Đọc ông để ôn lại cách viết của ông, cách viết hết sức
tình cảm ân nghĩa của ông, qua cách viết tràn ngập tình người, tình quê hương đất
nước mà ông đã lay động không biết bao nhiêu trái tim hướng thiện, hướng về các
đấng sinh thành. Có một năm nọ, nhân ngày lễ Vu Lan tôi có tặng cho một vị đi
làm cách mạng nhưng đã về hưu một cuốn tùy bút “ Tiếng chuông triêu mộ” của nhà văn Võ Hồng. Đọc xong ông cảm ơn
tôi và phát biểu: “ Tôi không ngờ đạo Phật dễ thương dễ cảm như vậy, nhiều chục năm nay tôi không
để tâm đến vì nghĩ rằng đạo Phật mê tín
dị đoan. Đọc Võ Hồng tôi thích cách viết của ông với những câu: “Bà con nông thôn gần
gũi với chùa, thương kính ông Phật, không phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo.
Những tiếng Tam quy, ngũ giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không
hiểu, mà chỉ biết nhìn theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương
các Thầy mà bớt phạm sát sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay để nói, rất
êm để nghe, mà phàm nói hay thì thường ít làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người
đàn bà kia, tin rằng lễ Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi
xin ở bậc thềm trước chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương Cực lạc”.
hoặc đoạn này: “ Mỗi
lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm bốn câu kệ, lòng tôi xúc động rộn ràng.
Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe tụng tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ
NGUYỆN ÐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu lên: Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi
phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”.
và đoạn này nữa: “Tôi
không là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi
lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở
đời mà cuối nhìn xuống thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở
thôi, cuộc đời chỉ có nghĩa là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh.
Chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả”.
Văn của ông như vậy đấy! Tâm của ông rất thiện lành, tình của ông chan hòa tất cả,
một áng mây trời bay mông lung vô định, một tiếng
chim chiều kêu vô vọng nơi thôn ấp xa, một giòng nước chảy dưới cầu Ngân Sơn ,
Tuy An , Phú Yên quê ông cũng làm lòng ông xao xuyến, và ông đã biết cách
chuyển tải nỗi niềm xao xuyến, rung cảm của ông qua chúng ta, qua độc giả của
ông, đời viết văn của ông, ông đã thành công là vậy.
Ông viết về Đạo Phật
hay là vì ông được cái duyên sống gần Phật, ông có dạy ở Viện cao đẳng Phật học
Hải Đức, có dạy ở trường Bồ Đề Nha Trang, tính ông hiền lành dễ gần gũi nên
được các Thầy các Sư cô quý mến, Hòa thượng Trí Thủ và các vị cao tăng Phật
giáo sống ở Nha Trang cũng rất thương quý ông. Tiếng niệm Phật, tiếng Đại hồng
chung, tiếng chuông tiếng mõ, màu áo nâu
sòng, sinh hoạt lễ hội của Phật giáo Nha Trang đã thầm lặng đi vào trong tâm
ông mỗi khi mỗi ít, thấm đẫm lòng từ bi của nhà Phật mỗi ngày một chút, nên ông
đã trở thành Phật tử lúc nào không hay, và viết về đạo Phật thâm trầm cảm động,
tự nhiên như nhiên , như ta đã thấy qua các tác phẩm của ông. Về già là thế,
còn những ngày còn trẻ tình yêu của ông lại càng dào dạt mông mênh hơn. Lần đầu
tiên đọc tác phẩm của ông là truyện dài Hoa Bươm Bướm cách đây gần 40 năm, tôi
thích nhân vật Luân của ông ( cũng chính
là ông) và tình yêu lãng mạn nhẹ nhàng của Luân với Quỳ (vợ ông sau này): “Trên chuyến tàu đêm từ Suối Cát về Tháp Chàm,
Luân cầm tay Quỳ và nói như trong một giấc mơ. Rồi chàng rụt rè bỏ tay Quỳ ra,
nhưng những ngón tay Quỳ xoay lên giữ bàn tay chàng lại, cầm bàn tay đó áp lên
má mình đang đầy nước mắt”. Truyện “Con suối mùa xuân” là chuyện tình yêu đôi lứa mà ông viết rất
thành công. Trong truyện có ba nhân vật chính: Mỹ Khuê, Tịnh và Annie. Truyện
này tôi đọc rất lâu trong một tạp chí văn học trước năm 1975, đã lâu lắm rồi mà
tôi vẫn còn nhớ được một đoạn rất có duyên
như thế này: “Annie! Nàng đột nhiên hiện
đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một
vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ
đi, để tôi trầm ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng
nước sâu nằm lặng yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa
và những dải rong rối ren chằng chịt”.
