Nghi thức Tịnh Độ - chương 06
PHÓNG SINH ĐƯỢC PHƯỚC LỚN
(Cố Hy Giai)
Từ xưa đến nay các văn nhân hiền sĩ đều nhờ
trồng căn lành từ kiếp trước, cho nên
khi sinh ra đã có một đoạn đời diệu dụng, nhập thánh siêu phàm. Chẳng giống như
những người không có túc duyên thiện. Không buộc chặt vào công danh phú qúy,
thì cũng quẩn quanh với hầu non thiếp đẹp, làm mai một hết cả căn lành. Tây Hồ
vốn là một cái ao cổ để phóng sinh, về sau lấy chùa Hồ Tâm làm ao phóng sinh.
Bởi không cấm người đến mò đến bắt, cho nên ngay cả ao của
chùa Hồ Tâm cũng chỉ còn là hữu danh vô thực. Năm Vạn Lịch, vùng Tây Hồ có một
vị tú tài là vị danh nhân cực kỳ nổi tiếng, về sau đã trở thành Hòa Thượng hoằng
pháp lợi sinh rất có ảnh hưởng. Người này họ Thẩm tên gọi Chu Hồng, xuất gia với
pháp hiệu là Liên Trì. Cha của chàng lấy hiệu là Minh Tế sử sĩ, vốn là một dòng
họ cao qúy ở Hàng Châu. Chàng lớn lên thông minh mẫn tuệ, hạ bút thành thơ, đi
thi không bao giờ đỗ trước hoặc sau hàng thứ ba. Hai mươi tuổi đã được bổ làm lẫm sinh (1). Công danh có thể
nằm trong tầm tay. Cha mẹ vợ con đều mong đợi chàng đỗ đầu khoa giáp. Thế nhưng chàng lại không hề mảy may để ý đến
công danh.
Thời ấy có vị Hòa
Thượng cao đức, tu hành chứng quả, biết được quá khứ vị lai cho biết rằng:
Kiếp trước chàng
vốn họ Hứa, tên gọi là Tự Hành, làm quan Phủ doãn Phủ Lâm Xuyên, thanh liêm
chính trực, say mê học Kiền trúc (2). Một hôm bỗng bị Minh Ty (3) bắt đi, nhìn
thấy Diêm la Thiên Tử vái lạy tôn lễ pho tượng Vĩnh Minh Thiền
sư. Khi tỉnh dậy, ông bỏ nhà đi tìm. Tìm
đến chùa Tĩnh Từ ở Tây Hồ, Vĩnh Minh Thiền sư
biết rằng y ca sa và bình bát nên
trao cho người này, rồi ngài đã viên tịch trước lưu bài kệ lại cho. Chàng nhìn
thấy kệ, cũng lập tức hóa ngay. Rồi sau đó thác sinh vào nhà Thẩm Trạch. Hai
mươi năm sau, người cha qua đời, vợ là Trương Thị cũng bị bệnh mà chết. Chỉ còn lại bà mẹ là Chu Thị
góa bụa ở nhà nên mẹ đã bắt chàng phải tục thú (4) với Thang Thị. Nàng Thang Thị cũng có duyên với Phật. Buổi sớm mỗi ngày
nhìn thấy chồng tụng xong kinh Kim Cương rồi mới xem sách, làm văn, nàng
cũng hiểu được đời là giả tạo nên không
màng tới danh lộc. Vừa hay đêm giao thừa năm ấy, Hàng Châu làm lễ lớn phân chia
tuổi tác theo tục lệ . Cả nhà già trẻ gái trai
đều tập trung lại uống rượu hoan hô, pháo trúc lưu tinh, sênh chiêng trống
mỏ, ầm ào suốt đêm, gọi là giữ tuổi. Lúc đó Liên Trì cũng theo tục mà làm,
nhưng nghĩ rằng, cha mẹ đều đã mất, người vợ trước cũng đã mất, phong cảnh thê
lương quá. Thật là:
Trong lòng vô hạn thương tình sự
Bất nhẫn bên đèn uống rượu suông.
Thang Thị thấy
trong lòng chàng không được vui, chẳng
thích uống rượu, liền gọi a hoàn pha một bình trà ngon để cùng uống với chồng.
Đâu ngờ “Vật nhỏ xíu đã rơi qua lỗ kim thêu hoa”. A hoàn bưng trà ra, bỗng kêu
lên kinh hoảng:
- Có qủy !
Rồi làm rơi vỡ
tan bình trà. Hai vợ chồng đang nói chuyện vui, nghe thấy ở bên ngoài tiếng kêu
“có qủy!” vội chạy ra nhìn. Quả thấy cái thây thẳng đuỗn, a hoàn nằm lăn dưới đất. Chiếc bình pha trà mà thường ngày
Liên Trì qúy nhất, đã vỡ tan. Liên Trì
nhìn thấy không kìm nổi, sắc mặt giận dữ, nói với vợ:
- Chiếc bình này
ta dùng nó từ lúc ta còn nhỏ, kể đã hơn hai chục năm rồi. Không ngờ lại phân ly
trong đêm hôm nay.
Thang Thị đáp:
- Tướng công ơi,
nên biết vạn vật đều vô thường. Do đó không có duyên nào không ly biệt. Sự
thành hủy của vật làm chi phải để ý tới.
Thật là:
Lời Phật vừa hé mở
Xúc động kẻ từ
tâm.
Liên Trì nghe được
hai câu này, thầm nghĩ:
- Lời nói này của
nương tử chính hợp vơi chí ta lúc bình sinh. Tấm thân hư huyễn thật giống không
hoa, quan âm trăm tuổi nhanh như chớp giật. Hễ nếu vô thường ồ tới khó tránh
phân ly, rồi cuối cùng cũng giống như
chiếc bình kia.
Chàng đứng dậy
cúi gập người, vái vợ một vái, nói:
- Bình trà tuy là
việc nhỏ, nhưng cũng chính là cái mõ gỗ
kêu gọi người mê. Lời nói của nương tử quả thật là một vị sư già hiểu rõ cửa
Thiền. Từ đây ta đã được ngộ, vội tỉnh giấc đời. Nương tử chính là người thầy của
ta. Ý chí xuất gia của ta từ đây đã quyết !
Thang nương tử
nói:
- Lời nói của thiếp
vừa rồi chẳng qua chỉ là có ý bông lơn để khuyên chàng, sao chàng cho là thật
mà muốn xuất gia? Năm nay chàng mới tròn ba mươi tuổi. Chờ đến sau năm mươi,
khi công danh đã toại, việc con cái đã xong, thì hãy nên thi hành việc đó. Còn
bây giờ một việc chưa thành, biết bắt đầu nói từ đâu cho được?
Liên Trì chỉ nói:
- Sự vô thường rất
nhanh chóng, tấm thân khó vẹn toàn.
Tay lại viết bốn
chữ ở trên bàn “Sinh tử đại sự” (5) rồi
không nói gì nữa.
Đã đến lúc gà gáy
canh năm, phương đông dần dần trắng, bữa đó là nguyên đán năm mới. Bà cụ Từ là
người hàng xóm, đã dậy sớm thắp hương, vái lạy thần thánh ở trong nhà, đọc một
hồi kinh Phật, mở xem quyển Tâm kinh xong rồi khóa cửa, bước sang nhà họ Thẩm để
chúc tết. Vừa hay nương tử thấy chồng muốn xuất gia, không còn cách nào lưu giữ, nhân bà cụ Từ sang chơi, liền
đem chuyện đánh vỡ bình trà tối hôm qua kể rõ ràng một lượt, nói:
- Con thấy quan
nhân hôm nay muốn xuất gia, cho nên cảm thấy buồn !
- Ối dào! Điều đó
có gì khó! Đại nương cứ yên tâm mời tướng công ra đây. Già có một lời muốn khuyên
chàng, thì tự nhiên chàng sẽ chẳng xuất gia nữa.
Chỉ thấy Liên Trì
từ bên trong bước ra, đọc một câu chúc tụng cụ Từ. Cụ Từ cười hi hi rồi đáp lễ:
- Thân già này đặc
biệt đến đây vái chào chúc tết tướng công. Chúc tướng công năm nay đại đạt, thi
đỗ cao khôi trong thiên hạ. Vừa nghe thấy đại nương nói, tướng công lại muốn bỏ
nhà đi tu, không biết là thật hay hư?
