phần [04]
LUÂN LÝ
SUY ĐỒI
Luân lý suy đồi đã
xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta với các vấn đề,
ma túy, đàng điếm, văn hóa đồi trụy và không lành mạnh
giữa giới trẻ, tình dục bất hợp pháp vân vân.. .
Bản nghiên cứu của Bộ
Thanh Niên và Thể Thao về 5860 thanh thiếu niên, cho thấy 71%
hút thuốc, 40% xem phim khiêu dâm, 28% cờ bạc, 25 % uống rượu
và 14% dùng ma túy. Mười một thanh niên phạm pháp giam giữ
tại các trung tâm cải huấn trong nước mang vi trùng HIV gây
bệnh AIDS. Mười đứa trong số này dưới 20 tuổi.
Nhà chức trách lo ngại
về thanh thiếu niên mang vi trùng HIV, và đang giám sát chặt
chẽ vấn đề. Khám phá khởi thủy cho thấy một số trẻ
em không ghiền ma túy nhưng dính líu đến ma túy. Đa số các
trường hợp được phát hiện qua tư vấn và thử nghiệm y
tế tự nguyện.
Xu hướng không lành mạnh
này chỉ có thể ngăn chận do ảnh hưởng trực tiếp của
cha mẹ. Cha mẹ nên giám sát các hoạt động của con cái để
chúng khỏi phải dính líu vào những hoạt động vô luân
và bất hợp pháp.
Không sớm có sự giám
sát và kiểm soát, con cái rất dễ dàng sa vào ảnh hưởng
không lành mạnh. Nếu không kịp ngăn chặn, đứa trẻ sẽ
đi đến phạm tội nghiêm trọng hơn. Sự cấp bách của nhiều
vấn đề xã hội phải được nêu lên ngay. Cho nên cha mẹ
phải củng cố thể chế gia đình hầu phù hợp với những
đòi hỏi của sự thay đổi xã hội.
TRỪNG
PHẠT
Theo hình luật Mã Lai,
bất cứ tội gì gây ra bởi đứa trẻ dưới 10 tuổi đều
coi như không phạm tội đối với trẻ trên 10 tuổi nhưng
dưới 12 tuổi chưa hiểu biết để suy xét về bản tính
và các hậu quả trong hành vi của nó vào lúc phạm tội.
Trong luật người ta
cho là hết sức đúng và có sức thuyết phục rằng đứa
trẻ dưới 10 tuổi không thể biết phân biệt phải trái mặc
dù thực ra, đứa trẻ có thể vi phạm hành động cấm đoán
với chủ tâm.
Loại trẻ em thứ hai
giữa 10 và 12 tuổi, ở trong 'khu vực tranh tối tranh sáng'
được miễn kết tội trừ phi công tố viện chứng minh
được đứa trẻ có khả năng tinh thần bình thường nhưng
có xu hướng gây tác hại chứng minh được.
Măc dù đứa trẻ dưới
10 tuổi phạm tội ác, có thể không bị truy tố, nó cũng
không thể tránh hết được tất cả hậu quả. Tuy không
có trừng phạt, nhưng tình trạng tương lai của nó có thể
bị giới hạn. Người điều tra xúi dục đứa trẻ phạm tội,
sẽ bị coi là kẻ phạm tội chính, và đứa trẻ được đối
xử như vô tội. Tòa Án Thanh Thiếu Niên là điểm then chốt
điều khiển bộ máy đối xử với thanh thiếu niên phạm
pháp. Luật về thanh thiếu niên được thể hiện qua Đạo
Luật về Thanh Thiếu Niên Năm 1947 và Đạo Luật về Thiếu
Nhi và Thanh Thiếu Niên Năm 1947. Thanh thiếu niên được định
nghĩa là một người khoảng 10 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Tòa Án Thanh Thiếu
Niên không cho công chúng tham dự. Mặc dù phóng viên báo
chí có thể tham dự nhưng không được nêu rõ chi tiết có
thể nhận dạng kẻ phạm tội. Nếu có tội, tòa không
dùng thuật ngữ như "bị kết án' hay 'phán quyết' đối
với tội phạm.
Tòa do vị chánh án hạng
nhất chủ tọa quyết định tội trạng. Có hai vị bồi thẩm,
có thể một trong hai người này là phụ nữ để phụ giúp
viên chánh án quyết định bản án'. Trước khi quyết định,
tòa xét hạnh kiểm, môi trường nhà cửa, học bạ và hồ
sơ y tế của kẻ phạm pháp.
Tòa có thể khiển
trách hay tha bổng, phán quyết tha bổng cho kẻ phạm pháp
cam kết có hành vi tốt, phải thi hành đúng lệnh ban ra hay
được giao cho thân nhân hay một người nào đó trông coi,
và lệnh cho cha mẹ hay người giám hộ phải thi hành điều
kiện ghi trong bản cam kết, lệnh tạm tha, lệnh thi hành cho
nhà trường hay Trường Gurney, để giáo hóa sửa chũa, thi hành
lệnh phải trả tiền bồi thường hoặc án phí.
Có thể bị cầm tù nếu
kẻ phạm pháp ở vào lứa tuổi giữa 14 vá 18. Việc giam giữ
này chỉ là biện pháp cuối cùng phải sử dụng đến vì
không còn đường lối nào thích hợp hơn nữa.
Đứa trẻ giữa 10 và
14 tuổi không thể bị giam cầm về bất cứ tội ác nào. Cũng
không thể bị tù, dù rằng không trả được tiền phạt,
tiền làm thiệt hại hay phí tổn. Theo Mục 16 của Đạo Luật
Tòa Án Thanh Thiếu Niên, một thiếu nhi khổng thể bị kết
án tử hình. Tuy nhiên luật này trở thành vô hiệu hóa khi
môt thiếu nhi bị buộc tội theo luật Thiết Yếu ( Trường
Hợp về An Ninh). Điều Luật năm 1975 loại trừ Luật Tòa
Án Thanh Thiếu Niên. Tòa Án chỉ có thể xử một thiếu nhi
khi nó tòng phạm với một người lớn bị kết án tử
hình. Có thể trong trường hợp này, nó có thể được tha
bổng hay vào Trường Cải Huấn Henry Gurney.
Một đứa trẻ dưới
10 tuổi tinh quái không thể tha thứ được hay một nói một
cách khác cần đến trông nom và bảo vệ nhưng không ai có
thể kiểm soát nổi nó, Tòa Án Thanh Thiếu Niên ra lệnh
đem nó vào một cơ sở cải huấn.
Một trong những biện
pháp thường được áp dụng nhất bởi Tòa Án Thanh Thiếu
Niên là cho tạm tha có theo dõi. Một đứa trẻ phạm pháp
đặt dười sự kiểm soát của một nhân viên theo dõi có bổn
phận làm bạn để giúp đỡ nó cải tạo phục hồi. Tạm
tha có theo dõi là một việc cần thiết xã hội vì đó là
nhiệm vụ của nhân viên theo dõi thi hành án lệnh và giúp
đỡ đứa trẻ về vấn đề gia đình khi cần thiết.
Tinh thần đằng sau luật
liên quan đến thiếu nhi là chúng phải được đối xử khác
người lớn, đó là đối xử với chúng bằng tình thương
và hiểu biết, chỉ cho chúng thấy rõ con đường chính đáng
phải noi theo mà chúng đã lạc lối không hề do lỗi của
chính chúng.
Lời khuyên cho các gia
đình có các em nhỏ là hãy bỏ nhiều thì giờ gần gũi chúng,
nghe xem điều gì đang xẩy ra, và điều gì đứa trẻ thực
sự muốn nói.
"BOSHIA
VÀ "LEPAK" - VĂN
HÓA GIỮA CÁC THANH THIẾU NIÊN
Do công nghiệp hóa
nhanh trong nước, nhiều trẻ tại vùng quê đổ vào các đô
thị lớn để tìm việc tại các hãng xưởng. Các thiếu nữ
vùng quê vào các đô thị rất đông để kiếm việc làm tại
các hãng điện tử. Sự cám dỗ của đời sống hấp dẫn
tại thành thị với những trung tâm buôn bán, siêu thị và
ánh đèn chói sáng lôi cuốn thanh thiếu niên vùng quê, sau
những giờ làm việc chúng đã bỏ nhiều thì giờ rảnh rỗi
chúi mũi vào các của kính bầy hàng hoặc lang thang từng đám
tại những nơi ấy. Đầu óc của chúng chỉ còn nghĩ đến
tiền, chúng nghĩ chỉ có tiền mới giúp có một cuộc sống
hợp thời trang tại đô thị.
Kiểu sống của giới
trẻ trong một thời gian đã khiến dân chúng (MãLai) dùng từ
ngữ Bohsia và Lepak (tiếng Mã) để chỉ họ.
Boshia căn nguyên từ tiếng Hoa Kiều có nghĩa là "mất
tiếng". Không biết ra sao, từ ngữ đó có ý nghĩa căn
nguyên tối nghĩa như thế lại dùng để chỉ thanh thiếu niên
lang thang tại các đô thị lớn. Tiếng Mã Lai Bahasa có nghĩa
tương đồng Lepak.