Tôi luôn ngưỡng mộ người
có tài có đức, có dịp là tìm thăm để biết mặt, để nghe tiếng nói, bởi trăm nghe
không bằng một thấy. Chính vì vậy mà tôi biết rất nhiều các vị cao tăng Phật
giáo, tìm gặp các nhà văn mà mình yêu thích, ít nhiều chịu ảnh hưởng của họ.
Năm 2003 tôi có việc vào Nha Trang, tìm đến thăm Nhà Văn Võ Hồng ở số nhà 51
đường Hồng Bàng, đã tìm hiểu từ trước rồi, tôi khẽ khàng kéo dây chuông, một
lát sau có một ông lão trán cao tóc bạc với đôi gò má cao ra mở cổng. Lần đầu
tiên gặp nhà văn Võ Hồng, nhưng tôi đã nhìn thấy ông qua hình ảnh in trên sách
báo tạp chí rồi, tấm ảnh của ông mà tôi thích nhất là tấm ảnh mà nhà văn Tạ Tỵ
vẽ ông trong tác phẩm “10 khuôn mặt văn
nghệ hôm nay”, chỉ vẽ nét thôi mà rất giống ông: Đầu to, trán cao, hai gò
má cao, khuôn mặt xương xẩu.
Nhà văn Võ Hồng dắt tôi
vào nhà, nhà vắng lặng lạnh lẽo vì thiếu bóng dáng đàn bà, con cháu. Ông sống
một mình, cơm có người nấu đem tới cho ông. Sau khi chào hỏi xã giao, ông tự đi
pha nước mời tôi, nhà cửa bộn bề sách vở ngổn ngang, ông tiếp chuyện tôi thân
tình vì biết tôi là một độc giả yêu thích tác phẩm ông, đọc ông rất nhiều, và
có hiểu ông nữa. Tôi liệt kê các tác phẩm của ông viết mà tôi đã đọc qua: “Từ tác
phẩm đầu tiên Hoài cố nhân 1959, Hoa bươm bướm 1966, cho đến tác phẩm in sau
1975 Trong vùng rêu im lặng… Cho ông nghe, tôi có nhắc đến truyện Con suối mùa
xuân, Tiếng chuông triêu mộ, Đi con đường khác… Ông nói Thầy đọc tôi hiểu tôi,
làm tôi cảm động quá! Ở Nha Trang đây có thầy Thích Phước An cũng thích văn
tôi, có lần Thầy Phước An nói với tôi là cách viết của Thầy có ảnh hưởng từ
cách viết của tôi, tôi cảm ơn quý Thầy.
Cùng đi với tôi đến thăm
ông có Phật tử Long người Nha Trang, tôi nói Long đi nhờ một người thợ chụp ảnh
đến để chụp một vài tấm ảnh để kỷ niệm với ông. Ông nói để tôi thay cái quần, mặc cái áo cho đàng hoàng để chụp ảnh với
Thầy, ăn mặc không nghiêm chỉnh chụp ảnh với Thầy kỳ lắm! Lên căn gát phía trên tôi lấy chiếc ghế nhựa mời ông ngồi xuống, tôi đứng phía sau, rồi bảo
người thợ bấm máy. Ông nói: “Tôi ngồi mà
Thầy đứng thất lễ chết”. Tôi trả lời: “ Không
sau đâu Thầy (rất nhiều người gọi nhà văn Võ Hồng là thầy) con chỉ là một người
học trò nhỏ của Thầy thôi mà, với lại tuổi đời Thầy đáng tuổi ba con”. Hai tấm kế tiếp tôi với ông cùng ngồi cùng
đứng với nhau.