Liên Trì nói:
- Sinh tử là việc
lớn, nói thì phải làm. Đâu thể là lời giả được.
Cụ Từ nói:
- Nếu quả tướng
công muốn xuất gia thân già này có một câu xin bẩm. Già nghĩ Thái thái sinh ra tướng công, chỉ mong tướng
công làm quan viên tể tướng, rạng rỡ cửa
nhà, xuân thu tế tảo để khỏi tủi thẹn dưới
cửu tuyền. Tướng công làm như vậy có lẽ nào không phải là hư phí sự nuôi
dạy cuả mẹ cha.
Liên Trì đáp:
- Cụ nói phải.
Con xin có một lời tạ tội với thế gian. Xin nói để cụ nghe.
Công ơn sanh dưỡng
Biển thẳm non cao
Gấm vóc trân tu
đáp được nào?
Cha mẹ lìa trần cấu
Đạo con mới thành
tựu !
Ôi chà chà !
Giải thoát xuất
trần nhân lớn lao
Phàm tình đâu đã
hiểu !
Cháu hiền cùng
con thảo
Chân không, lẽ diệu
mau tham cứu !
Bởi thế nên đem
Năm sắc kim
chương xóa sạch làu !
Cụ Từ lại khuyên
giải:
- Xuất thế để trả
ân, tướng công nói có lý! Thế nhưng đại nương mới lấy tướng công cũng chửa lâu,
trong nhà không có người nương tựa, sao nỡ cắt đứt ân tình, vứt bỏ mà đi?
Liên Trì đáp:
- Con đã xuất
gia, cũng không lo gì được nữa. Con lại có một lời nói để cụ nghe:
Vợ chồng duyên đẹp
Loan phượng mến
yêu
Mối giây ân ái
thuở nào tiêu ?
Mộng tình theo lẽo
đẽo
Duyên hết lìa đôi
nẻo !
Ôi chà chà !
Vấn vương vui hết
lại buồn đau
Tam đồ thêm khổ
não !
Xét rõ phá oan
gia
Tìm cửa đạo mầu
mau thóat tháo.
Bởi thế nên đem
Cá nước duyên kia
xóa sạch làu !
Bà cụ lại khuyên:
- Vợ chồng cũng
đã xong! Cổ nhân nói “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”(6) tướng công nếu có được
một nam một nữ thì cũng là xong. Nhưng nay chưa người nối dõi, thế chẳng hóa để
tuyệt nòi giống họ Thẩm hay sao?
Liên Trì đáp:
- Có con hay không có con cũng như nhau cả.
Cụ không biết đó thôi. Để con lại nói cho cụ nghe:
Cháu con đeo đẳng
Như thịt bứu thừa.
Vì con cháu chịu
kiếp trâu lừa !
Họ Đậu non Yên
xưa
Ngày nay còn đâu
nữa ?
Ôi chà chà !
Nghĩ lo trăm kế lại
ngàn mưu
Cũng về nơi Ô hữu
!
Trở lại tánh Bản
lai
Dẫu rằng vạn kiếp
trường xuân hảo !
Bởi thế nên đem
Con cháu kim lan
xoá sạch làu !
Bà cụ lại khuyên:
- Tướng công ! Già nghĩ : ba canh đèn lửa, mười năm bên cửa chịu cơ
hàn, chăm chỉ như vậy, tất nên chiếm lấy đầu ngao, để khỏi uổng phí nam nhi chí
khí. Nếu xuất gia chẳng bị người cười sỉ nhục hay sao?
Liên Trì đáp:
- Công danh là việc chưa tới, sao lại trói buộc thân mình. Con lại có vài câu đọc cho cụ
nghe:
Công danh khoa bảng
Riêng chiếm ngao
đầu
Vui mừng đắc ý buổi
thanh thu !
Ấn vàng ngời tinh
đẩu
Danh đẹp thơm trường
cửu
Ôi chà chà !
Bao nhiêu thanh
thiếu những mong cầu
Tóc xanh thành bạch
thủ !
Khi tỉnh giấc
hoàng lương
Một tiếng cười
khan đời mộng ảo !
Bởi thế nên đem
Quý hiển công
danh xóa sạch làu !
Cụ Từ lại khổ sở khuyên bảo:
- Tướng công đã nói công danh là chuyện vốn
chẳng cần. Thế nhưng nhà cửa, ruộng vườn hiện tại, làm sao có thể vứt bỏ ngay
cho được ?
Liên Trì đáp:
- Thưa cụ, cụ chẳng cần nhận rõ con mang họ
Thẩm. Ruộng đất ngàn năm có tám trăm người chủ. Đó là vật ở ngoài thân, đâu có
phải là trong ý con người.
Thật là:
Của tiền giàu có
Xe ngựa nhà lầu.
Lẫy lừng thanh thế
sánh vương hầu.
Khi cầu nhiều kiếp
khổ
Lúc được lo
nghiêng đổ !
Ôi chà chà !
Đạm thanh biết đủ
thắng trân tu !
Áo gai dường cẩm
tú !
Khoảng trời đất
tiêu dao
Nhà rộng của nhiều
đâu đủ báu ?
Bởi thế nên đem
Tài sản điền viên
xóa sạch làu !
Cụ Từ thấy Liên Trì nói lại, nói đi đều là
lời từ chối. Nhưng cũng thực là những đạo lý lớn. Nên đã nói:
- Tướng công! Những chuyện đó coi như đã
xong. Chỉ là vì tướng công tài cao như
Ban Mã, học giỏi tựa Au Tô, nếu đi tu hành thì thật sự sẽ mai một mất học vấn một
đời.
Liên Trì cười nói:
- Cụ không biết trước mặt Diêm Vương thì
làm gì cần đến “Giả dã chi hồ”. Nói ra
chẳng làm cho cụ mệt phải suy nghĩ hay sao? Thật là:
Cầm kỳ văn họa
Tài sắc phong lưu
Gieo vàng tỏ ngọc
vẻ tươi mầu !
Cờ thi hoa rượu đấu
Cầm ca dìu dặt tấu
!
Ôi chà chà !
Gấm hoa xán lạn
suốt canh thâu
Nhã nhạc lừng
ngưu đẩu !
Già chết chợt đến
nơi
Cấp cứu trầm luân
ai đảm bảo ?
Bởi thế nên đem
Tài sắc văn
chương xóa sạch làu !
Liên Trì lại nói:
- Ý con đã quyết ! Mong cụ đừng nói nhiều
hơn nữa.
Cụ nói:
- Tướng công xuất thế là chân tình, là ý
nghĩ siêu phàm. Sao già này có thể một mình khuyên giải được? Thế nhưng: công
danh phú qúy chỉ làm mệt nhọc xác thân.
Già nghĩ những người xuất thế thì xuân chơi với hoa cỏ, hạ thưởng thức hoa sen, kim cốc lan đình tuyệt ơi đẹp tuyệt
! Chỉ cần tồn giữ hảo tâm, làm nhiều việc tốt, ở nhà cũng có thể tu hành niệm
Phật, dù già cũng có thể sớm tối tu hành, hà cớ gì có phải xuất gia mới được?
Liên Trì nói:
- Cụ vẫn chưa ngộ được, để con nói rõ cho
cụ nghe:
Dạo chơi thắng cảnh
Thu đẹp xuân kiều
!
Túi thi đàn rượu
khắp ngao du !
Non nước vài thân
hữu
Mưa khói mờ hoa
liễu !
Ôi chà chà !
Ráng hồng suối bạc
sánh phong lưu
Đâu nghĩ ngày mai
hậu ?
Sáng tối thoáng
qua mau
Thảng thốt quay đầu
suy, bịnh, lão !
Bởi thế nên đem
Phong nguyệt tình
vui xóa sạch làu !
Cụ Từ bị cuộc nói chuyện với bảy khúc từ,
nói ra miệng ngừng không thể nói gì được nữa. Ngồi mãi hồi lâu, nghĩ rồi lại
nghĩ, liền nói:
- Tướng công! Tuy là như vậy, thế nhưng
nương tử còn niên thiếu, sớm chiều cô đơn triền miên, thật là bất tiện. Cần phải
tính kế nào bền vững lâu dài. Xếp đặt cho nương tử sao thật thỏa đáng. Mong tướng
công nghĩ kỹ cho. Già xin cáo biệt tại đây. Già nói nhiều thì có tội nhiều, tướng
công chớ trách.
Liên Trì nói:
- Thưa cụ, cụ hãy ngồi lại,con còn muốn
bàn thêm.
Liền nói với vợ:
- Ta đã đạp rách võng trần, đập tan bể ái, tự tìm đường
ra. Cuối cùng nàng sẽ ra sao? Cũng mong nàng trợ duyên cho điều ước muốn của
ta.
Thang Thị liền nói:
- Trung thần không thờ hai vua. Liệt nữ chẳng
đổi hai chồng. Nam nữ tuy khác biệt, nhưng đường tu hành chỉ một mà thôi. Chàng
đã đạp rách võng trần,lẽ nào thiếp lại không đem võng trần đạp rách? Chàng có
thể đập tan bể ái, có lẽ nào thiếp chẳng dám đem bể ái đập tan? Chàng đã tìm được
lối ra, lẽ nào riêng thiếp chẳng tự tìm được đường ra một lối? Cũng vẫn là cùng
đến, cùng đi, cùng tu, cùng chứng mà thôi!
Liên Trì nghe nói, vui lắm liền nói với cụ
Từ rằng:
- Con biết cụ chẳng có con trai con gái,
chỉ ở một mình. Hôm nay may có cụ ở đây, cũng là thiện duyên trời cho mượn. Hôm nay con trao nương tử phó
thác cho cụ chăm sóc. Tất cả vườn ruộng cụ đủ độ thân. Chờ ngày con vân du trở
lại sẽ dựng một am Phật lại thắp hương
tu hành.
Rồi đến Đồ Đề học sứ, trả lại khăn đội đầu.
Vị Đồ Đề học sứ kinh ngạc nói:
- Ngươi là một
thiếu niên trẻ trung có tài học, cớ sao lại dùng tới chữ "thoái lui" nhỉ.
Liên Trì đáp:
- Chí hướng của
sinh viên không giống nhau! Nhìn công danh là việc nhỏ, sinh tử là việc lớn.
Nói xong liền bỏ đó, rồi ra về. Đồ Đề học không kìm được,
than thở mãi. Liên Trì thu xếp hành lý, từ biệt ra khỏi cửa, đi theo phía Tây Hồ.
Nhìn thấy hai ngọn núi Nam núi Bắc, vẫn chưa định được hướng đi. Bỗng va phải
nhà sư điên, nhà sư một tay kéo Liên Trì kêu gào ầm ỹ. Liên Trì vội chào hỏi,
nói:
- Đệ tử tuy chưa
xuống tóc, nhưng cũng là người trong cửa Phật rồi.
Vị sư đó nhìn ngắm
rồi mỉm cười nói:
- Đằng sau có người gọi người trở về kìa.
Liên Trì quay đầu
nhìn, thì không thấy nhà sư điên đâu nữa.
Chỉ thấy một mảnh giấy dài nằm ở dưới đất. Nhặt lên thì lại là hai câu thơ:
Đến hang không cửa về đường cũ
Lòng trải mênh mông một chữ thầy!
Liên Trì nhặt tờ thiếp lên, không thấy nhà
sư ấy đâu nữa. Trong lòng nghĩ:
- Hoặc giả là duyên phận của ta nên xuất
gia ở trong hang không có cửa. Vị thánh tăng này đã chỉ dẫn cho ta. Ta nghe nói
ở đằng sau Nhạc Phần có một cái hang không có cửa. Ta nghĩ có lẽ là như vậy
chăng. Còn câu thứ hai thì không có đầu, không có cuối, không tường luận được
ra.
Đem chữ họa ở trong lòng bàn tay rồi lại họa,
liền nói:
- Hiểu rồi! Chia ra bốn chữ để hợp lại
thành hai chữ (7). Hai chữ "tâm sinh chẳng phải là chữ "tính" hay sao ? (8) hai chữ
"nhất đại" chẳng phải là chữ "thiên" hay sao? (9) Tính
thiên chính là thầy của ta. Sao ta không tới hang không cửa để tìm thầy
"Tính thiên" xem hư thực ra sao?
Đi đến đầu Đại Phật, qua Cát Lĩnh, thẳng tới Nhạc Phần đi về phía sau núi quanh co khúc
khuỷu hồi lâu thì đến được Động Vô Môn. Nhìn bốn xung quanh quả nhiên có một ngọn
núi đẹp. Có thơ làm chứng như sau:
Núi chênh vênh nối trời cao chót vót
Nguy nga thon thả tựa chân tiên
Sán lạn như sao sa bơi lội dưới hồ sen
Mở lối cho rồng xanh nằm đỉnh núi
Thái Bạch đề thơ muốn hỏi
Lê tốt tươi sức dư bán cho tiên trời
Sao chẳng được thu về danh và lợi
Sao đến nay duyên chưa tỉnh duyên ơi!
(Hữu diện - Tây Giang
Nguyệt)
Liên Trì ngẩng đầu lên nhìn, trên có một biển đề viết ba chữ "Vô Môn
Động" (hang không cửa). Bên cạnh có một câu đối viết:
Vì sao đường có
tìm đường không
Cửa có rõ ràng cứ
bảo không
Liên Trì đứng ở cửa
hang một lúc, chỉ nhìn thấy cửa liếp
đóng chặt, lạnh lẽo vô thanh, không dám gõ cửa gọi hỏi, chỉ ở bên ngoài trông
ngóng. Bỗng nhìn thấy một vị sư già bước ra mở cửa, người này khoảng bẩy chục
tuổi. Nhìn thấy phong độ Liên Trì, biết ngay là du khách ở trong thành, liền
nói:
- Tướng công! Mời
vào trong ngồi!
Liên Trì vào cửa, trước lễ Phật sau mới ngồi,
liền hỏi:
- Ở Bảo sơn đây có Thiền sư tên gọi là
Tính Thiên không ạ?
- Không dám, chính bần đạo đây.
Liên Trì đứng dậy vái chào. Tính Thiên
không hiểu duyên cớ gì, vội vàng đáp lễ. Liên Trì nói:
- Đệ tử đã từ lâu ngưỡng vọng lão sư đạo đức
vô bờ bến. Đặc biệt đến đây xin được xuống tóc.
Tính Thiên nói:
- Tôi từ Thiểm Tây, Nam Ngũ Đài vân du tới
đây, đã được ba năm rồi, lương thảo chỉ đủ một mình lão tăng dùng, cho nên
không dám tiếp đãi đạo hữu, thu giữ đồ đệ.
Túc hạ là người trong thành hưởng dụng
quá nhiều vật phẩm, làm sao chịu
đựng nổi cảnh giới ở chốn hoang lương
này? Không nói là lão tăng không bằng lòng. Cho dù lão tăng bằng lòng, chẳng phải
là họ hàng giàu có sẽ đến khuyên túc hạ trở về, thì cũng là túc hạ chẳng chịu nổi
cảnh sống, sau này vẫn phải quay về tông tổ. Há không làm tăng thêm một tầng tội
trạng của lão tăng hay sao? Cho nên không thể được.
Liên Trì nghe xong bất giác cười:
- Lời của sư phụ nói cực kỳ chí lý; chính
bởi vì đệ tử bỏ cửa nhà, cắt yêu thương
để đến đây, hoàn toàn vì việc sinh tử đại sự. Chỉ cầu mong sư phụ thế độ cho.
Cũng không dám cầu được trú ở đây.
Tính Thiên đáp:
- Ý niệm của túc hạ đã vững vàng. Ngày mai
lão tăng sẽ xuống tóc cho là được.
Liên Trì lấy chữ Phật Tuệ, suốt ngày nói về
thiền lí với Tính Thiên. Chưa đầy mấy tháng, liền từ biệt Tính Thiên đi ra
ngoài du hành. Đói ăn, khát uống, đi một mạch từ Sơn Đông, Hà Nam, Bắc Kinh, khắp
một vùng rộng lớn. Nghe nói có vị Thiên Dung hòa thượng là một người thông tuệ,
nên đã tìm đến thăm. Hòa thượng Thiên Dung chỉ mới nhìn thấy Liên Trì đã nói:
- Làm phước niệm Phật !
