làm thì làm đúng phần Sa di, mà còn làm theo Tỷ
kheo trong một số việc cần tập trước; về biết cũng vậy, phải biết đúng
phần Sa di mà còn phải biết một số điều cần biết trước về Tỷ kheo. Sa di
đối với Tỷ kheo như vậy, thì Sa di ni đối với Tỷ kheo ni, dầu còn cách
cấp bậc Thức xoa, cũng vẫn phải như vậy. Vì phải là Tỷ kheo hay Tỷ kheo
ni mới là Tăng số, là Tăng bảo trong Tam bảo, và người xuất gia, cuối
cùng, phải đứng vào Tăng số ấy.
Nhưng trách nhiệm của ai quan trọng nhất trong mục đích nói trên? Ai
là người có trách nhiệm làm cho cấp bậc Sa di trở thành cấp bậc Tỷ kheo?
Người đó chính là vị Thầy. Giới luật không cho ai chưa thọ đại giới mà
được coi đến đại giới. Như vậy làm sao cho cấp bậc Sa di có đủ tư cách
thọ đại giới, làm sao bảo đảm họ có tư cách ấy, thì đó là nhiệm vụ của
vị Thầy. Khi chung thẩm về tư cách này thì chính vị thầy làm với sự cộng
tác bởi 10 vị Tỷ kheo là ít nhất. Việc tự bảo đảm có tư cách thọ đại
giới hay chưa, hay không, thì bản thân cấp bậc Sa di không thể tự làm mà
được tín nhiệm và chấp thuận. Vị thầy quan trọng như vậy nên Ngủ phần
luật nói, "Thầy thương trò như con, trò trọng thầy như cha, siêng năng
dạy bảo thì có thể làm cho Phật pháp rộng ra và còn mãi"
(Chính 22/110).
Tài Liệu Và Mục Lục
Tài liệu được sử dụng trong sách này khá nhiều, và được ghi rõ nơi
mấy trang đầu tiên của các bản dịch giải mỗi tiểu phẩm. Nên ở đây không
cần kê lại. Ở đây chỉ kê 3 tài liệu sử dụng nhiều nhất và 1 tài liệu sử
dụng ít thôi, nhưng có ký hiệu cần biết trước, đó là:
Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu. Ký hiệu là Chính, thí dụ
Chính 1/100, là Đại tạng ấy, tập 1, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng
trên giữa dưới, nhưng sách này không ghi rõ khoảng ấy và dòngchữ.
Tục tạng kinh bản chữ Vạn. Ký hiệu là Vạn, thí dụ Vạn 1/100 là
Tục tạng ấy, tập 1 tờ 100. Mỗi tờ có 2 mặt a và b, mỗi mặt có 2 khoảng
trên dưới, nhưng sách này cũng không ghi rõ những chi tiết ấy.
Phật học đại từ điển của Đinh Phước Bảo. Ký hiệu là Bảo, thí
dụ Bảo 100, là đại từ điển ấy, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên
giữa dưới, và dĩ nhiên có từ. Nhưng sách này cũng không ghi những chi
tiết ấy.
Phật học nghiên cứu thập bát thiên, của Lương Khải Siêu. Sách
có 18 bài. Ký hiệu là Siêu 1/10, tức sách ấy, bài 1 trang 10. Nay nói
đến mục lục. Đáng lẽ mục lục phải làm đủ chi tiết. Nhưng mục lục đầu 2
tập của sách này chỉ ghi tên 9 tiểu phẩm. Còn mục chi tiết thì ghi thành
trang đầu tiên khi dịch giải mỗi tiểu phẩm.
Thần Chú Để Giữ Giới
Muốn giữ giới, bất cứ giới phẩm nào, Luật tạng dạy phải "thiểu dục
tri túc", ít ham muốn, biết vừa đủ; lại dạy thêm 1 hạnh nữa là "tàm
quí", tự hổ thẹn, hổ thẹn người. Nay tôi xin trích 4 câu sau đây, và gọi
đó là "thần chú giữ giới" - trích trong Chính 24/951:
"Ði như Phật đi, đứng như Phật đứng, nhìn như Phật nhìn, nói
như Phật nói".
Trí
Quang
Phần Kính Phụng Di Giáo
Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca mâu ni phật, cùng Phật bảo khắp cả
pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết
bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỷ
kheo trong đêm Phật sắp Niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới.
- Kính lạy Ðức Thế Tôn,
biển công đức vô thượng,
thương xót độ chúng sinh,
nên con xin qui mạng.
Pháp tạng sâu và sạch,
tăng tiến cho hành giả
bằng pháp thế xuất thế,
con xin lạy tất cả.
Nay con nguyện thọ trì
Pháp tạng ấy của Phật,
để biết đạo phương tiện
của Bồ tát tu tập.