Với một số tỷ lệ
lớn các thiếu nhi rời xa sự kiểm soát xã hội đối với
cuộc sống gia đình thường ở vùng quê, lẽ dĩ nhiên
không ngạc nhiên gì thấy một số thanh thiếu niên tham gia
vào các hoạt động không lương thiện trong các đô thị lớn,
và dính líu vào lối sống thường không được chấp thuận
tại các châu thị vùng quê của chúng. Không tránh được sự
thoái hóa của đạo đức vì không có hình phạt của cha mẹ
và xã hội nơi làng quê của chúng.
Đã đến lúc các thiếu
nữ họp thành nhóm nhỏ, đầu tư chính mình làm 'gái làng
chơi' đứng ở các địa điểm chiến lược như siêu thị,
tòa nhà công cộng hay góc đường, để giới trẻ địa
phương sử dụng. Những thiếu nữ này quá ư ngây thơ nên
rất dễ trở thành các con mồi của những kẻ buôn hương
bán phấn.
Ta có thể tới gần
và làm quen với bất cứ một nữ công nhân nào lang thang nơi
gần các siêu thị, và rất có thể, thiếu nữ đó nhận lời
mời đi giải khát hay ăn qua loa ở tiệm ăn, rồi di dạo
chơi, đi nhẩy disco, hay hò hẹn đến một chỗ thỏa thuận
nào đó.
Sau này, các thiếu nữ
này trở thành già dặn hơn, khôn ngoan hơn, có ý đồ, tự
mình kiếm khách, những người đứng tuổi giàu có đi trên
các xe hơi sang trọng lảng vảng đi kiếm gái làng chơi cho
có bầu có bạn. Những người đàn ông thuộc xã hội thượng
lưu này thường phung phí tiền bạc vào thú vui với gái.
Tình thế vượt khỏi tầm tay khi những trường hợp bị cảnh
sát bắt, cảnh sát cũng nhận được những khiếu nại của
những bà vợ về những người chồng dính líu vào những
hoạt động tội lỗi. Nhờ các biện pháp cùng sự kiểm
soát gắt gao của cảnh sát, vấn đề Boshia và Lepak, đã từng
là những tin tức hàng đầu, nay đã dần dần phai mờ.
Để lấp khoảng trống
đó, bọn con buôn vô lương tâm nắm lấy cơ hội đem tiền
khuếch trương các phòng nhạc Karaoke và Video là nơi hò hẹn
lý tưởng với ánh đèn mờ và nhạc bình dân cho các cuộc
gặp gỡ của thanh thiếu niên nam nữ. Bất chấp luật lệ
của chính phủ, những phòng Karaoke và Video vẫn cho các trẻ
dưới 18 tuổi được lui tới, và giờ mở của của các
phòng này kéo dài đến tận 3:00 hay 4:00 sáng. Cả hai giới
nam và nữ tự do lẫn lộn trong ánh đèn mờ và hành vi của
chúng quả thật đáng trách.
Trung tâm Karaoke dùng
thiếu nữ trẻ hấp dẫn làm "những chiêu đãi
viên" để lôi cuốn giới trẻ say mê vào các cuộc
trình diễn, nơi đây thanh thiếu niên được khuyến khích bỏ
ra những món tiền lớn để tiêu xài. Trên màn hình video,
đàn ông và phụ nữ ăn mặc hở hang, lượn đi lượn lại
một cách khiêu dâm trong âm nhạc khêu gợi. Người ta có thể
tưởng tượng được đầu óc non dại bị ảnh hưởng đến
như thế nào. Chỉ dạy luân lý tại nhà trường không thể
tạo được một xã hội lành mạnh. Cha mẹ phải loại bỏ
yếu tố tiêu cực, và giới truyền thông cũng phải đóng một
vai trò tích cực trên phương diện này. Xã hội phải làm
thui chột cái ung nhọt này để đầu óc thanh thiếu niên khỏi
bị đầu độc bởi những màn trình diễn khiêu dâm trên
video.
Chính phủ đã có hoạt
động kiểm soát chặt chẽ những phòng Karaoke và trung tâm
Video để kiểm soát căn bệnh xã hội đang lan tràn trong giới
thanh niên. Nhiều trung tâm như vậy hoạt động trá hình để
cờ bạc và buôn bán ma túy. Những hoạt động này được
điện tử hóa cao độ và dùng máy kiểm soát tự động từ
xa, chúng có thể nhanh chóng đổi lại ngay (cờ bạc) thành
trò chơi khi có một cuộc khám xét bất thần chỗ lui tới
của họ. Rất là khó khăn cho cảnh sát bắt quả tang họ nếu
không giả dạng. Cảnh Sát biết những hoạt động tội ác
trong những quán du hí Karaoke và Video.
Chúng tôi muốn củng cố
giây liên hệ gia đình và khuyến khích giá trị gia đình
lành mạnh. Chúng tôi không muốn con em của chúng tôi đem tiêu
hao thì giờ rảnh rỗi và tiền bạc tại những quán Karaoke
và Video. Bằng cách đóng các quán Karaoke và Video, thanh thiếu
niên ít bị phung phí thì giờ vào những chỗ đó và như vậy
chúng được khuyến khích tham gia vào các hoạt động lành
mạnh hoặc ở nhà với gia đình.
Trong kinh Sigalovada, Đức
Phật khuyến nhủ giới trẻ không nên la cà ngoài đường
phố hay tại các nơi chốn mà thanh thiếu niên có thể bị
ảnh hưởng bởi các hành động vô luân của người lớn.
VẤN
ĐỀ LẠM DỤNG MA TÚY
Đầu thập kỷ 60,
phong trào 'hippie' tràn ngập Phương Tây gây ảnh hưởng sâu
xa trong văn minh nhân loại. Hippie điển hình là một thanh
niên đầu tóc bù xù lôi thôi lếch thếch mặc quần áo
lòe loẹt sặc sỡ, tóc để dài, chủ trương tự do tư tưởng,
tự do ngôn luận, bác bỏ tiêu chuẩn bảo thủ và giá trị
của xã hội. Cần sa là loại thuốc chúng thích hút. Những
thanh niên địa phương bắt chước kiểu sống của chúng đến
một mức độ nào đó. Mặc dù nhận thức muộn chúng ta
có thể nói phong trào hippie đã có một vài ảnh hưởng tích
cực, sự dễ dãi của nó đã dọn đường tai họa chưa từng
biết đến cho nhân loại: thói xấu dùng ma túy.
Khi ma túy bị lạm dụng,
kết quả tai hại - cho người dùng nó, cho người quan tâm
đến người bị nghiện, cho xã hội nói chung. Lạm dụng ma
túy trở thành một trong những vấn đề của việc bảo vệ
sức khỏe cộng đồng. Việc leo thang dùng ma túy không thể
chấp nhận được, phí phạm mạng sống, phá vỡ gia đình,
gia tăng tỷ lệ tội ác, không kể đến kinh phí lớn lao
dùng trong các chương trình nghiên cứu, trung tâm phục hồi,
và các cơ quan chuyên môn hành pháp. Ghiền ma túy gây thiệt
hại cho thân thể con người, khó khắc phục là điều tất
yếu.
Dùng chất độc hoài
hoài trở thành ghiền và phải tùy thuộc vào nó. Thể xác
phải lệ thuộc vào ma túy như hê-rô-in (thuốc phiện) chẳng
hạn biểu thị đặc điểm là sự gia tăng liều lượng,
người dùng phải dùng liều lớn hơn, để có thể đạt
được phớn phở hay ngà say. Đương nhiên dùng ma túy như vậy
làm giảm những triệu chứng (Nhưng xẩy ra các phản ứng mạnh
của cơ thể nếu người ghiền cai không dùng ma túy) càng
trở nên tệ hại hơn. Theo truyền thống, ghiền ma túy được
giải thích là sự ảnh hưởng đến sức khỏe v?t chất con
người. Ngày nay từ "ghiền ma túy" thường liên hệ
đến kiểu hành vi được biểu thị bằng việc sử dụng
thuốc bắt buộc và mối ưu tư phải có nó.
Lạm dụng ma túy được
đánh giá là một kẻ thù lón nhất của thế giới. Xã hội
đổ cho nguyên nhân tai họa là do luân lý suy đồi của giới
trẻ lầm đường lạc lối từ bỏ môi trường gia đình,
là do bị cám dỗ bởi ảnh hưởng bên ngoài. Nhiều người
đã dùng ma túy để trốn tránh hoàn cảnh gia đình bất hạnh.
Cha mẹ quá bận đến đỗi không thể chăm lo các nhu cầu
xã hội và tinh thần cần thiết cho con cái đang trưởng thành,
thường cẩu thả không lưu ý đến mức để chúng đi tìm
an ủi trong ma túy. Thiếu sự hướng dẫn và giám sát thích
hợp của cha mẹ, và không mấy quan tâm đến giá trị của
đời sống, như luân lý và tinh thần, đã gây nên, đến một
mức độ rộng lớn,tình trạng tiêu cực. Nhiều người ghiền
đầu tiên không ý định gì trở thành người ghiền, nhưng
đã lầm lẫn để rồi trở thành nô lệ cho thói quen.