Liên Trì khấu đầu hỏi, liền trả lời:
- Bước chân đi phải bước từng bước vững
vàng.
Lại bảo Liên Trì phải mau mau quay về
phương Nam.
Liên Trì trong tâm chưa hiểu lắm. Nghe tiếng
Tiếu Nham Đại mở lớp giảng, Liên Trì lại tìm đến nhà thăm hỏi. Tiếu Nham Đại cười
nói:
- Chỉ cần người trì giới niệm Phật !
Liên Trì nghe lời nói của hai Pháp sư, suy
nghĩ suốt ngày, mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa. Rồi đi thẳng tới Đông
Xương, nhìn thấy một rừng cây rậm rạp, suối sâu, núi cao, cây cối um tùm, liền
ngồi nghỉ ở dưới một gốc cây to trong chốc lát. Vừa mới nhập định đã nhìn thấy
rất nhiều Phật Tổ đứng ở trước mặt, cũng có người đốt hương, cũng có người chắp
tay vây xung quanh. Lát sau, lại có một đoàn ma thần đứng ở trước mặt, hình thù
quái dị, kẻ cầm dao, người cầm kích, kẻ
cầm giáo, người cầm mâu, vây xung quanh chàng một lượt, rồi lại bỏ đi. Bỗng
nhiên những ma, thần đốt hương, chắp tay đều biến mất. Những hình thù quái dị
kia cũng đều hóa thành Phật cả. Chàng bừng tỉnh dậy mới biết là mình vẫn ngồi ở
dưới gốc cây, nghĩ ngợi, suy xét, hoát nhiên
tỏ ngộ, nói:
- Làm ma hay làm Phật vẫn chỉ ở một cái
tâm. Hà cớ gì phải lật đật tìm kiếm gì ở đâu xa.
Nói đoạn lại làm một bài kệ:
Hai chục năm qua chuyện đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sự kỳ
Đốt hương, lao kích, hồn như mộng
Ma, Phật tranh giành những thị phi!
Đọc xong câu kệ liền đứng dậy, khoác hành
lý đi về phương nam. Đi được mấy ngày thì tới Nam Kinh, thân sức cảm thấy có
chút mệt mỏi. Từ phía xa đã nhìn thấy hai nhà sư đi tới, không cưỡng được, đành
đi theo. Lại thấy hai nhà sư đến trước mặt hỏi thăm đường:
- Trưởng lão đi về đâu?
Liên Trì đáp:
- A di đà Phật. Tôi muốn đi về phương nam.
Du tăng đáp:
- Bần tăng cũng muốn đi về phương nam.
Chúng ta cùng đi. Trên đường càng vui. Không biết trưởng lão có muốn cùng đi không?
Liên Trì đáp:
- Cùng đi là tốt nhất!
Rồi họ cùng đi
hai ba dặm đường.
Liên Trì quẩy
gánh không sao đi kịp hai nhà sư đi không. Hai nhà sư liền bước lên nói:
- Chúng tôi thấy
trưởng lão đi đường vất vả, hành lý rất khó khăn. Chi bằng để chúng tôi gánh
giúp trưởng lão một vai. Một là để vai của trưởng lão được nhẹ nhàng. Hai là để
trưởng lão kịp thở. Ngày mai ta lại cùng đi. Chẳng hơn là cứ diễn ra quang cảnh
này, mà lại có thể làm nhỡ mọi người trong lúc đi đường.
Liên Trì thấy nhà
sư nói khẩn thiết, liền nói:
- Đường đi gian
nan vất vả, ai cũng vậy thôi. Sao lại để khó khăn cho pháp huynh được.
Nhà sư kia đáp:
- Cùng là người
trong một hội, làm gì phải phân rẽ anh tôi? Chẳng qua chỉ là gánh giúp trưởng
lão vài bước, tiếp thêm sức, khi mệt dừng lại, trưởng lão lại gánh tiếp.
Liên Trì cũng
không nghi ngờ gì, liền đưa hành lý cho nhà sư gánh đỡ. Vừa mới tiếp lên vai,
nhà sư kia liền du Liên Trì ngã uỵch xuống đất, rồi chạy nhanh như một mũi tên
bật khỏi cung bay đi không ai đuổi kịp. Liên Trì cứ kêu gọi, than thở mà họ
cũng không quay đầu trở lại, họ đi mất.
Liên Trì giãy giụa
hồi lâu, không nhìn thấy bóng dáng họ nữa, trong lòng rất hối hận, buồn rầu, lo
lắng, không biết ngủ ở đâu, rồi bước những bước mệt nhọc lên đằng trước. Tìm gặp
được một khu rừng rậm trên viết chứ "Ngõa Quan Tự" (Chùa Ngõa Quan),
liền bước vào nghỉ tạm mấy hôm. Từ trong chùa Ngõa Quan có hai nhà sư bước ra,
thấy Liên Trì đến chỉ có người không, bất đắc dĩ phải cho nghỉ lại vài hôm. Đột
nhiên, Liên Trì ốm nặng. Hai người sư đồ liền bàn bạc, lập ra một kế, giả vờ
nói với Liên Trì: - Ngày mai có một trai chủ cần đến tĩnh dưỡng ở đây. Người ấy
đến nhất định sẽ làm phiền trưởng lão nhiều. Để tôi dìu trưởng lão đến một nơi
tương đối yên tĩnh một chút, lại dễ chữa bệnh.
Hai sư đồ dìu Liên
Trì đến dưới chân tượng Thần Kim Cang, đặt trên nửa chiếc chiếu cỏ, tiếng gió gào rít lạnh thấu xương,
tuyệt không có một ai ra vào chăm sóc.
Liên Trì sa vào cảnh
đó, không biết làm cách nào. Có một đạo nhân ở trong chùa nhìn thấy, cảm thấy bất
an, liền nói:
-Mạng sống con người ở trần thế là quý báu nhất. Vị
Hòa Thượng này đang bị ốm ở đây, không người chăm sóc. Trước mắt thấy mạng sống
đang mất dần ở dưới chân tượng Thần Kim Cang. Ta phải đem một chén thuốc sắc
cho người này uống. Đó mới là hạnh từ bi của người con Phật. Rồi lập tức bốc sắc
thuốc, đưa đến Liên Trì nói:
- Thưa sư phụ!
Người có thể uống được thuốc không?
Liền đưa thuốc
cho nói:
- Nằm ngủ ở dưới
đất lạnh thế này, uống thuốc vào cũng ấm nóng được ngũ tạng.
Liên Trì nhận
thuôc nói:
- Cảm ơn lòng tốt
đã nghĩ đến, và xin đạo nhân đến chỗ Thẩm lão gia trong Lễ bộ nhắn tin rằng Hòa
thượng Liên Trì Hàng Châu bị ốm ở đây. Xin đa tạ!
Đạo nhân nghe
nói, giật mình
- Ồ té ra Ngài là Liên Trì lão gia! A di
đà Phật ! Sao không nói sớm để tránh khỏi sự
khổ sở thế này. Hai ba ngày trước Thẩm Lễ bộ đã đến khắp các Miếu, Đền,
Chùa, Viện để tìm ngài! Hóa ra ngài ở đây ! Thật là bất kính! Bất kính! Để tôi
đi báo cho!
Thật là:
Hạn lâu được mưa ngọt
Xa quê gặp cố tri !
Bạn có biết Thẩm Lễ Bộ là ai không? Chính là Hàng Châu Thẩm
Tam Châu, là anh của Liên Trì. Ngài đâu biết được Liên Trì vân du tới đây. Mấy
hôm trước có hai sư đồ cướp hành lý của
Liên Trì, chia của không công bằng, cải cọ đánh nhau rồi bị đưa đến cửa nhà Lễ
Bộ. Thẩm Công nhìn thấy hai nhà sư tranh nhau một cái túi đựng chăn, một người
kêu "giữa đường bị nó cướp mất", một đứa nói "đánh bạc thua được
người ta gán cho". Hai người tranh nhau mãi không chịu. Thẩm Công nói:
- Đem túi chăn tới đây, ta xem sẽ rõ!