Biết đạo phương tiện ấy
thì Phật pháp trường tồn,
diệt trừ lỗi phàm thánh,
thành tựu lợi tự tha.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết bàn (cũng gọi là kinh
Giáo huấn để lại củaPhật)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên
hóa độ tôn giả Kiều trần như, thuyết pháp lần cuối cùng hóa độ tôn giả
Tu bạt đàla. Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Hôm nay,
trong rừng Sa la, giữa cây song thọ, Ngài sắp niết bàn. Bấy giờ là lúc
giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đãvì các đệ tử
mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp.
Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng
tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng
ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như lai ở
đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy.
Giữ tịnh giới thì các thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa
đất nhà, nuôi người, tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh
tài bảo. Tất cả việc này, hãy tránh như tránh hố lửa. Kể cả việc chặt
phá cỏ cây và đào cuốc đất đai. Những việc chế thuốc thang, coi bói
tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch số, đều không thích hợp
với các thầy. Các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng
cách sống trong sạch, không được tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc.
Chú thuật, thuốc tiên, giao hảo quyền quí, và thân thiết với họ, rồi hèn
hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm. Phải tự đoan tâm, chánh niệm
cầu độ. Không được che giấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng.
Đối với bốn sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ
được hiến cúng thì không nên tích trữ.
Đó là Như lai nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới thì chính thuận với
căn bản của sự giải thoát, nên Như lai mệnh danh Ba la đề mộc xoa. Nhờ
giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ.
Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu
sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới
thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ
yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức.
Các thầy Tỷ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác
quan, không cho phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu,
cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người.
Phóng túng năm thứ giác quan, thì không những chỉ có năm thứ dục lạc, mà
có thể sẽ không còn giới hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa
hung hãn mà không được chế ngự bằng giây cương, thì sẽ mang người lao
xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời, còn giặc giác quan họa
đến nhiều kiếp: tai hại rất nặng, các thầy không thể không cẩn thận.
Thế nên người có trí thì chế ngự mà không theo, giữ như giữ giặc, không
cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng không bao
lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.
Các thầy Tỷ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các
thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn
độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ
cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy
bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác gì voi điên mà không
có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà
ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng
túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một
chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy nỗ lực
tinh tiến mà chiết phục tâm mình.
Các thầy Tỷ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống
thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể cho khỏi đói
khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn thương hương sắc,
người xuất gia cũng vậy. Thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát
thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Hãy
bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của mình chịu đựng
nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực.
Các thầy Tỷ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để
thì giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải
tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do
ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi. Hãy nhớ
ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ
nghỉ. Giặc phiền não thường rình giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có
thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm, cũng như
rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ
giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ.
Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn.- Sự hổ thẹn là phục
sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có
năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy
Tỷ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm
thời mà thôi, được phép quên mất đức tính ấy. Mất hổ thẹn là mất công
đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn thì không khác gì cầm
thú.
Các thầy Tỷ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các
thầy cũng phải tự kềm chế tâm mình, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy
miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là
tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Đức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ
hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn mới được mệnh danh là bậc
thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một
cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người
nhập đạo có trí. Tại sao, vì giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện pháp và
danh tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn. Sự giận dữ hơn
cả ngọn lửa ác liệt, vì thế mà các thầy phải đề phòng một cách thường
trực, đừng cho xâm nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi
hơn giận dữ. Thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo,
không có phương pháp để tự khống chế, thế nên giận dữ thì còn có thể tha
thứ được. Còn người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà
giận dữ thì thật bất đáng ; không khác gì giữa bầu trời mây trong mát mà
sấm sét lóe lửa là điều không thích hợp.
Các thầy Tỷ kheo, hãy tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt
đẹp, mình mặc áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống; tự
thấy như vậy mà kiêu ngạo còn nổi lên, thì phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng
thêm kiêu ngạo là điều mà thế nhân còn không nên có, huống chi người
xuất gia nhập đạo là kẻ vì giải thoát, tự giáng mình xuống mà đi khất
thực?
Các thầy Tỷ kheo, tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế
nên các thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ
để dối trá, mà người nhập đạo thì không thể như vậy. Vì thế mà các thầy
cần phải ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính chất trực làm căn bản.
Các thầy Tỷ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu
lợi nên khổ não cũng nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu hồ, không dục
vọng, nên không có cái họa đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn
cũng đã phải thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức.
Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người,
cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn thì
lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa thải, không
bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có niết bàn. Đó là
hạnh ít ham muốn.
Các thầy Tỷ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự
biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết
vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở
thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết
vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì luôn luôn bị cả năm thứ
dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Đó là hạnh
biết vừa đủ.
Các thầy Tỷ kheo, muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, thì các thầy
hãy thoát ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái.
Người ở yên tĩnh thì chúa trời Đế thích và chư thiên đều tôn kính. Vì
thế mà các thầy hãy thoát ly đồ chúng của mình, và đồ chúng của người, ở
đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng "tư duy tu" mà cắt đứt gốc rễ đau
khổ. Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị đồ chúng quấy phá, như cây đại thọ mà
cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy. Thế gian ràng
buộc mà chìm ngập thống khổ, thì cũng không khác gì voi già mà sa xuống
bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát.