Điều đáng chú ý là
lợi nhuận buôn lậu ma túy vượt qua cả việc buôn bán dầu
xăng dầu, và chỉ đứng hàng thứ hai sau buôn bán vũ khí.
Sự buôn bán ma túy đem nhiều lãi khiến việc phân phối ma
túy đã lan tràn rộng lớn, gây những khó khăn nghiêm trọng
về xã hội- kinh tế cho các quốc gia phát triển và các quốc
gia đang phát triển. Những con buôn lậu ma túy đang sử dụng
cơ cấu hội đoàn, móc nối các vụ làm ăn rắc rối, liên
hệ với các ngân hàng, công ty quản lý tài sản, cơ sở tài
chánh và địa ốc.
Kẻ lạm dụng ma túy
tiến thành ghiền thực thụ và kẻ tiêm chích (tiêm thuốc
vào mạch máu) sống không ngưng bị đe dọa bởi thuốc quá
liều. Dùng chung kim chích để "đóng vào" hay chích
thuốc vào hệ thống cơ thể qua mạch máu là một trong những
nguyên nhân chính truyền nhiễm bệnh AIDS hiện đang đe dọa
quốc gia (sẽ được bàn cãi chi tiết hơn trong chương kế
tiếp).
Chính Phủ đang chi hàng
triệu mỹ kim vào những chương trình phục hồi với những
thanh thiếu niên ghiền ma túy và số trẻ dùng ma túy tăng
trưởng tới mức báo động.
Điều đáng luu ý là
những trẻ sanh ra từ những bà mẹ ghiền ma túy cũng trở
thành ghiền. Vì mẹ chúng nhiễm độc ma túy nên chất này
cũng thâm nhập vào cái chắn nhau (chỗ đệm giữa mạch máu
và bào thai), và truyền trực tiếp vào bào thai, các bác sĩ
cố gắng tìm ra người mẹ sắp sanh có ghiền ma túy không
(nhiều người dấu) để kịp thời chữa trị ngay lúc đứa
bé mới ra đời. Nếu bác sĩ không biết đến bệnh ghiền
của người mẹ, đúa bé mới sanh sẽ rơi ngay vào tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng. Tình trạng này gồm có khó thở,
co giật và run rẩy.
Theo bản tường trình,
đa số người ghiền là đàn ông (98.8 %), trên 80% số này
tuổi từ 20 đến 39. Trên 41 % bị ghiền vì áp lực của bạn
bè tương đương, 36.8% tìm thú vui do chính mình và 15.6% do
tò mò muốn biết rồi thành ghiền. Một số người trở thành
ghiền vì muốn tinh thần khỏi bị căng thẳng (4.8%), do kết
quả của điều trị y khoa (1%), vì tai nạn (0.4%) và 0.1%
dùng để kích thích nhục dục.
Bậc cha mẹ có thể
nói với con cái như thế nào khi chúng ở vào lứa tuổi 12
đến 21 bị ghiền. Hàng triệu các bậc cha mẹ quan tâm vấn
đề và lo lắng về sự lôi cuốn các con em vào ma túy. Điều
mà họ lo lắng hiển nhiên là sự sử dụng mù quáng ma
túy. Quý vị có thể nghi ngờ một đứa con dính líu đến
ma túy khi thấy nó đột nhiên thay đổi tính nết. Đứa con
trai hoặc con gái đó có thể tỏ ra rụt rè, nói năng ấp
úng, trở nên hung hăng, mắc chứng hoang tưởng hay thất vọng,
xuống cân, mắt đỏ, uể oải, cho thấy triệu chứng học
hành kém ở trường học. vân vân... Nếu thấy bằng chứng
không thể chối cãi được, không nên bi thảm hóa tình
hình mà nên đem nó đến vị cố vấn, vị này biết cách
làm sao đối phó với tình hình. Hành động tồi nhất là
chối bỏ vấn đề đang có.
Một trong những cách
thức giúp đỡ con cái tránh ma túy là nên gương mẫu trách
nhiệm tại nhà - chính mình không nên dùng các chất say như
thuốc lá và rượu. Nếu thấy con cái dính líu, không nên
trực diện ngay với nó khi nó bị nhiễm. Từ từ nói chuyện
và thảo luận với nó về vấn đề cùng bất cứ khó khăn
cơ bản của tuổi hoa niên có thể liên hệ đến vấn đề.
Có hai mục tiêu lớn
phải lưu ý: giao thiệp tốt đẹp với đứa trẻ, vì chính
nó là người duy nhất có thể nói cho quý vị biết sự thể,
và cho thấy một vài sự thật về dùng ma túy như - hút, nuốt,
chích hay ngửi từ bao giờ và bao lâu phải dùng. Quý vị
nên tham khảo vị bác sĩ gia đình, vị này sẽ giúp quý vị
đường lối thích ứng nhất phải áp dụng. Nếu tình thế
nghiêm trọng, vị bác sĩ có thể giới thiệu đến một
trung tâm hồi phục hoặc bệnh viện.
BỆNH
TRUYỀN NHIỄM AIDS
AIDS (Acquired Immune
Deficiency Syndrome, Liệt Kháng) bây giờ là chứng bệnh gây
chết chóc nhiều nhất trong tất cả các bệnh lây nhiễm
qua tình dục. Nguyên nhân Bệnh AIDS là do vi rút HIV, nó đánh
phá và làm suy yếu hệ thống miễn nhiễm của cơ thể cho
nên cơ thể không bao lâu còn có thể đối kháng được dễ
dàng. Một người mang bệnh AIDS không thể sống sót được
mặc dù không phải hiện nay vi rút AIDS thực sự giết người
ấy. Nguyên nhân của cái chết có thể do bất cứ sinh vật
truyền bệnh nào đó xâm nhập cơ thể, không đối kháng
được, và càng ngày càng tăng trưởng khiến cho người
mang bệnh AIDS mắc hàng loạt các chứng bệnh hiểm nghèo
mà người có hệ thống miễn nhiễm bình thường chỉ bị
rất nhẹ.
Người mang bệnh AIDS
chết vì một căn bệnh thứ hai. Hai chứng bệnh thường thấy
nơi người bệnh AIDS là bệnh viêm phổi và một loại ung
thư ngoài da do kết quả sự suy sụp của hệ thống miễn
nhiễm cơ thể.
Một khi vi rút xâm nhập
cơ thể, nó nhằm đánh phá hệ thống miễn nhiễm cơ thể.
Vi rút AIDS sống trong các chất lỏng của cơ thể người bệnh,
nhất là trong máu và tinh dịch. Người mang bệnh có thể
truyền vi khuẩn cho người giao cấu hay có thể lây sang người
khác lúc truyền máu. Người mẹ bị bệnh AIDS có thể truyền
vi rút giết người cho đứa con trong lúc sanh hay sau khi sanh.
Vi rút AIDS di chuyển
trong máu nạn nhân. Chắc chắn đó là lý do những người
ghiền dùng ma túy chích qua mạch máu và những người bị bệnh
ưa chảy máu thuộc loại dễ bị lây nhất. Những người
ghiền dùng chung kim chích, kim dùng bởi một người mang bệnh
AIDS có thể lây ra người dùng cùng một kim ấy. Vì nhiều
người hiến máu cho các ngân hàng máu, rất có thể máu bị
nhiễm trùng vi rút AIDS truyền cho người cần máu, và
đương nhiên một số người đã bị lây bằng cách ấy.
Đương nhiên không thể nào bị bệnh AIDS khi cho máu vì những
kim dùng để lấy máu đều đã được khử trùng và được
loại bỏ sau khi sử dụng cho một người.
Cái nguy hiểm cố hữu
của bệnh giết người này là bệnh AIDS chỉ phát hiện
trong máu một vài tuần lễ, hay đôi khi một vài tháng sau
khi bị lây. Thời kỳ ủ bệnh ở mỗi người rất khác
nhau, và có thể rất lâu, có thể lâu tới 5 năm, bệnh mới
phát hiện. Cho nên không thể tìm ra bệnh ngay sau khi bị
lây. Chưa có cách chữa trị và thuốc trị được bệnh này
nên vấn đề phòng ngừa bệnh là chủ yếu.
Những triệu chứng sau
đây xẩy ra khi có bệnh AIDS: có các cục bướu xưng, sốt
hồi quy, đêm đổ mồ hôi, đột nhiên xuống cân, mệt mỏi,
tiêu chảy, da đỏ, và nhiễm trùng bất thường, dễ mắc bệnh
truyền nhiễm.
Kết quả điều tra về
việc truyền nhiễm bệnh AIDS cho thấy người cùng ở một
nhà, dùng cùng đồ ăn thức đựng của một người bị lây
nhiễm, không bị lây bởi vi rút AIDS. Cũng không bị lây do
dùng chung hồ bơi, bắt tay nhau hay dùng chung nhà vệ sinh.
Con đường duy nhất bị lây là do sự giao hợp, hay dùng kim
chích có nhiễm vi rút hay máu có mang bệnh.
Gần nửa triệu người
trên thế giới được ghi nhận bị bệnh AID. Đó chỉ là một
phần ba của con số ước tính tổng số 11 triệu người
mang vi rút HIV giết người này.
Tổng số người mang bệnh
ước lượng là 446,681 người rải rác trên 163 quốc gia.
Riêng tại xứ (Mã Lai) chúng tôi, con số người mắc bệnh
này là 2,500 người và 31 trong số 37 người mang bệnh đã
chết. Vào năm 2000, ước lượng có hơn 60,000 trẻ em có bệnh
AIDS, và 120,000 trẻ em mồ côi!
Tỷ lệ mang bệnh tăng
lên 440%, so với tỷ lệ cách đây 5 năm. Dữ kiện thâu thập
bởi Liên Hiệp Quốc chúng minh sự nghiêm trọng của tình
hình bệnh AIDS.
Chiến lược của quốc
gia chống bệnh AIDS là kế hoạch phòng ngừa căn cứ trên
tinh thần đạo đức. Kế hoạch quay về với căn bản, đó
là tôn giáo, giá trị văn hóa và truyền thống vì giới trẻ
ngày nay sa vào các hoạt động mà thế hệ ông cha không bao
giờ mơ tưởng đến. Sự nguy hiểm của tà dâm được Đức
Phật giảng dạy trong giáo lý của Ngài.
NGHIỆN
THUỐC LÁ
Thuốc lá bao gồm những
sản phẩm chứa nhiều chất nicotin như thuốc lá, xì gà,
thuốc hút bằng ống điếu (tẩu). Trong những loại trên,
thuốc lá thịnh hành nhất. Theo thống kê cho thấy, ghiền
chất nicotine thường bắt đầu nơi thanh thiếu niên, và những
người nhiễm thói hút trong thời gian trưởng thành. "Buộc
được chúng hút lúc chúng còn trẻ", bạn có chúng
"suốt đời" (phải hút thuốc) dường như đó là
chiến lược kinh doanh của ngành công nghiệp thuốc lá.
Hiện nay, Mã Lai hình
như quên lãng vấn đề thuốc lá. Những cuộc trình diễn
thể thao, nhạc rock của giới trẻ, phim ảnh và những chương
trình hướng về ngày lễ đều được bảo trợ bởi các
hãng thuốc lá. Các hãng này quảng cáo trên đài truyền
hình, vô tuyến, trong các phim trình diễn, và trong các chương
trình nghỉ lễ cũng do các hãng thuốc lá bảo trợ. Họ tự
quảng cáo trên truyền hình, vô tuyến và các quảng cáo in
cho đại chúng một cách hết sức khôn khéo qua hình thức
tuyên truyền các sản phẩm và dịch vụ không liên quan đến
việc buôn bán của họ. Mặc dù sản phẩm được nhằm vào
- quan trọng nhất thuốc lá, không xuất hiện nhưng thông
điệp và hình tượng họ muốn công chúng thấy lại rất
rõ ràng. Dù bị công chúng phê bình, những nhà chức trách
của chúng ta vẫn cho phép những hãng thuốc tên tuổi và
các hình tượng trưng được quảng cáo cũng như cho phép
phát miễn phí thuốc lá mẫu trong những cuộc hòa tấu nhạc
rock.
Cái gì đã xẩy ra
trong luật lệ chống thuốc lá của chúng ta, và ai là người
phụ trách việc áp dụng? Có phải luật này chỉ áp dụng
trong khuôn viên bệnh viện, tòa án, các trạm xăng, và một
số cao ốc công cộng? Cả đến Quốc Hội cũng đã thông
qua đạo luật qui định chất nicotine coi như chất ma túy.
Hiện nay, thị trường rộng lơn của Hoa Kỳ đang quay lưng
lại với các hãng thuốc lá, chúng ta sẽ thấy một chiến
dịch tích cực được thiết kế chu đáo đối nhằm vào giới
trẻ của các quốc gia thế giới thứ ba. Mã Lai, một nền
kinh tế thành công, chắc chắn là 'mục tiêu chính'. Chúng
ta đã sæn sàng đối phó vói cuộc tấn công dữ dội vào
giới trẻ của chúng ta trong quốc gia này chưa? Những con buôn
bất chính thuốc lá phải chấm dứt. Hay phải chăng chúng
ta chấp nhận Tổng Thống Clinton của Hoa Kỳ quan tâm đến
giới trẻ Hoa Kỳ nhiều hơn là chúng ta quan tâm đến giới
trẻ của chúng ta.
Mã Lai là một qưốc
gia có trách nhiệm, phải đoàn kết để bảo vệ sức khỏe
của thế hệ tới của chúng ta. Cơ quan chính phủ, khu vực
doanh nghiệp, và các tổ chức phi chính phủ, cùng nhau làm
việc trong một đường lối duy nhất để phá tan chiến lược
quỷ quyệt của các hãng thuốc lá quốc tế. Nhà chức
trách phải đề ra một đường lối chỉ theo đuổi một mục
đích duy nhất với những kế hoạch đầy đủ chi tiết để
kiềm chế giới trẻ hút thuốc. Những hãng thuốc theo luật
định phải in trên bao thuốc lời khuyến cáo về sự nguy
hiểm hút thuốc, nhưng điều đó chỉ được in hết sức
nhỏ, chỉ có tính cách tượng cho hợp lệ với luật pháp.
Hút thuốc là một
trong những nguyên nhân gây ra bệnh tim, một bệnh gây nhiều
chết chóc nhất trong xứ này và việc chi phí về y tế và
xã hội càng ngày càng gia tăng mỗi năm. Chúng ta không thể
cho phép thói quen hút thuốc phá hoại s?c khỏe của thế hệ
trẻ, cho nên chúng ta phải cùng nhau hành động ngay bây giờ
như một xã hội.
Không có thuốc lá nào
vô hại cả. Ít nhựa, ít chất nicotine trong thuốc lá, theo
như thí nghiệm tại nhà máy, tuy có giảm thiểu phần nào
nguy hiểm với người bị bệnh ung thư phổi và bệnh tim, vẫn
là mối lo ngại. Những công cuộc thí nghiệm này chỉ thực
hiện bằng máy móc, chứ không phải trên con người. Hơn nữa,
thay đổi hút thuốc nhẹ hơn, không phải là một lựa chọn
tin cậy để chừa thuốc, nhất là đối với những người
hút nhiều thuốc hơn để giữ mức độ nicotine trước đây.
Cả đến mặc dầu không
nuốt khói lúc hút, bạn vẫn giữ khói trong miệng, vậy
nên sự nguy hiểm về ung thư đường miệng gia tăng. Thêm
vào, bạn có thể nuốt khói mà bạn không ý thức được,
và bạn hít vào chất glycoprotein (một chất liệu có thể
làm thương tổn mạch máu) ngay trong thời gian đang hút và
ít lâu sau đó.
Nếu bạn có thể ngung
ngay không hút, và thấy rằng không thèm hút hay không có triệu
chứng như dao động và đau đầu, thì bạn không bị liệt
vào hạng ghiền. Nhưng rất ít có khi bạn có thể ngưng hút
mà không có một vài triệu chúng, trường hợp này nếu có
được mô tả là đúng bạn đã nghiện.
Ngưng hút thuốc không
bao giờ trễ cả, cả đến sau 25 năm hút thuốc. Bỏ thuốc
đem lợi ích ngắn hạn và dài hạn. Bạn sẽ nhận thấy
có những thay đổi khi bạn bỏ thuốc. Bạn thấy ăn ngon
hơn, thở dễ hơn, và bệnh ho do hút sẽ không còn.Tuy phổi
sẽ không bao giờ trở lại bình thường như lúc chưa hút,
tác hại sẽ không còn. Đương nhiên, tin vui là nếu bạn từ
bỏ thuốc, phổi của bạn sẽ không bị hư hại.
Trước khi giải phẫu
tim, bác sĩ thường hỏi xem bệnh nhân có là người hút thuốc
không. Nếu trả lời "có", họ sẽ tẩy sạch các
chất nhựa chất chứa trong phổi người hút thuốc trước
khi giải phẫu.
Nhiều người lên cân
khi bỏ thuốc. Tin mừng là những người ấy chỉ có thể
lên được hai hai hoặc ba ki lô thôi. Nếu muốn tránh lên
cân, điều trước tiên là phải bỏ thuốc đã. Nên nhớ rằng
nhiều lợi ích to lớn về sức khỏe khi bỏ thuốc, đừng
lo lắng gì về việc bạn lên cân. Bạn có thể làm cho xuống
cân sau khi bạn bỏ thuốc, điều này thứ yếu.
Câu hỏi thường được
nêu lên:"Khói thuốc có làm hại tôi không? Có, khói thuốc
có thể làm hại. Bằng chứng khoa học cũng cho thấy hậu
quả gia tăng nhanh chóng của người sống hay làm việc với
người hút . Khoa học gia tìm thấy phạm vi ảnh hưởng cao
độ về những bệnh về hô hấp của trẻ con nơi những
cha mẹ hút thuốc. Những cuộc nghiên cứu cũng cho thấy những
người ngửi thuốc làm hoạt động hô hấp giảm đi nơi những
người lớn và trẻ con mạnh khỏe. Báo cáo cho thấy chất
liệu gây tác hại thở ra bởi người hút tìm thấy nơi
người ngửi, đôi khi đến mức độ lớn hơn những người
không hút, vì ngửi khói của người hút đã đem những yếu
tố nguy hiểm ấy vào phổi.
NGHIỆN
RƯỢU
Nghiện rượu là bệnh
kinh niên gây nên tinh thần hỗn loạn. Đặc điểm của bệnh
này là bởi uống rượu hoài hoài quá mức thông thường.
Từ ngữ 'nghiện rượu'
rất khó để định nghĩa vì con người có những phản ứng
khác nhau với rượu và cách thức họ dùng nó. Thường từ
10 đến 15 năm ưống năm ly hay hơn một ngày (ít hơn với
phụ nữ) thì một người phát triển triệu chúng của người
nghiện - đó là sự suy nhược ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình trạng sức khỏe và các quan hệ xã hội của người
đó. Thực chất, nghiện rượu không thể đo lường bằng số
lượng rượu uống nhưng mà là cách thức người ấy uống
để đối phó với khó khăn đời sống và hậu quả ảnh hưởng
đến hạnh phúc vật chất con người.
Lạm dụng rượu lâu
ngày có thể tác hại tất cả các cơ quan chính yếu của cơ
thể. Bắt đầu nó có thể tác hại tế bào cơ tim, dẫn đến
đau tim và chết. Vì rượu thấm nhập vào gan, cơ quan có
công năng vô hiệu hóa và loại một số chất độc, gan rất
dễ bị rượu gây tác hại.
Nghiện rượu có thể
làm cho gan lớn ra, sưng lên, và phát triển bệnh ngặt
nghèo gọi là bệnh sơ gan. Một trong những tác hại nhất
là óc. Nghiện rượu có thể làm hư hại óc và làm tinh thần
hỗn loạn.
Rượu uống vào những
tháng mới mang thai có thể tác hại tim đứa trẻ chưa sinh.
Phụ nữ mang thai uống rượu gây ra hàng loạt bệnh bất thường
cho đứa trẻ chưa sinh (triệu chứng của rượu với bào
thai).
Sự chịu đựng chất
rượu có nghĩa là hóa chất trong cơ thể điều chỉnh dần
dần phù hợp với lượng rượu uống vào. Kết quả là phải
dùng thêm nhiều hơn nữa mới đáp ứng được. Do đó, có
người ít khi uống rượu, có thể trở nên say dù chỉ uống
có một ly rượu vang. Sự chịu đựng, thực ra, là một
trong hai dấu hiệu then chốt của sự lệ thuộc vào rượu.
Dấu hiệu thứ hai là sự phát triển các triệu chứng khi
người ngưng không uống rượu. Khả năng uống nhiều tùy
thuộc một số yếu tố, chẳng hạn như cơ cấu hóa chất
của người ấy, tình trạng thể chất và tinh thần, thời
gian uống bao lâu, số lượng đồ ăn trong dạ dày trong khi
uống.
Một số tổ chức,
trong các cuộc liên hoan hội họp, khuyến khích thanh thiếu
niên tham gia vào thi đua uống bia treo những giải thưởng hấp
dẫn cho những người thắng cuộc. Những tổ chức nhu vậy
vô hình chung đã đẩy các thanh thiếu niên khờ dại, nhiều
đứa chưa bao giớ biết uống một loại rượu nào, vào
hàng người nghiện, đưa đến đủ loại khó khăn cho xã hội
và gia đình và cho cộng đồng.
Có thể một người uống
nhiều quá có thể chết không? Tuy hiếm nhưng vẫn xẩy ra,
thường là trong các cuộc thi đua uống. Đó là vì trong những
trường hợp như vậy có một số lượng lớn các loại rượu
được đem ra uống và uống mỗi lần cạn ly. Uống một số
lượng quá nhiều có thể làm cho hệ thống hô hấp không
chịu nổi, và lại vừa bị nôn mửa, có thể dẫn đến tắt
thở. Thêm vào, chất rượu quá nhiều có thể giảm thiểu
chất glucose sản sinh, gây hôn mê. Rượu cũng có thể hạ
thấp ngưỡng cảm giác đau đớn, và làm suy yếu khả năng
đông máu.
Giới cuối cùng trong năm
giới cấm của người Phật Tử là tuyệt đối không uống
rượu và các chất say. Triệt để tuân hành giới cấm này
rất quan trọng với người Phật Tử cho hạnh phúc về tinh
thần cũng như thể chất của con người vì nếu không giữ
giới này, giới này nó có thể làm hại giá trị của tất
cả các giới kia.
Kết thúc một buổi
liên hoan, một tiệc rượu, thói quen giữa người khách và
chủ nhân là uống thêm một ly trước khi lên đường đi về,
cần phải loại bỏ bằng bất cứ giá nào. Luật lệ của
chính phủ hiện nay " lái xe không được uống rượu
" phải được tuân hành, triệt để tuân hành để bảo
đảm an ninh cho tất cả mọi người trên đường lộ.
Quán rượu mọc lên như
nấm khắp các thành phố và lôi cuốn thanh thiếu niên lao
vào thói quen uống rượu. Nhiều màn trình diễn thiếu đứng
đắn được thấy tại các quán rượu và disco, ngược lại
với giấy phép được cấp phát khiến các nơi này bị cảnh
sát tấn công bắt bớ.
Đối với những người
ở tầng lớp thấp trong xã hội, một ly rượu mạnh hòa với
đường và nước giúp họ khuây khỏa. Tuy nhiên một số lại
uống quá nhiều, kết quả trở nên say xỉu, hung dữ tạo
thành bạo lực gia đình tại nhà. Nhiều người lợi tức
thấp cũng say mê uống rượu đế cất từ gạo. Nhưng điều
làm cho nhà chức trách lo lắng là nhiều người uống rượu
đế rẻ tiền, chưng cất thiếu vệ sinh dẫn đến nhiều
trường hợp tử vong xẩy ra từ việc uống các loại có chất
độc này.
Hội Vô Danh chống nghiện
rượu là một nhóm tự nguyện giúp đỡ những người nghiện
chừa bỏ thói quen uống rượu và khi cần thiết chữa cho họ
hồi phục. Những người tự nguyện này làm việc suốt
ngày đêm và có thể liên lạc với họ bằng điện thoại.
SỰ
CÁCH BIỆT GIỮA CÁC THẾ HỆ
Từ "thế hệ"
thường dùng để chỉ sự đo lường thời gian một khoảng
30 năm, khoảng thời gian một người cần có để đạt được
sự chín chắn, ở tuổi mà như luật thông thường, đứa
con đầu sanh ra. Khoảng cách biệt lớn gĩữa một hay nhiều
thế hệ thường được nói đến là 'biệt thế hệ'.
Có thể cho rằng người
từ những thế hệ khác nhau nên có sự khác biệt về đường
lối suy nghĩ, thái độ, cách sống và giá trị, cho nên
không đồng ý với nhau về hầu hết mọi vấn đề. Do sự
khác biệt về tu?i tác, nhóm người già giữ quan điểm ngược
lại đường lối của thế hệ trẻ. Những sự dị biệt
trong quan điểm phát xuất và dẫn đến sự hiểu nhầm
trong gia đình.
Truyền thống cổ hủ,
tập tục không hợp thời và thái độ bè phái của người
già thường mâu thuẫn với những khát vọng của người trẻ.
Thế hệ trẻ của thanh niên tạo nên để đứng trước ngã
ba đường vào lúc quan trọng trong tuổi còn trẻ thiếu kinh
nghiệm. Tự nhiên họ chống lại sự can thiệp của người
già và không chịu khuất phục dưới cách đối xử kẻ cả
bề trên.
Một số người già
không chịu nổi quan điểm hiện đại, lối sống của thế
hệ trẻ. Các cụ muốn các con phải theo các tập tục xưa
và truyền thống cha ông. Thay vì áp dụng thái độ như vậy,
các cụ nên cho con cái sống phù hợp với thời đại nếu
những hoạt động này vô hại, và đem lợi ích tiến bộ.
Các cụ nên nhớ lại khi xưa cha mẹ các cụ cũng phản đối
một số cung cách đối xử thịnh hành vào thời các cụ
còn trẻ. Chẳng hạn vào thập niên 60 thanh niên bắt chước
những người (ca hát) Beatles và Hyppies được xem là khó
coi. Những người trẻ này lớn lên và cũng đến lượt bị
choáng váng bởi những đứa con bắt chước "lưu
manh" và "bỉ ổi".
Sự cách biệt về quan
niệm giữa những bậc cha mẹ bảo thủ và thế hệ trẻ
là nguyên nhân thường gây mâu thuẫn trong phạm vi gia đình
ngày nay. Điều đó không có nghĩa là bậc cha mẹ e sợ
trong việc cố vấn và hướng dẫn con cái nếu chúng đi lạc
đường do một số giá trị sai lầm.
Nhưng khi giáo dục
chúng, bậc cha mẹ nên theo nguyên tắc ngăn ngừa tốt hơn là
trừng phạt. Cha mẹ cũng nên giảng giải cho con cái tại
sao lại không chấp nhận hay tại sao lại chấp nhận một số
giá trị. Chúng ta hiểu cái mà ta gọi 'giá trị Phương Đông'
rất tốt nhưng chỉ khi chúng thích hợp cho nhu cầu hiện đại
và có thể áp dụng thích ứng với tình trạng hiện nay.
Thiếu hiểu biết giữa
cha mẹ và con cái hiện nay là nguyên nhân làm cha mẹ và con
cái cách xa nhau. Nên tạo nhiều cơ hội hơn nữa giúp cho
con cái trưởng thành và làm chúng tự có ý thức trao đổi
tâm sự với cha mẹ.
Lời yêu cầu tha thiết
của một thanh thiếu niên là muốn cha mẹ hiểu khó khăn của
nó, thường là điển hình trong nhiều gia đình ngày nay:
"Tôi đã ở với
cha mẹ tôi gần 20 năm . Tôi thương yêu cha mẹ tôi, nhưng
cũng có những vấn đề với cha mẹ tôi. Có những sự hiểu
nhầm giữa ba người (tôi và cha mẹ), và các khó khăn hình
như càng ngày càng gia tăng.
Những khó khăn ấy bắt
nguồn từ những hành động của tôi mà cha mẹ tôi không
hiểu. Cha mẹ tôi hình như không biết lý do đằng sau những
điều tôi nói và làm. Tôi đã cố gắng sửa chữa và
làm dịu đi những nỗi bất bình giữa cha mẹ và tôi, nhưng
không kết quả.
Cha mẹ tôi lúc nào cũng
bên cạnh tôi khi tôi còn nhỏ, bất cứ lúc nào tôi cần
được an ủi. Cho nên tôi nghĩ không cần cha mẹ bảo tôi
làm gì và tôi nghĩ rằng cha mẹ tôi là những người tuyệt
diệu nhất trên thế giới này.
Quan niệm về mọi
chuyện của tôi bắt đầu khác biệt với cha mẹ tôi, nhưng
tôi giữ im lặng vì e ngại bị họ trừng phạt. Những
khó khăn sinh khi tôi đủ khôn lớn để nói lên ý kiến của
tôi.
Bây giờ tôi nói lại
cha mẹ tôi, không phải là tôi chống lại mà đó là vì
cho chính tôi. Tôi không cho rằng tôi biết tất cả mọi
thứ mà cha mẹ tôi biết nhưng tôi đã có thể tự lo cho
mình. Tôi sẽ yêu cầu giúp đõ khi cần thiết, nhưng chuyện
tôi muốn lưu ý đến lời khuyên của cha mẹ tôi lại là
một vấn đề khác.
Cha mẹ tôi vẫn coi
tôi như một đứa bé, một em bé cần sự giám sát thường
xuyên. Tôi cảm nhận cha mẹ tôi săn sóc tôi, nhưng các người
cũng phải để cho tôi tự do và không bóp nghẹt tôi. ông
bà chẳng bao giờ nghe tôi nói gì, và bảo tôi không hiểu
ông bà. Ông bà cũng xâm phạm tự do cá nhân của tôi và
không hiểu tôi. Vì lúc nào ông bà cũng canh chừng tôi,
tôi không còn có tự do để thăm viếng bạn tôi hay làm
việc gì mà tôi thích làm.
Cha mẹ tôi lúc nào cũng
hỏi tôi tại sao làm cái này hay cái kia nhưng không bao giờ
nghe những lý do của tôi vì ông bà chẳng bao giờ muốn
nói chuyện với tôi. Đương nhiên tôi phải tìm đến bạn
tôi, và như thế làm cho cha mẹ tôi ngạc nhiên.
Tôi không muốn làm
đau buồn cha mẹ tôi bằng cách không nghe ông bà, nhưng việc
ấy phải do cả hai bên cùng xây dựng. Làm sao tôi có thể
nghe lời khuyên nơi ông bà khi ông bà không lưu ý gì đến
sự kiện đúng? Tôi còn trẻ, làm sao tôi có thể học hỏi
được nếu tôi không có cơ hội?
Những khó khăn mà
tôi phải chịu đựng do nơi cha mẹ và tôi. ông bà chỉ
chỉ huy tôi và không cho tôi cơ hội để đặt câu hỏi với
ông bà. Trong tình trạng gia đình ngột ngạt không thể chịu
được, ai là người đáng trách cứ nếu tôi đi tìm sự
khuây khỏa ngoài gia đình với bạn bè bao che tôi và say
mê vào những hoạt động không lành mạnh? Tôi có được
lựa chọn không?
Cha mẹ tôi có thể
hiểu tôi hơn nếu bỏ thì giờ để nói chuyện với tôi
và hiểu quan điểm của tôi. Cha mẹ và tôi phải cùng
nhau giải quyết vấn đề để có một mái ấm gia đình."
Sự xuất hiện của thế
hệ 1950 là một hiện tượng không hiểu nổi đối với những
người cao tuổi thời bấy giờ nay không còn mấy huyền bí
so với thời ấy khi có những thay đổi lớn lao trong văn
minh thế giới. Rồi, người ta nói đến 'sự cách biệt giũa
thế hệ', một hiện tượng mới. Người trẻ không còn phải
suốt đời làm việc cực nhọc sau khi rời khỏi ghế nhà
trường, mà có thì giờ rảnh rỗi, tiền bạc để tiêu
sài. Một văn hóa bao quát hình thành xung quanh chúng.
Sự bất lực của người
cao tuổi để hiểu biết giới trẻ, niềm tin của giới trẻ
là tuổi thanh xuân trường cửu, sự không chấp nhận cái
chết- những điều ấy hiện hữu trong tất cả xã hội con
người ở mọi thời đại.
Sự cách biệt giữa thế
hệ, với những bi kịch, các vai anh hùng và kẻ không phục
thiện đã trở nên rắc rối và phức tạp. Ở Phương Tây,
nay người ta đã chấp nhận là thường tình hầu hết mọi
người có rất ít quan hệ xã hội ngoài người đồng tuế.
Sự khởi đầu tốt lành hay ít nhất vô hại, nhưng nay những
yếu tố nuôi dưỡng những dị biệt giữa các thế hệ
bây giờ trở nên đen tối và đe dọa hơn, do đó, khoảng
cách đang phát triển thành 'vực thẳm ngăn cách'.
Khó khăn chính nhiều
xã hội Tây Phương gặp phải - như Đức, Anh Quốc, Nhật Bản,
Ý, Tây Ban Nha, là dân số không tự bổ xung, cho nên người
già trở thành một gánh nặng ngày nay.
Một phần của phong
trào muốn tách ly, và ý thức về bản thân của thế hệ
trẻ ở thập niên 1950 và 1960, tượng trựng sự khinh khi đối
với người già, ít nhất cũng là loại bỏ trí tuệ, kinh
nghiệm, một sự thoái hóa trong tương quan truyền thống giữa
trẻ và già.
Những sự hiểu lầm
ấp ủ, những bức tường ngăn cách giữa già và trẻ đưa
đến kết quả tạo thành nhiều mâu thuẫn sâu xa trong tương
lai. Đương nhiên sự xúc phạm của trẻ con với người già
đã là một vấn đề nghiêm trọng tại nhiều nơi trên thế
giới. Những việc xẩy ra như vậy, sẽ chắc chắn tăng
trưởng theo thời gian, vì người già sống lâu nhờ các
phép lạ khoa học kỹ thuật, bởi thuốc men thần hiệu, bởi
tất cả các máy móc làm tuổi thọ gia tăng theo. Tuy nhiên
phẩm chất về đời sống không được cải tiến theo đà
gia tăng dân số, cho nên khó khăn phát sinh.
Không khó khăn cũng đoán
trước được những hình thái trả đũa thù hận sẽ xẩy
ra khi giới trẻ nhân thức được họ sẽ phải lo cho phần
"thặng dư" của dân số mà họ coi như vô dụng, thải
hồi, người bệnh, người không sinh lợi và người tàn tật.
Đó là gánh nặng càng ngày càng gia tăng mà xã hội miễn cưỡng
phải gánh vác. Cho nên ta có thể tưởng tượng những lý
luận ủng hộ cho cái chết không đau đớn cho những người
tuổi quá cao đang ngày càng được đồng tình và người ta
cũng ngày càng chấp nhận phương pháp này. Vấn đề nhân
khẩu học trước đây nhằm vào số trẻ em quá nhiều ở
thế giới thứ ba, nay đã chuyển sang những người già
không muốn chết trong thế giới phát triển. Người già đã
nói họ sống quá lâu. Họ cần sự giúp đỡ để nhường
chỗ cho thế hệ kế tiếp. Có thể nối nhịp cầu người
Già với người Trẻ bằng sự yêu thương và hiểu biết!
HÃY
NGHE NGƯỜI GIÀ
Không cần phải có
kinh nghiệm bản thân trong một số sự việc để hiểu những
sự việc này tốt hay xấu. Đây là một sự tương đồng
cho bạn để hiểu tình thế. Môt số cá muốn vượt qua cái
ngăn nước chỉ có một lỗ hổng nhỏ. Một cái hom người
đánh cá để vào đó để bẫy cá. Một số cá muốn vào
hom để biết đó là gì, nhưng những con cá có kinh nghiệm
khuyên những con cái dại khờ kia đừng vào vì đó là một
cái bẫy nguy hiểm. Cá trẻ hỏi "Sao chúng ta có thể biết
được cái đó có nguy hiểm hay không nguy hiểm? Chúng ta phải
vào và nhìn xem, chúng ta chỉ có thể vào mới biết đó là
gì'. Cho nên một số đã đi vào và mắc vào bẫy.
Chúng ta phải sæn sàng
chấp nhận lời khuyên nhủ của người trí như Đức Phật,
bậc giác ngộ. Đương nhiên, chính Đức Phật dạy chúng ta
không nên chấp nhận giáo lý của Ngài một cách mù quáng.
Đồng thời chúng ta có thể nghe một số người khôn ngoan
hay các bậc đạo sư tôn giáo khác. Việc này đơn giản vì
kinh nghiệm về đời sống trần thế của họ sâu hơn kiến
thức giới hạn của chúng ta.
Cha mẹ thường khuyên
các con làm điều này và không làm điều kia. Bởi cẩu thả
không nghe lời khuyên của người già, người trẻ làm nhiều
điều theo đường lối suy nghĩ riêng tư của mình. Kết quả
khó khăn xẩy ra, họ mới nhớ đến người già, đến các
bậc đạo sư để được giúp đỡ và yêu cầu các vị
đ?o sư tôn giáo cầu nguyện cho họ.
Chỉ khi việc xẩy ra rồi,
họ mới nhớ đến tôn giáo, và tìm phước lành và hướng
dẫn. Nhưng họ không nghĩ rằng mục đích chính của tôn
giáo là giúp đỡ chúng ta theo một số nguyên tắc cao thượng
để tránh nhiều khó khăn trước khi phải đương đầu với
các khó khăn ấy. Giáo dục tôn giáo nhằm vào huấn luyện
tâm, trau dồi những nguyên tắc đạo lý phổ thông hỗ trợ
đường lối sống của chúng ta trong hòa bình.
CÓ
THỂ THAY ĐỔI MỌI THỨ KHÁC MÀ KHÔNG CẦN THAY ĐỔI CHÍNH
MÌNH KHÔNG?
Con người được tạo
hóa phú cho trí thông minh. Từ lúc nhỏ đến tuổi thanh niên,
nhận thức về đời sống là nhận thức từ một cuộc sống
cường tráng trẻ trung với những tư tưởng và mong muốn
cao ngạo. Khi tới tưổi trưởng thành, tuổi bắt đầu có
lý trí hiện ra, và với cái nhìn chín chắn, người đó nhận
thức rằng tư tưởng không tưởng nhận định lúc còn trẻ
phải quẳng đi, và phải nhận thức lại đời sống đứng
theo phối cảnh thực sự của nó. Với tuổi càng cao, và với
cái nhìn đời một cách chín chắn, người đó thấy rằng
cần phải thay đổi, và điều chỉnh lối sống cho thích hợp.
Cả đến những hoài bão không tưởng trong cuộc sống chất
chứa trong lòng ở tuổi hoa niên, sẽ phải chấm dứt với
sự thay đổi thực tại. Chu trình đời sống không tránh
được như vậy ảnh hưởng đến con ngưới và các hoài
bão của mình.
' Khi tôi còn trẻ
tôi mong muốn thay đổi thế giới.
Khi tôi lớn lên, tôi nhận thức việc đó quá nhiều tham
vọng, và tôi phải thay đổi đất nước của tôi.
Như vậy, tôi nhận định khi tôi già hơn cũng quá nhiều
tham vọng, tôi muốn thay đổi thành phố của tôi. Khi tôi
nhận thấy tôi không thể làm được, tôi cố gắng thay
đổi gia đình tôi.
Bây giờ là một người già, tôi hiểu phải bắt đầu
nơi chính mình trước.
Nếu tôi thay đổi chính tôi trước, có lẽ tôi đã thành
công trong việc thay đổi gia đình, thành phố, và có thể
cả nước, và biết đâu, có thể là cả thế giới'.
Người thông minh nhất
và người ngu đần nhất cả hai đều không chịu thay đổi
tâm mình. (Đức Khổng Tử).
KINH
NGHIỆM ĐẾN VỚI TUỔI TÁC
Qua kiến thức sách vở
con người có đạt được mà không có kinh qua nhưng một số
người trẻ nghĩ rằng họ có thể giải quyết tất cả mọi
vấn đề. Khoa học có thể cung cấp vật chất để giải
quyết khó khăn của chúng ta, nhưng khoa học không thể giúp
ta giải quyết nhiều vấn đề của đời sống. Không có ai
thay thế được người khôn ngoan có kinh nghiệm cuộc sống.
Hãy nghĩ về câu nói này:' khi tôi 18, tôi nghĩ cha tôi quả
điên khùng. Bây giờ tôi 28, tôi hết sức ngạc nhiên là người
già đã học hỏi biết bao nhiêu trong 10 năm!
Thực ra không phải người
cha đã học được mà là người trẻ đã học để nhìn sự
vật trong đường lối chín chắn hơn.
Hơn hai nghìn năm qua,
Đức Phật, Khổng Phu Tử, Lão Tử và nhiều những bậc đạo
sư tôn giáo khác đã dạy những lời khuyên tuyệt vời. Lời
khuyên này chẳng bao giờ lỗi thời, vì căn cứ vào chân
lý, và lúc nào cũng vẫn hợp thời. Con người không thể
nào vượt qua được các khó khăn bằng cách không lưu ý đến
trí tuệ của người xưa. Trí tuệ của người xưa mở mang
nhân phẩm, hiểu biết, hòa bình và hạnh phúc.
SĂN
SÓC NGƯỜI GIÀ
Cha mẹ vào tuổi già,
thân hình ngày một yếu đi và tàn tạ, làm cho họ không ngớt
chịu bệnh não do hậu quả suy nhược của mỗi cơ quan
trong bộ máy tuần hoàn. Khi họ nhận thức đó là qui luật
tự nhiên không thể tránh khỏi, họ phải chấp nhận thực
tế phũ phàng này.
Hiếu hạnh là một yếu
tố quan trọng trong việc săn sóc cha mẹ già theo truyền thống
xã hội Á Châu. Là người Á Đông, đã từ lâu, chúng ta
có bổn phận chu cấp và phụng dưỡng cha mẹ già tại nhà
riêng của chúng ta theo khả năng.
Có phải theo luật định
người con có trách nhiệm phải trông nom cha mẹ già hay tàn
tật không? Bất hạnh thay câu trả lời là "Không".
Đơn giản, cha mẹ chỉ biết trông vào thiện chí của con
cái. Mặc dù, chúng ta hãnh diện về giá trị của chúng ta,
về di sản văn hóa, bất hạnh thay một số người già
không có tiền tiết kiệm, bị bỏ rơi bởi gia đình, càng
ngày càng đông tại Á Châu. Vấn đề là xét xem có phải
giá trị của chúng ta, gồm có hiếu thảo và tình thương yêu
giữa cha mẹ và con cái đang bị hao mòn vì sự tan vỡ của
mối quan hệ và gia đình truyền thống, sự thay đổi kinh tế
và về nhân khẩu học.
Những căn phòng tù
túng và những phòng chật chội không phải là chỗ thích hợp
cho những người già.Có rất nhiều trường hợp các người
già bị con cái và người thân cẩu thả không trông nom săn
sóc. Tính trạng đó thật đáng buồn, những giá trị và
truyền thống đã không còn đuợc thực thi nữa.
Những nhà (dành cho những
người lợi tức thấp và thất nghiệp) và môi trường
chung quanh hầu hết không phải là những chỗ thích họp cho
việc cư ngụ của người già. Trong tất cả những nơi cư
ngụ chọn lựa, để người già trong các nhà dưỡng lão kiểu
này chắc chắn là giải pháp đưa đến mặc cảm tội lỗi
về người con như vong ân bội nghĩa, không tận tâm, hay bất
hiếu và ruồng bỏ.
Nhà dưỡng lão, tuy có
đắt tiền, nhưng là nơi thích hợp nhất cho người già cư
ngụ. Mỗi người phải tự quyết định cho chính mình và
phải hiểu không thể có một sự lựa chọn nào hoàn toàn
được. Trong khi việc đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão lâu
dài là một giải pháp không khỏi gây đau thương, rất cần
thiết phải cung cấp sự săn sóc cho những cha mẹ già yếu.
Để cha mẹ trong một
viện dưỡng lão, không có nghĩa là "tống cha mẹ già
đi khỏi hẳn", ít nhất cũng không phải như vậy. Gia
đình vẫn chủ yếu trông nom săn sóc từ bước đầu chọn
viện dưỡng lão, thường xuyên liên lạc với ban giám đốc,
thường xuyên thăm viếng và cùng cha mẹ liên hệ giải quyết
các vấn đề gia đình. Cha mẹ phải được khuyến khích
vui vẻ và hiểu rằng có nhiều người thật sự quan tâm đến
mình.
Có một số người vô
trách nhiệm đem cha mẹ bệnh hoạn già cả vào khu hạng ba
của một bệnh viện, để lại địa chỉ sai, và trốn biệt
tăm. Đó là một hành động cực kỳ tàn ác đối với cha
mẹ già của chính mình.
Thái độ đối xử
cũng như sự lo lắng săn sóc cha mẹ già thịnh hành nếu thế
hệ già không bị ảnh hưởng trái ngược bởi sự thay đổi
xã hội-kinh tế mau lẹ về thành thị hóa và kỹ nghệ
hóa. Nên nhận thức rằng người già bị ảnh hưởng nhiều
về những sự thay đổi này và sự suy thoái về giá trị
tinh thần đạo đức xã hội. Nó cũng bao gồm đường lối
trách nhiệm theo đó người già phải được đối xử,
chăm sóc, kính mến và quý trọng.
Phương diện chăm sóc
người già cần đến trách nhiệm của toàn thể gia đình.
Sự kính trọng người già phải được duy trì vì không có
một cơ sở nào chăm sóc người già bằng gia đình.
Trong nhiều bài thuyết
giảng, Đức Phật khuyên con cái nên triệt để lưu ý đến
cha mẹ. Một câu ngạn ngữ cổ nói: "Hãy hết sức chăm
nom cha mẹ, bạn sẽ vô cùng thương tiếc khi cha mẹ từ giã
cõi đời"
CỜ
BẠC
Cờ bạc là đánh cuộc
bằng tiền bạc hay phẩm vật quý giá vào một trò chơi,
thi đua hay một cuộc đấu. Tuy một số ít xã hội chấp nhận
cho cờ bạc, nhưng không một xã hội nào có thể trừ tiệt
được cờ bạc.
Hy vọng kiếm tiền
nhanh dễ dàng là cái hấp dẫn người ta tìm đến cờ bạc.
Nếu cờ bạc hấp dẫn ở chỗ thắng được tiền thì sự
hồi hộp của nó nằm trong sự rủi ro, nguy hiểm, người
đánh cuộc sẽ bị thua. Với đa số người, cờ bạc trở
thành ghiền.
Những trò chơi liên hệ
chặt chẽ với cớ bạc dính líu đến yếu tố nặng về
may mắn. Xét vì chơi bài xì chẳng hạn, đòi hỏi phải chơi
giỏi, kết quả trước tiên do sự chia bài. Nhiều sòng
bài, như quay số, chỉ có thể thắng được do may mắn. Đánh
cá vào kết quả của một trận đấu thể thao, nhất là về
đua ngựa, hay về sổ số là một hình thức của cờ bạc
được hợp pháp phổ biến khắp nơi, một số chính phủ tạo
các hệ thống đổ các món tiền to lớn, giữ một phần
vào việc tổ chức cờ bạc để kiếm lời. Đánh cá về
các trận đấu bóng tròn rất thịnh hành tại Phương Tây.
Cờ bạc không hạn chế
trong một giai tầng xã hội nào. Nhiều bà nội trợ được
biết là những người cờ bạc thường đã sao lãng bổn phận
đối với gia đình và con cái khi họ đi sâu vào thói xấu
cờ bạc này. Họ đã đem cả tiền chợ để cờ bạc và
trở nên con mồi của chủ nợ cá mập cho vay nặng lãi lúc
nào cũng sæn sàng ra tay "tế độ" cứu vớt các phụ
nữ bất hạnh này. Những bà đam mê cờ bạc đi đến độ
làm hại cả sự trong trắng của họ trước những kẻ tham
tàn để có tiền gỡ.
Đam mê cờ bạc được
coi là bệnh, và những tổ chức gọi là Hội Chống Cờ Bạc
Vô Danh được thành lập để giúp đỡ các cá nhân đau khổ
vì vấn đề này.
Cờ bạc bất hợp
pháp là một trong những ngành kinh doanh lớn nhất trong hiện
tại, và tổng số thu nhập của họ còn hơn cả tổ chức
cờ bạc hợp pháp. Cờ bạc có thể trở thành nguyên nhân
của sự suy sụp của một người nếu ông ấy hay bà ấy
đam mê cờ bạc theo như lời dạy của Đức Phật.
NỢ
NẦN
Nhiều người ghiền cờ
bạc và rượu chè mang công mắc nợ để thỏa mãn thói xấu
cờ bạc và rượu chè, làm như vậy họ rất dễ dàng rơi
vào nanh vuốt của chủ nợ cá mập cho vay nặng lãi vô lương
tâm.
Nhiều chủ nợ hoạt
động có giấy phép thường tính lời cao về những số tiền
họ cho con nợ vay. Mặc dù số tiền cho vay thì nhỏ, nhưng
họ bắt con nợ phải ký kết với một số tiền cao hơn
như một hình thức để bảo đảm. Trường hợp, người
vay không trả được nợ, chủ nợ sẽ đưa ra tòa án, họ
bắt người vay ký kết giấy tờ với số tiền cao hon để
làm căn bản cho việc họ đòi nợ.
Những chủ nợ và những
con cá mập cho vay có giấy phép là nguyên nhân suy sụp của
những người ghiền rượu và cờ bạc vô kế khả thi, bọn
này thường khai thác cái yếu kém cố hữu trong con người
nạn nhân. ' Miệng người say làm cạn túi tiền '- một câu
châm ngôn nói như vậy.
Cả đến những người
tại các xã hội giàu có cũng tìm đến những người cho
vay như phương tiện để giải quyết những khó khăn tài
chánh. Những tài sản và đất đai có giá trị đôi khi cũng
đem cầm cho những người cho vay tiền như một hình thức bảo
đảm tiền vay để đầu cơ vào thương trường. Người vay
không trả được, nhửng chủ nợ cho vay tiền vô lương tâm
không có mối e ngại gì mà không đưa ra tòa để đòi nợ.
Luật lệ ấn định cho phép tịch thu tài sản nguờì nợ
để trả lại tiền vay, cùng với án phí. Một người không
thiếu nợ ai là một người hạnh phúc trong đời, đó
là lời Phật dạy.
Nhiều thương gia nợ nần
quá nhiều, không thể tự giải quyết được, không còn giải
pháp nào hơn là tự tuyên bố vỡ nợ.
NHỮNG
KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP
Những khó khăn của
con người rất phức tạp và xẩy ra bất thần trong nhiều
phương cách. Từ khi sanh ra cho đến hơi thở cuối cùng, biết
bao nhiêu khó khăn chúng ta phải đương đầu. Không ai có thể
tránh được mà không đối đầu với các loại khó khăn.
Đức Phật khuyên chúng ta phải hiểu biết bản chất của
các khó khăn của chúng ta nếu chúng ta muốn sống an lạc.
Ngài cũng khuyên chúng ta cân nhắc mục đích của cuộc đời
và cố gắng tìm ra tại sao ta không thỏa mãn với đời sống
và thế giới. Nếu ta hiểu được những điều đó, chúng
ta không có gì phải đau khổ và quá mức sợ hãi, thất vọng
và dao động.
Cách giải quyết cái
khổ của con người của Đức Phật là thiết thực và dựa
trên kinh nghiệm chứ không phải có tính cách lý thuyết hay
trìu tượng. Không có con đường tắt để tránh khỏi các
khó khăn. Chúng ta phải trau dồi đường lối sống của chúng
ta để khám phá ra nguyên nhân của các khó khăn mà ta phải
đương đầu. Chúng ta phải hiểu không có cuộc sống nào
mà không có khó khăn. Nếu muốn thực sự tự tại, chúng
ta phải quan sát các khó khăn của chúng ta bằng cách giảm
thiểu lòng vị kỷ qua sự hiểu biết tại sao các khó khăn
ấy làm ta khổ sở.
Tất cả chúng ta đều
mong muốn có một đời sống như ý và an lạc nhưng bao nhiêu
trong chúng ta có thể đạt được hạnh phúc như vậy? Chúng
ta mong muốn làm bất cứ việc gì có thể được để được
thỏa mãn, nhưng rất khó khăn đạt được sự thỏa mãn thực
sự.
-ooOoo-