Liền sai nha dịch đem túi chăn đến để khám
xét, trong có một tờ độ điệp, xem tên là ai, liền biết, nên mới có sự tìm kiếm
đó, trên độ điệp viết rằng:
"Cấp cho nhà sư Chu Hồng ba mươi hai
tuổi, huyện Nhân Hòa, phủ Hàng Châu được tới các nơi hành đạo, để khi đi qua cửa quan, cửa khẩu
không ai được cản trở. Độ điệp này phải được nha môn huyện dịch nghênh tiếp.
Chuẩn thử"
Thẩm Công xem xong, biết là người anh em
nhà mình liền giận dữ quát:
- Túi chăn này rõ ràng là của Thẩm Liên
Trì, hai tên nô trọc này, lấy được từ đâu? Liên Trì hiện đang ở đâu? Nếu khai
giả mạo một chữ lập tức sẽ bị tội chết !
Hai tên lừa đảo nhanh miệng nói liếng thoắng
ấy, nghe lời Thẩm Bộ nói, giống hệt như gặp được rồng beo, liền nói như thể
xương tóc dựng thẳng lên.
- Lạy quan gia! Vị Liên Trì này là sư phụ
của chùa chúng con. Bởi thương chúng con nghèo hèn không đủ tiền mua độ điệp,
nên đã cho chúng con mượn để làm bùa hộ mệnh. Còn Liên Trì, hiện đang ở Hàng
Châu.
Thẩm Công nói:
- Hai tên nô tài nói bậy! Chẳng phải là
các ngươi lừa đảo định đoạt của hại người đó sao! Nhốt ngục, xét hỏi sau!
Rồi lập tức sai người đi khắp bốn phương
tìm kiếm tin tức của Liên Trì. Cho nên
chùa Ngõa Quan này cũng có người đến hỏi. Trong lòng đạo nhân đã hiểu. Cho nên chỉ nghe thấy hai
tiếng Liên Trì, đã vui vẻ cất gót đi ngay. Đến Lễ Bộ nha môn liền nói cho Trưởng
ban biết là Liên Trì đang ở chùa Ngõa Quan. Thẩm Công nghe tin báo lập tức đánh
kiệu tới chùa Ngõa Quan. Thật là buồn cười. Hai sư đồ chùa Ngõa Quan đang ở đó
bàn bạc: Nhà sư ốm hôm qua dìu tới đây,
tuy không liên quan gì tới việc của ta. Nếu đã chết rồi thì cũng liên lụy lâu đấy!
Nói chưa hết lời, đã thấy vị đạo nhân kia,
hớt hơ hớt hải, thân đẫm mồ hôi, chạy vào chùa. Hai sư đồ không biết đạo nhân
vì việc ấy mà hoảng sợ. Đạo nhân liền nói:
- Các người còn chưa biết Hàng Châu Thẩm
Liên Trì lão gia trú ngụ ở đây sao? Lễ Bộ sắp tới chùa đây thăm ngài đó.
Hai người sư đồ liền mắng rằng:
- Mi chỉ là tên đạo
nhân điên dại, chớ có nhìn thấy quỷ! Trong chùa chúng ta làm gì có ai là Liên Trì ở đây! Thật là hoang đường!
Đạo nhân cười
nói:
- Ở đây mà! Ta đã
biết rồi mà!
Hai sư đồ nói :
- Nếu quả ở đây
thì mau đi mời người tới phương trượng. Nếu Lễ Bộ lão gia đến vái thì cũng dễ
tiếp đón ngài. Thế bây giờ người ở đâu?
Đạo nhân lại nói:
-Ở đây mà!
Hai sư đồ phát bực
lên nói:
- Ở đây là ở đâu?
Đạo nhân chỉ xuống
chân tượng Thần Kim Cang nói:
- Hôm trước người
được dìu đến đây, có phải không?
Hai sư đồ nghe
nói vậy, hoảng sợ đến nỗi ngây mặt không
còn biết nói gì. Đồ đệ nói:
- Việc không nên
chậm trễ! Tôi đã nghĩ ra một kế rồi, mau đi mời Liên Trì lão gia tới đây, cho nằm
nghỉ ở trên phòng, rồi đành làm khổ nhục kế vậy. Đành cúi đầu van lạy cầu xin người nói một lời trước mặt Thẩm
lão gia. Hoặc nếu là người xuất gia từ bi sẽ khoan thứ cho bọn ta cũng chưa biết
chừng.
Sư phụ nói:
- Chính phải!
Liền bước tới
chân tượng Thần Kim Cang, dập đầu vái lạy:
- Chúng con mắt
mù, không nhìn thấy Thái Sơn nên đã nhầm lẫn phút chốc, đã đưa lão gia chuyển tới
đây, tội đáng vạn lần chết! Nay nghe nói Lễ Bộ lão gia tới đây vái chào, xin cầu
mong lòng từ bi.
Cứ cúi gập đầu
vái lạy mấy chục lần.
Liên Trì nói:
- A di đà Phật !
Tôi là người tu hành không để ý tới điều nhỏ nhặt ấy đâu.
Hai thầy trò sư đồ
mời Liên Trì bước vào, lên lầu trên nghỉ ngơi. Một người pha trà Lục An thượng
hiệu Mao Tiên Trà đem tới mời Liên Trì uống. Một người hun nóng chăn thơm đưa
cho Liên Trì đắp. Đang sắp sửa bận rộn đã nghe tiếng Thẩm Lễ Bộ tới cửa chùa.
Sư trú trì ra ngoài cửa đón vào. Hai nhà sư ỷ thế lực ấy, kinh sợ tới mức hai
hàm răng va lập cập, hai chân đá vào nhau, chờ đợi Liên Trì gặp Thẩm Công. Sau
khi uống hai cốc trà, không nói lời nào rồi mới đặt Thạch xưng trùy xuống!
Thẩm Công nhìn thấy
người em bệnh tình quá nặng, liền gọi sư chủ đến, căn dặn:
- Chăm chỉ coi
sóc, ngày lão gia khỏi bệnh sẽ được trọng thưởng. Sư chủ nhận mệnh đi ra, Thẩm Công liền nói đến việc bắt được hai tên sư
hôm nọ, rồi thấy độ điệp như thế nào, kể hết cho em nghe.
-Chẳng biết là chăn áo của đệ như thế nào, lại rơi
vào tay hai tên tặc ấy. Nay vẫn còn giam chúng ở đó, chờ bệnh của đệ khỏe mạnh,
sau khi đối diện chất vấn thì sẽ đem giết chúng ngay!
Liên Trì nói:
- Tuy hai nhà sư
đó không giữ luật nhà chùa, nhưng cuối cùng vẫn là đệ tử của cửa Phật . Hơn thế,
chăn áo của đệ đã thu về. Mong huynh
khoan hồng tha tội chết cho họ!
Thẩm Công đáp:
- Đệ lấy ân báo
thù, quả thật là tâm Bồ Tát. Khó quá! Khó quá! Ta sẽ thả chúng ra vậy.
Lúc đó Thẩm Công
từ biệt Liên Trì về nhà, liền mời Thái y viện đến chùa, cắt thuốc điều trị. Hơn
nữa lại có hai sư ở bên cạnh, lúc nào cũng ân cần phục dịch, chẳng mấy ngày
sau, bệnh đã dần dần khỏi. Liên Trì liền đến Lễ Bộ nha môn từ biệt Thẩm Công,
trở về chùa tạ ơn sư chủ, chuẩn bị hành lý về Hàng Châu.
Các sư tăng thấy
người quyết ý ra đi, biết là có giữ cũng không được, liền vái trước lúc lên đường.