Các thầy Tỷ kheo, nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó khăn. Thế
nên các thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước nhỏ mà chảy mãi
thì có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế
bỏ, thì cũng như kéo lửa chưa nóng mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa,
lửa cũng khó mà có được. Đó là hạnh tinh tiến.
Các thầy Tỷ kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện
hỗ trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm thì
giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn
tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm là mất công đức.
Nếu chánh niệm có sức lực vững mạnh, thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ
dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo
giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh không quên chánh
niệm.
Các thầy Tỷ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định.
Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của
vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập
thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp
đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập
thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.
Các thầy Tỷ kheo, có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh
và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh
pháp của Như lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Không như
thế thì đã không phải xuất gia, lại không phải thế tục, không còn biết
gọi là gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh
lão bịnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược
cho mọi kẻ bịnh tật, là búa sắc chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy
hãy dùng cái tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi
chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Đó là hạnh trí
tuệ.
Các thầy Tỷ kheo, nếu hý luận đủ thứ thì tâm trí rối loạn. Như vậy,
tuy đã xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy
từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái
vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái họa hý luận. Đó là
hạnh không hý luận.
Các thầy Tỷ kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên
nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện lòng
đại bi, Như lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy
chỉ còn nỗ lực mà thực hành. Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng,
hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái, trong tịnh thất
nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên mất. Hãy
tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình
sẽ chết đi một cách vô ích, vàsau này sẽ phải lo sợ hối hận. Như lai như
vị lương y, biết bịnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi
của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt,chỉ dẫn đường tốt cho
người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn
đường.
Các thầy Tỷ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào
thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu
giải đáp. Thế tôn nói lên ba lần như vậy, nhưng không ai chất vấn. Vì lẽ
chư Tăng không có ai còn hoài nghi gì nữa. Bấy giờ tôn giả A nâu lâu đà
quán sát tâm trí chư Tăng, rồi thưa với Ngài, bạch Ðức Thế Tôn, mặt
trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng
bốn chân lý mà Ðức Thế Tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi được.
Ngài dạy khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên; tập là nguyên
nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; diệt là khổ
diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt thì kết quả cũng diệt ;
đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác
hơn. Bạch Ðức Thế Tôn, đối với bốn chân lý,các vị Tỷ kheo đây đã
quyết định, không còn hoài nghi gì nữa.
Chư Tăng lúc ấy, những người tu học chưa hoàn tất, thì thấy Phật diệt
độ hãy còn bi cảm. Những người mới vào chánh pháp, nghe Phật nói liền
được hóa độ, như trong đêm tối mà điện chớp sáng là thấy ngay đường đi.
Còn những người tu học đã hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ
rằng, Ðức Thế Tôn diệt độ sao mà mau chóng như vậy.
Do đó, tôn giả A nâu lâu đà tuy đã bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng
thấu triệt bốn chân lý, nhưng Ðức Thế Tôn muốn làm cho tất cả đều được
kiên định, nên vẫn đem tâm đại bi mà huấn dụ thêm nữa. Các thầy Tỷ kheo,
không nên buồn rầu ; nếu Như lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, thì
sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã. Kết hợp mà không tan rã là điều
không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ. Như lai sống
cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hóa độ,
thì ở trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như lai đã hóa độ tất cả. Ai
chưa thể tiếp nhận hóa độ, thì Như lai cũng đã tạo yếu tố hóa độ cho
họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế
là pháp thân của Như lai thường trú bất diệt.
Thế nên, các thầy Tỷ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển
biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả. Ngược lại,
cuộc đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ,
đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh,
không một thứ chi bền bỉ. Như lai được diệt độ thì cũng như trừ được
cơn bịnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ,giả hiệu là thân thể
mà lại chìm ngập trong biển cả già bịnh sống chết, như thế người có trí
tuệai lại không hoan hỷ khi trừ bỏđược thân này như trừ bỏ kẻ thù?
Các thầy Tỷ kheo, hãy thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải
thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động, đều là
trạng thái bất an và tan rã. Thôi, các thầy hãy yên lặng, không nên nói
nữa. Thì giờ sắp hết, Như lai muốn diệt độ. Trên đây là những lời giáo
huấn tối hậu của Như lai.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Đệ tử chúng con
kính tụng di giáo
của Ðức Thế Tôn
lúc sắp niết bàn.
Kinh Di giáo này
là pháp tối thượng
trong những khả năng
duy trì Phật pháp.
Đệ tử chúng con
nhờ phước quá khứ
mới được xuất gia
và tụng kinh này.
Nguyện cầu chúng con
giới hạnh an toàn,
lại cầu chư Tăng
giới pháp thanh tịnh.
Làm cho Phật pháp
tồn tại lâu dài,
tự lợi lợi tha,
chứng pháp tối thượng.
Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích ca mâu ni phật, cùng Phật bảo khắp cả
pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp niết
bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới. Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỷ
kheo trong đêm Phật sắp niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới