Cuốn lịch phổ biến
trong dân gian là phiên chợ. Như ở vùng tôi, chợ Hôm họp mồng 1, mồng 6, 11,
16, 21, 26. Tiếp tới chợ Giã : mồng 2, mồng 7, 12, 17, 22, 27. Rồi chợ Ðèo :
mồng 3, mồng 8, 13, 18, 23, 28. Chợ Thành : mồng 4, mồng 9, 14, 19, 24, 29. Chợ
Sen : mồng 5, mồng 10, 15, 20, 25, 30 hay tháng thiếu thì 29.
Với nhà Chùa thì ngày rằm được báo hiệu bằng
mặt trăng. Tăng Ni nhìn trăng mà biết tháng, nhìn hoa mà biết mùa, vì các Chùa
chiền đều nằm xa xóm làng, nằm ở chân núi hay lưng chừng núi, nằm ở cánh đồng
heo hút xa xôi : Chùa Ðồng Mạ, chùa Ðồng Tròn, chùa Ðồng Tranh, chùa Bảo Sơn,
chùa Ðá Trắng. Có cây xanh bao phủ xung quanh, có hồ sen, có chậu hoa, luống
hoa trong sân, trong vườn. Hoa quí phải nở theo mùa như cúc, như mai..., hoa
bình dân nở quanh năm như cây bông điệp, thân mạnh như cây keo, cây táo, mỗi
khi có cúng kỵ bà con trong xóm lên chùa xin vài nhánh. Nhà quê không có lệ mua
hoa cắm bình. Không dư tiền. Không ai dám nghĩ đến việc mua hoa, nên không có
người bán hoa. Nhà chùa càng thêm gần gũi thân thiết với người nghèo. Chùa nằm
ở chân núi thì người đi đường ghé chân nghỉ mệt, người lỡ bộ đường có thể ghé
nghỉ qua đêm. Nhà chùa nằm ở cánh đồng thì anh đi cày, chị đi cấy, trẻ chăn bò
ghé xin nước uống, mượn chỗ nằm nghỉ lưng ở hiên sau, ở chái liêu. Cửa tam quan
suốt ngày không đóng. Thánh đường nhiều tôn giáo thường đi theo sát tập thể
quần chúng, nhằm hoàn thành công tác mục vụ. Chùa chiền Phật giáo thì không.
Như cố ý lánh xa, như gắng tìm một thâm sơn, xích gần lại với thiên nhiên, núi
rừng, nên khi người tìm đến thì đồng thời cũng là dịp người gắn với thiên
nhiên. Cùng với tiếng chuông và tiếng tụng niệm, màu xanh của cây lá, sự tĩnh
mịch của đá của đất, sự bao dung của khoảng rộng trời cao cùng góp phần giải
khổ, cùng nhẹ thổi niềm an vui, niềm hy vọng, niềm tin.
Bà con nông thôn gần gũi với chùa, thương kính
ông Phật, không phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam quy, ngũ
giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không hiểu, mà chỉ biết nhìn
theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương các Thầy mà bớt phạm sát
sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay để nói, rất êm để nghe, mà phàm nói
hay thì thường ít làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người đàn bà kia, tin rằng
lễ Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi xin ở bậc thềm trước
chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương Cực lạc.
Trong thời gian làm nghề dạy học, tôi có dạy ở
một trường trung học Bồ đề, được dạy cho các Tăng Ni. Lúc vãn niên, mỗi khi có
vị Tăng Ni nào đến thăm là tôi dạy đứa cháu ngoại vốn rất cứng đầu nghịch phá
phải đứng nghiêm thủ lễ, chắp tay cúi đầu mà "A Di Ðà Phật". Nó tuân
lời, không miễn cưỡng. Tôi đã hiểu đúng tâm lý màu áo lam áo nâu, trang nghiêm
thanh đạm, giọng nói khoan hòa, cử chỉ từ tốn... đã chinh phục nó. Phần tôi,
mỗi lần có Ðại đức hay Ni cô tới thăm, khi ra về tôi xin phép được đưa tiễn đến
tận cổng, ra lề đường rồi chắp tay cúi đầu xá nhiều cái. Vì Ðại đức, Ni cô
thường là học trò cũ, tôi phải giải thích :
Tôi muốn biểu lộ sự tôn kính đối với một vị tu hành khổ hạnh. Cho dầu vị ấy
trẻ. Tôi biết nhiều người đang nhìn chúng ta, và xã hội chung quanh thì đang ùn
ùn nhiều tệ nạn, thói hư tật xấu.