Về tới Tây Hồ, vội đến hai núi Nam Bắc, chọn một nơi yên tĩnh để ở. Bỗng nhìn
thấy một nơi trên đỉnh Ngũ Vân Sơn, núi vây cả bốn xung quanh, đường cong khúc
khuỷu, rừng rậm um tùm. Vốn đó là nền cũ của chùa Cổ Vân. Nam Ung Hy đời Tống có một vị Đại Phiến hòa thượng, tài giỏi việc
phục hổ nên mọi người gọi Ngài là Phục Hổ Thiền Sư. Ngôi chùa này do Ngài dựng
lên. Thiên Uy có sắc cho tu sửa Thiền viện. Chẳng ngờ đến năm thứ bẩy Hoằng Trị,
nạn hồng thủy tụ phát, điện các Phật tượng tất cả đều bị trôi chìm. Liên Trì tới
đây đã là năm thứ sáu đời Long Khánh, yêu thích cảnh trầm mặc có thể tu hành,
liền một mình lặng lẽ, dựng am cỏ, tọa mặc ở trong, ngày chỉ ăn một bữa cháo,
trước ngực đeo một tấm bài sắt, trên bài đề chữ “Nếu sắt nở thành hoa, thì ta sẽ
nói chuyện với loài người!”
Khi Liên Trì tới
đây, Hổ lang được thuần phục. Từ đó mới có tiều phu vào núi chặt củi.
Người đời nói rằng đó là công của Liên Trì. Chẳng những hổ không cắn người,
mà còn tỏ vẻ thân thiện với người.Thiên hạ đều cho là chuyện kỳ dị.
- Lại có một Phục
hổ Thiền sư nữa !
Phàm gặp những
năm đại hạn. Liên Trì, tụng kinh cầu đảo liền gặp mưa ngọt. Người người đều nói
Liên Trì là một vị Phật sống ở phàm trần.
Các vị đàn việt thí chủ (10), dù lớn dù
nhỏ, đều bố thí lương thảo tiền của, tình nguyện xây lại đền Vân Thê, mới
cho rằng đó là hương hỏa vĩnh viễn, liền gánh đất gánh đá, chuyển gỗ chuyển gạch
không chỉ một ngày mới thành Lan Nhã (11). Thế nhưng Liên Trì không thích nhà cửa
lộng lẫy sang trọng, chỉ thích được yên lặng tĩnh mịch, đơn giản mà thôi cho
nên bên ngoài không có cổng cao, ở trong
không có điện lớn. Thế mà trong thiền đường, tăng vẫn đông, pháp đường vẫn giữ
được kinh luật. Bên ngoài xây ao phóng sinh, bên trong dựng nhà dưỡng lão, phía
tây dựng nhà đón khách thập phương. Cầm nắm các việc đều có người theo chức,
hàng ngày luân phiên trực giữ, đúng hạn thay đổi. Ban đêm có tuần tra gõ mõ tụng
kinh niệm Phật. Lại có Ba đao lĩnh, Hồi tạo phong làm rồng hổ bao quanh. Đông cảng
có Bích Quan phong, có suối Thanh Long. Bên cạnh phong hạ, phong trung có suối
Thánh Nghĩa. Dưới chân Tây cảng có suối Kim Dịch. Ba suối đổ vào nhau trong sạch,
ngọt ngào, mát mẻ, được gọi là “Vân thê lục cảnh” (sáu cảnh trên lầu mây), hợp
thành đại tùng lâm là vậy. Quy ước của thanh quy tề chỉnh nghiêm túc, không được
làm sai. Các việc ghi chép, tiếp tân, pha trà, nấu cơm, giữ kho, nấu thức ăn,
làm vườn, quét dọn v.v… đều có nhân viên phụ trách, rất rõ ràng rành mạch. Sáu
thời lễ Phật cho khách bốn phương, các
sĩ đại phu, các tăng hành khổ hạnh, đến
lễ bái trên tòa sen kể có hàng ngàn hàng vạn.
Tới lúc này Liên
Trì mới mở miệng thuyết pháp:
- Đời người vô
thường nhanh chóng, cần một lòng niệm “Nam mô A-Di-Đà Phật”, chỉ có sáu chữ.
Nhưng chỉ cần miệng đọc tụng, niềm tin thật sâu sắc, ước nguyện tha thiết thì
thụ dụng vô cùng. Nếu như nhất tâm bất loạn (tâm chuyên nhất không khởi vọng tưởng),
tự nhiên sẽ sinh về thế giới Cực Lạc ở Tây phương.
Bên trong có một
ngự sử Tả Tông Anh liền hỏi:
- Niệm Phật có ngộ
được đạo không?
Liên Trì đáp:
- Sao lại không
ngộ được? Hãy hỏi lại tính giác của
mình. Chính tính giác này sẽ thành đạo vô thượng. Nay lại cứ niệm tính của mình
xem, sao lại không tỏ ngộ được? Phép niệm Phật này cực kỳ giản tiện, thẳng thắn.
Những người tham thiền tự giác ngộ, là những bậc đại nhân căn khí thượng đẳng.
Còn những kẻ phàm phu tục tử thì thấy tính khó lắm. Cho nên niệm Phật chính là
mở rộng cửa pháp để giáo hóa.
Người phú qúy thì
nhờ hưởng dụng phước báo, nên phải niệm Phật.
Người bần cùng
nhà nhỏ của ít, nên phải niệm Phật.
Người có con cháu
cúng tế tổ tông được siêu thoát, nên phải niệm Phật.
Người không có
con cháu, cô đơn côi cút, nên phải niệm Phật.
Người có hiếu đạo,
yên phận cung dưỡng nên phải niệm Phật.
Nếu con là nghịch
tử, quên ơn sinh dưỡng, chính phải niệm Phật.
Nếu người không bệnh
tật, thân thể khỏe mạnh, nên phải niệm Phật.
Nếu người có bệnh,
gần kề cõi chết, nên phải niệm Phật.
Những người già cả,
sống chẳng được lâu, nên phải niệm Phật.
Những người trẻ
trung, tâm tư thoải mái, chính nên niệm Phật.
Nếu đã xuất gia,
tiêu dao ngoại vật, chính nên niệm Phật.
Nếu người thông
minh, hiểu biết Tịnh thổ 12) , chính nên niệm Phật.
Những người ngu
muội thô lỗ, không biết làm gì, chính nên niệm Phật.
Nếu muốn tham Thiền,
Thiền là tâm Phật, chính nên niệm Phật.
Nếu đã ngộ đạo,
ngộ được Phật tính, chính nên niệm Phật.
Tả ngự sử lại hỏi:
- Khi niệm Phật,
cần phải có nhà cửa sạch sẽ trang nghiêm không?
Liên Trì đáp:
- Đừng nên câu nệ
hình thức.
Người thích tĩnh,
đâu cần đến gõ mõ đánh trống, chính nên phải tĩnh mịch niệm Phật.
Người sợ công việc,
đừng tham gia thành đoàn lập hội, chỉ cần ở nhà đóng cửa niệm Phật.
Người biết chữ, nếu
nơi ở không có chùa tu tập, ở nhà đọc kinh niệm Phật.
Đốt hương ngàn dặm,
sao bằng ngồi yên tĩnh ở trong nhà niệm Phật.
Cung phụng quỷ thần,
sao bằng hiếu thuận với cha mẹ mà niệm Phật.
Quảng giao với bạn
ma, sao bằng niệm Phật cho thân tâm mình trong sạch.
Gửi vào ngân khố
để sống, sao bằng hiện tại phóng sinh niệm Phật.
Nguyện cầu tai
qua, sao bằng niệm Phật để sám hối tội lỗi mình, mà tự thân đổi mới.
Học tập văn
chương ngoại đạo, sao bằng một chữ không biết mà đi niệm Phật.
Chẳng hiểu biết
gì mà cuồng đàm viễn vông, sao bằng thật thà trì giới niệm Phật.
Mong cầu yêu qủy
linh thông, sao bằng niệm Phật để tin vào gieo nhân gì gặt quả nấy.
Tả ngự sử nghe
xong, đại ngộ rồi đi!
Khi Liên Trì nhìn
thấy những người lớn bé già trẻ Hàng Châu thích sát sinh, liền cầm bút viết bảy
điều quy tắc gọi là "Giới sát văn" (Văn nghiêm cấm sát sinh).
Một là: NGÀY SINH KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH.
Cha mẹ sinh ta đớn
đau vô cùng. Ngày sinh ra ta chính là ngày cha mẹ chết dần đi. Nên phải cấm sát
sinh mà nên ăn chay, làm nhiều điều thiện, khiến cho các tiên linh trong thân tộc
sớm được siêu thoát, mong ước cha mẹ tăng thêm phúc thọ. Cớ sao lại quên nỗi đớn
đau của mẹ, mà nỡ sát hại sinh linh.