Văn nghiệp của ông để
lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam rất đáng kể, nhìn những tác phẩm liệt kê
sau đây chúng ta sẽ nhận ra điều đó:
Truyện đầu tay của ông đăng trên
tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn. Các tác
phẩm đã xuất bản của Võ Hồng gồm có các tiểu thuyết: Hoài Cố Nhân (Ban
Mai, 1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Đầu
Non (Văn, 1968), Gió Cuốn (Lá Bối, 1968), Những
Giọt Đắng (Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc (Lá
Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay (tiếp Hoa Bươm Bướm, Lá Bối,
1971). Các tập truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh (Thời Mới,
1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng Mát (An
Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân (Lá Bối, 1966), Bên Kia
Đường(Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng (Lá Bối,
1971), Áo Em Cài Hoa Trắng (Lá Bối, 1969), Trận Đòn
Hòa Giải (Lá Bối, 1970), Xuất Hành Năm Mới (Lá Bối,
1971) ……
Trong tác phẩm của ông chúng ta thấy
được tình yêu đất nước, quê hương của ông, ông luôn nặng lòng với quê hương của
ông, làng Ngân Sơn, An Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, rất nhiều trang viết
của ông là hình ảnh quê nhà, chùa nhà, cây khế cây chanh nhà, tiếng chim
nhà….Tình yêu chung, tình yêu riêng của ông cũng lai láng mật ngọt, nhưng rồi
ông luôn than thở mình cô đơn: “Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây
tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”. Trong
những bức thư viết riêng cho nhà văn Mang Viên Long ông cũng luôn than thở: “… Thư nhận vào dịp Tết nhộn nhịp nên
không kịp hồi âm. Mong anh thứ lỗi khiếm nhã. Tôi vốn không đến nỗi lười nhưng
mà những ngày tháng gần đây cũng thêm heo hút cô đơn nên tôi lì tôi bỏ phế hết.
Cả đến chuyện viết lách và làm ăn.”
(thư 27-2-72).
Vợ ông mất khi ông còn rất trẻ 35
tuổi, ở vậy nuôi ba con cho ăn học thành tài, và định cư ở nước ngoài, còn ông,
ông vẫn ở lại một thân một mình, âm thầm lặng lẽ, ẩn cư. Ông thường than thở
mình cô đơn là vậy.
Năm tôi ghé thăm ông 2003, trí nhớ
ông còn minh mẫn nhớ đến tác phẩm mình, nhớ đến nhân vật trong tác phẩm mình,
nhưng rồi sau đó mỗi ngày mỗi bệnh tật, trí nhớ kém dần ông bắt đầu lãng quên,
quên tác phẩm mình viết, quên nhân vật mình viết, quên những kỷ niệm đẹp của
một thời hoa mộng, quên tiếng chuông thu không của chùa Hải Đức, quên màu áo
nâu sòng của các Thầy, các Sư cô vốn là học trò mình, quên cả người thân của mình nữa, những
năm tháng cuối đời người con gái mà ông
thương yêu nhất đã từ Pháp về ở bên cạnh ông , chăm sóc cho ông, đó là chị
Võ thị Diệu Hằng, ngưỡng mộ tài năng chị
có lần tôi đã điện thoại hỏi thăm.
Sinh lão bệnh tử trong kiếp người ai
cũng phải trải qua, đi qua. Nhưng với chúng ta: tôi, anh,chị, em…. kẻ không có danh tiếng gì, không có đóng góp
gì cho cuộc đời, nhân thế. Đến đi trong trần gian này cũng chỉ như viên sỏi nhỏ
ném vào lòng đại dương, xao dợn lăn tăn
rồi chìm vào hư vô quên lãng, không có gì đáng nói để nói. Còn với các vị có
đóng góp lớn cho đời cho đạo về già mà mất trí nhớ, lú lẫn, lòng chúng ta cảm
thương vô hạn.
Chỉ cần đọc lại văn nghiệp của ông,
hoặc nếu không thể chỉ cần đọc lại những
đoạn trích dẫn ngắn ở trên, hoặc rải rác đây đó, chúng ta cũng thấy được tấm lòng ông đối với
nhân thế, văn phong của ông chân chất mà tài hoa rất mực.
Rồi vô thường đến ông lặng lẽ, lãng
quên tất cả, quẳng đi tất cả để ra đi. Tấm lòng vì nhân thế của ông, văn chương
chữ nghĩa đầy tính nhân văn để lại cho đời, tâm ông lành và thiện chắc chắn ông
sẽ tái sinh vào cảnh giới tốt đẹp.
Cũng như mọi năm, mùa Vu Lan năm nay
chùa Bửu Minh của chúng tôi sẽ có lễ bông hông cài áo, sẽ đọc đoản văn Bông hồng cài áo của
thiền sư NH, và tùy bút Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, của ông, để nhắc nhở
Phật tử mình rằng cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không
gì hơn bất hiếu.
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, ngồi viết
lại những dòng chữ đầy kỷ niệm với ông, để nhớ ông, để học hỏi cách viết của
ông, và cũng nhắc mình rằng nhớ cầu siêu cho ông trong ngày Đại lễ Vu Lan báo
hiếu, một nhà văn cư sĩ Phật tử chân chính của nhà Phật. Ông mất ngày 31.3.2013
(20 tháng 2, Quý Tỵ) hưởng thọ 92 tuổi.
Mùa Vu Lan PL.2557 (2013)
Chùa Bửu
Minh, Ngày
29 tháng 6 năm Quý Tỵ
Thích Giác Tâm