Ðạo Phật hiện diện trầm lặng trong ta. Câu
chuyện năm người mù sờ voi, tôi đọc hồi học tiểu học, trong cuốn sách tập đọc
viết bằng tiếng Pháp, sau này mới biết đó là truyện cổ Phật giáo. Truyện người
đàn bà có con chết, khóc lóc van lạy xin Ðức Phật cứu sống con. Phật dạy:
"Hãy lấy tro bếp nơi nhà nào không có người chết, đem về đây ta sẽ cứu
cho". Truyện Mục Kiền Liên, ở một kiếp nào đó là một người mê vợ đẹp. Vợ
thuê người dắt mẹ Mục Kiền Liên đem bỏ trên núi cho chết đói, nhưng bà cụ dẫu
mù mắt cũng lần về được. Lần này vợ sai chính Mục Kiền Liên dẫn mẹ lên núi và
bắt phải đánh cho chết. Nào ngờ Mục Kiền Liên vừa đập một gậy thì mẹ kêu lên:
"Con ơi, chạy lẹ đi ! Kẻo cướp nó đánh chết!".
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một
thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ
tụng kinh của ông láng giềng phía sau nhà. Bốn giờ sáng, bà con khu Hồng Bàng -
Xóm Mới nghe tiếng chuông của chùa Linh Thứu. Bà con xóm Mã Vòng - Phường Củi
nghe tiếng chuông chùa Long Sơn. Bà con Ðồng Nai nghe tiếng chuông Phật Học
Viện. Những bà con phải sống xa quê hương, ngoài nỗi nhớ cô bác họ hàng, ngôi
nhà tổ tiên, khu vườn cây lá, ắt có lúc chợt nhớ những hương thơm của hoa bưởi
hoa cau, tiếng con trâu, con nghé ọ kêu mẹ, tiếng mái chèo khua nước trên sông,
tiếng gà gáy vang lại từ thôn xóm xa..., và tiếng chuông chùa.
Những năm sau này tôi có nhận dạy ở lớp chuyên
khoa của Viện cao đẳng Phật Học miền trung. Ði từ nhà đến Phật Học Viện, tôi
thẩn thờ đếm bước một mình trên con đường đất đỏ uốn lượn ở đầu núi. Những bụi
cây mọc theo ven lối đi, không hàng lối, mạnh ai nấy mọc.. Những bụi cây âm
thầm. Những doi đá nằm lấn ra, những khe suối khoét lõm vào. Tiếng chim nói
chuyện với nhau chi chích trong các bụi rậm, ở trước mặt, ở bên phải, bên trái.
Mùi thơm của lá, của hoa thoang thoảng. Vừa giã từ thành phố trong năm phút,
mắt tôi, tai tôi đã được nghỉ ngơi trong khung cảnh hoang sơ này.
Mỗi tuần một lần như vậy, tôi được gần gũi với
thiên nhiên, và tâm hồn tôi bỗng được buông xả, nhẹ nhàng. Lắm lúc tôi quên mất
hiện tại mà trở về hồi nào không hay, cái tâm trạng của một đứa nhỏ mười tuổi,
mười hai tuổi, say mê màu xanh của lá, màu trắng màu vàng của hoa và mùi thơm
ngai ngái của nhựa cây.
Con đường càng gần đến Phật Học Viện càng thêm
âm u râm mát. Những cây cao lặng yên tỏa bóng hiền lành. Tôi leo lên con dốc
nhỏ, bước qua cái cổng gỗ. Nơi đây bắt đầu giang sơn của các bụi hoa và những
thân cây có danh tính. Những cây quỳnh lá xanh óng ả. Những giò phong lan đong
đưa trên cành cao. Bụi trúc lá nhảy lăn tăn theo cơn gió dưới đồng thổi lên.
Những chậu hoa tỉ muội, hoa đơm đỏ thắm từng chùm.
Tôi không phải là người văn cảnh, không phải
là khách nhàn du, dưới tay tôi là một cặp sách. Tôi sắp có hai giờ dạy, buổi
học bắt đầu bằng ba hồi niệm Phật, và chấm dứt bằng bốn câu kệ :
Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Mỗi lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm
bốn câu kệ, lòng tôi xúc động rộn ràng. Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe
tụng tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ÐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu lên:
"Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con
đang cô đơn biết bao".
Tôi không là Phật tử. Không biết tụng kinh.
Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc
đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối nhìn xuống thân phận yếu đuối
nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ có nghĩa là một hơi thở mà
thôi, rất nhẹ và rất mong manh. Chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ
tất cả.
Như vậy, những buổi chiều thứ sáu đối với tôi
có một giá trị tinh thần không nhỏ. Và con đường sỏi đá lượn quanh co trên đầu
núi là một loại con đường hành hương dẫn tôi đi vào cái khung cảnh thanh khiết,
nơi đó tôi gạn lọc các ô nhiễm kết tập trong suốt một tuần lễ, từ cái thành phố
sống đầy bụi bặm dưới kia.
Võ Hồng