Hai là:
SINH CON KHÔNG NÊN SÁT SINH
Không có con thì
buồn, có con thì vui. Không nghĩ xem mọi loài cầm thú cũng biết yêu con như
mình. Cớ sao người sinh ra con lại làm con của loài khác phải chết, tâm yên được
sao? Than ôi, đứa trẻ mới sinh đã không tích phúc cho nó, mà lại sát sinh. Thế
chẳng ngu ư?
Ba là: CÚNG GIỖ KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH
Cúng giỗ người đã
mất hoặc tảo mộ vào tiết xuân thu, đều nên cấm sát sinh, để dành lấy phúc. Trước
mặt có tám loại thực phẩm qúy để cúng, đâu thể
bới xương cốt dưới cửu tuyền lên mà ăn hay sao?
Sát sinh để cúng
chính là nghiệt súc.
Bốn là: HÔN LỄ KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH
Việc cưới hỏi ở
trên thế gian thì có lễ vấn danh, nạp thái (13) để thành chồng vợ. Sát sinh tổn
phước ảnh hướng đến đời sống của đôi lứa. Lấy chồng vợ là mong ước được sinh
con. Trước lúc sinh mà lại làm việc sát sinh. Lý nghịch quá chừng! Mong ước việc
lành lại thực hành việc ác. Chẳng có lý nào như vậy?
Năm là: THẾT KHÁCH KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH
Ngày lành cảnh đẹp,
chủ hiền đãi bạn, cơm rau đậu quả, không ảnh hưởng đến giáo lý từ bi. Cần gì lại
giết hại mạng sống. Thù tạc béo nồng, sênh ca say sưa với huyết nhục, giết oan
hại bao mạng ở trên mâm? Than ôi! Người có tâm có thể không thấy buồn ư?
Sáu là: CẦU TRỜI TAI QUA KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH
Người đời có tật
sát sinh để tế thần, mong thần ban phước.
Không nghĩ rằng mình tế thần là muốn tránh chết để cầu sống. Giết chết mạng
khác để mong mạng mình sống lâu, quả thật là nghịch thiên bội lý, thậm ác quá
trời.
Bẩy là: BUÔN BÁN ĐỂ SỐNG KHÔNG NÊN SÁT SINH
Phàm con người chỉ
vì mưu sinh, hoặc là đi săn bắt, hoặc xuống nước mò cá mò tôm, hoặc giết trâu
bò lợn chó... chỉ vì kế sinh nhai. Nhưng ta xét
người không làm nghề này, cũng vẫn có cơm có áo, đâu có chết đói chết
rét bao giờ. Làm nghề sát sinh sẽ bị oan oan tương báo. Lấy việc sát mà được
giàu có thì trăm người chẳng có lấy một. Sinh tiền gieo nhân địa ngục làm sao
tránh được quả báo mai sau. Không có gì nguy hại hơn thế. Sao không gắng mà đổi
lấy nghề thiện lương có phải hơn không?
Liên Trì liền sai
người thư ký lưu chuyển bài “Giới sát” này phổ biến rộng rãi trong thiên hạ. Rồi
lại làm bài “Phóng sinh văn” khuyên người làm điều thiện. Đục một ao vuông ở
trên để phóng sinh. Tự làm bia ghi ở am Trường Thọ. Có người hỏi:
- Cá rùa ngàn vạn,
quần tụ một ao, giống như tù ngục chẳng
được thoải mái thì làm thế nào?
Liên Trì nói:
- Đem giết đi hay
sao? Cá rùa sống chung một ao cũng giống như trên tòa sen có nhiều hòa thượng.
Suốt ngày ngồi trong tĩnh thất, tu hành tự tại, nào có sư nào cho là quá khổ
đâu!
Lại có người nói:
- Trong ao có một
thìa nước, phóng được mấy loại sinh?
Liên Trì đáp:
- Đó là điềm triệu
thôi. Ta có tâm phóng sinh, có lẽ nào mọi người lại không có tâm phóng sinh
chăng? Một nơi phóng sinh để lan tới mười nơi, trăm nơi, nghìn nơi, vạn nơi,
Hàng Châu tới Nam Bắc hai kinh, từ hồ ao
Giang Quảng đến núi Thiểm Hà Nam. Không chỉ có một chỗ phóng sinh, tất cả thiên
hạ sẽ trở thành đất nước cực lạc. Trên đời
này sẽ vĩnh viễn không có tai họa binh đao, sát vận.
Một hôm, nhà sư họ
Liên ở chùa Tĩnh Từ mời Liên Trì đến giảng kinh Viên giác ở Nam Bình năm mươi
ba ngày, người đến nghe kinh đông như núi,
như biển. Có Ngu Đức Viên tiên sinh đi lại tốt với Liên Trì. Ngu Đức
Viên thấy ao phóng sinh ở chùa Hồ Tâm đã sụt lở, liền yêu cầu Liên Trì chuyển đến
Long Vương Đường. Nhìn thấy cảnh chùa Hồ Tâm ông không kìm nổi đã than rằng:
- Nơi đây ba ao
sâu đã thành di tích cũ, nay cỏ mọc um tùm, trở thành bãi cỏ hoang. Lẽ nào chẳng
đáng tiếc ư? Hơn thế, Tây Hồ vốn là một hồ cổ để phóng sinh. Đến nay ngư dân
đêm ngày giăng lưới bắt cá, không một khắc nào ngơi. Cảnh thật đáng thương! Sao không đào lại Tam Đàm (ba ao sâu) để làm
ao phóng sinh? Ví với ao Thượng Phương của đại sư, lại không rộng rãi hơn ư?
Liên Trì rất
thích lời nói này, lập tâm sẽ hòan thành công đức đó. Liền cầu khẩn các sĩ đại
phu ở Hợp Thành tỏ rõ đạo sáng đời nay, đứng lên lấy bùn đất rêu phong đắp đê
quanh chùa, còn trồng thủy liễu ở trong hồ để làm nơi phóng sinh, xây dựng lại
chùa cũ gọi là Đức Sinh Đường, cửa núi vẫn
gọi là chùa Hồ Tâm, Hàng nghiêm đạo
vương Ứng Càn đề biển ở trên. Chọn sư trông coi, cấm chỉ ngư dân không được vượt
giới và bắt cá. Từ sau khi Liên Trì xây dựng lại nơi phóng sinh dó, dòng người
cứ cuồn cuộn. Cũng có người phóng sinh
trong ngày sinh, Cũng có người phóng
sinh trong ngày sinh con. Cũng có người chọn ngày rằm, mồng một làm ngày hội
phóng sinh. Tây Hồ đã trở thành Tây phương lạc quốc.
Liên Trì trở về
Vân Thê, chỉ đóng cửa niệm Phật. Lúc nhàn rỗi thì trước thuật kinh văn giới luật , hoặc thiết lập đưa ra những
triết luận Du già (14) để phổ tế cô hồn. Đến năm Vạn Lịch thứ mười sáu, Hàng
Châu đại hạn, rất nhiều người lập đàn cầu mưa. Tuyệt nhiên không có chút khí
mây nào, thì làm sao mưa nổi? Có người
nói:
- Gần đây nghe
nói có Liên Trì đại sư đạo hạnh cao đức. Sao chẳng đi mời người tới cầu mưa
cho.
Liền cho mời mọi
người ở thôn Phạn Chu Kiều đến nhờ mời đại
sư tới cầu mưa. Liên Trì nói:
- Không có phép
thuật bùa chú, có hiểu cầu mưa là thế nào đâu.
Mọi người cho là
ngài chối từ, nên tất cả đều quỳ xuống đất khóc rống lên. Liên Trì miễn cưỡng
phải bằng lòng và theo dân chúng ra khỏi núi. Những người dân thôn hỏi đại sư dựng
đàn như thế nào, mời rồng như thế nào. Ai ngờ đại sư tuyệt nhiên không có một
hành động gì. Chỉ dẫn mọi người đi quanh đồng
ruộng, đọc ngàn vạn câu A Di Đà Phật. Từ khi Đại sư niệm Phật, liền có một
đám mây đen từ đông bắc kéo tới. Đến nửa
đường thì có tiếng sấm ầm ầm vang lên từ trong mây. Đoàn người kịp đi quanh đồng
ruộng một vòng, đã thấy nước mưa tuôn xuống, như nước trong bình chảy ra, ba bốn
thước sâu. Tất cả lúa màu đều được sống lại. Càng tin là đại sư Phật lực quảng
đại.
Năm sau, sóng nước
dâng to, quật đổ cầu Chu. Nhân dân không thể đi lại được, phải cởi áo lội qua,
có nhiều người đã chết đuối. Người dân
thôn lại mời đại sư cứu tế. Bỗng một hôm Tri phủ của bản phủ là Dư Lương Xu
nghe tin đại sư ở Vân Thê đạo đức cao diệu, liền có ý muốn mời người tới chủ trì cho việc đó. Người tự thân đến Vân
Thê bái kiến đại sư. Chỉ nhìn thấy một con đường non xanh nước biếc, loan chướng
(15) tầng tầng, biết rằng đây không phải là cảnh ở phàm trần. Trên cửa núi có tấm
biển đề “Vân Thê”, hai bên có đôi câu đối:
Tìm ra đường
trong mây biếc phủ
Núi ngọc từng khắp
xứ về Am.
Tri phủ họ Dư
nói:
- Quả thật là
danh sơn thắng tích !
Đi tới trước chùa
có người tri tân tiếp khách. Liên Trì lập tức ra nghênh tiếp. Bước vào phương
trượng, chủ khách cùng ngồi. Dư Tri phủ mở đầu nói:
- Không vì việc
gì khác! Chỉ bởi con nước triều lên to làm vỡ đê, nên cầu Chu bị đổ, đi lại phải bơi lội. Không
có kẻ sĩ đức hạnh chủ trì cho việc này, sao thể thành công lớn được. Bản phủ muốn
nhờ hòa thượng tôn kính xây dựng lại cho, chẳng hay tôn ý thế nào?
Liên Trì nói:
- Bần tăng là người
xuất gia tu hành, vốn lấy việc cứu người làm gốc rễ, để lập hạnh cửa Thiền. Việc
đắp đường, xây cầu đó chính là việc của nhà Tăng. Việc làm này không phân sang
hèn, mỗi người quyên đều tiền của tám phân, tùy duyên giúp đỡ, thì có thể hoàn
thành được.
Tri phủ trầm ngâm
nói:
- Công thì lớn,
góp thì ít, khó có thể hoàn thành sớm được.
Liên Trì nói:
- Của bố thí bất luận nhiều hay ít, đều lấy tâm lực làm chủ.
Tâm lực nhiều tất công thành bất hủ. Huống hồ tám phân chỉ là lấy cái nghĩa của thần đất, lấy
thổ phá thủy, không có lý nào không thành.
Dư tri phủ nói:
- Hòa thượng nói
lời bình dị, lý giảng tinh vi, người phàm đâu bì kịp.
Liền đó gọi các môn tử mang đồ lễ ra, lấy tám chục lượng
vàng đưa cho Liên Trì nói:
- Tạm có tám chục
lượng, giúp công dựng cầu, toàn nhờ vào
Phật lực của Hòa Thượng cả.
Liền đánh kiệu về
nhà. Các nhà hiếu nghĩa bốn phương, biết tin Liên Trì đại sư khởi công dựng cầu, đều tới bố thí, góp được
ngàn lượng vàng. Lúc khởi công dựng nền, mỗi lần hạ một cây đều đọc một trăm
bài chú đại bi. Kể từ ngày khởi công đến ngày hòan thành cầu, con nước không
dâng lên. Do đó thu được thành công lớn. Nhân dân đều cho là chuyện kỳ dị như
thần.
Năm đó bà Thang
Thị, bởi chồng trú trì ở Vân Thê, bà liền xây một am Phật bên cạnh cầu Thái Thị,
lấy tên là “Hiếu nghĩa Vô ngại am”, một lòng thắp hương tu hành, lấy pháp danh
là Thái Tố, đắc ngộ vô sinh liền viên tịch trước Liên Trì.
Kể từ ngày Liên
Trì xuất gia đến nay đã được năm chục năm. Những sách trước thuật nổi tiếng trừ
kinh sớ ra, ta tạm ghi những sách như Trúc song tùy bút, Loại lâm, Ngẫu bút,
Kinh Di Đà sớ sao v.v… ngoài hai chục loại.
Bỗng một hôm người
vào thành từ biệt các đệ tử và các bạn hữu cũ, nói:
- Bần tăng sắp đi
nơi khác nên đến đây vái biệt.
Mọi người không
biết duyên cớ vì sao. Về đến chùa người ra lệnh đặc biệt sửa trà canh, rồi nói
chuyện từ biệt vơi các sư trong chùa. Mọi người
hỏi:
- Đại sư đi về
đâu?
- Nơi này ta
không ở được nữa.
Mọi người vẫn
không biết lý do. Ngày hôm sau lên nhà lại nói với mọi người rằng:
- Ngày mai nhất định
ta đi!
Mọi người giữ lại
không nghe nghe. Ngài liền bước vào nhà phương trượng ngồi lặng yên, nhắm mắt,
không nói. Mọi người mới tỉnh ngộ vây quanh đại sư. Đại sư mở mắt nói:
Kinh A Di Đà sớ
sao, là thuyền từ đưa mọi người qua khỏi biển khổ sông mê, về miền Cực Lạc. Phải
nên phổ biến rộng rãi làm lợi lạc cho quần sinh, không thể đoạn tuyệt. Mọi người
phải nên chân thật niệm Phật chớ có đứng núi này trông núi nọ là được.
Nói xong liền tự
viên tịch. Lát sau trong thành, ngoài thành, các đệ tử đều kéo đến để chịu tang
đại sư. Họ nói:
- Đại sư di mệnh
không cho phép mặc đồ trắng, thắt dây gai, làm lễ thế tục theo nghi thức thường
lệ. Tất cả áo Y, Bát đều phóng sinh làm
phúc hết. Đại sư sinh năm Ất vị Gia Tĩnh, mất ngày mồng bốn tháng bảy năm thứ bốn
mươi ba đời Vạn Lịch, giờ Ngọ! Mộ chôn ở chân chùa phía Tả lĩnh rồi xây Tháp ở
đó.
Rừng núi trong
thiên hạ chưa từng thấy ở đâu có cảnh trí tuyệt vời và thanh quy nghiêm túc như
ở Vân Thê.
Ao phóng
sinh, ao Vạn công ở Tây Hồ và ao Thượng Phương, ao Trường Thọ
Vũ ở trong thành đến nay vẫn còn phóng sinh không ngớt. Đại sư há chẳng phải là
một vị đại thiện tri thức ở Tây Hồ đó sao!
Chú thích:
Những người sinh
ra và được hưởng lộc vì đỗ cai trong thi cử.
Kiền trúc: kiền
là trời, trúc là An Độ, ý chỉ đạo Phật.
Minh ty: quan
trông coi cõi âm.
Tục thú: lấy vợ nữa.
Sống chết là việc
lớn.
Có ba tội bất hiếu,
không có con nối dõi là tội lớn nhất.
Nguyên văn: Vô
môn quật lý quy nguyên lộ.
Chữ tâm và chữ
sinh hợp lại thành chữ Tính là họ
Chữ nhất và chữ đại
hợp lại thành chữ thiên là trời
Đàn việt thí chủ:
đàn việt tiếng Phạn là thí chủ, Đàn việt
thích cũng có nghĩa là thí chủ.
Lan nhã: tiếng gọi
tắt A lan nhã, có nghĩa là chùa.
Tịnh thổ: nước Phật,
thế giới Cực Lạc ở Tây phương mà A-Di-Đà Phật ở
thì gọi là tịnh thổ.
Cửu tuyền: chín
suối, nơi hương hồn ở sau khi con người
đã chết.
Du già: tiếng Phạn
có nghĩa là tư duy, cổ An Độ có phái triết học
Du già.
Loạn chướng: thế
núi cao và hiểm trở.