phần [01]
ĐỜI
SỐNG CON NGƯỜI VÀ
NHỮNG KHÓ KHĂN
Loài người chúng ta đã
đạt được một mức tiến bộ quan trọng trên phương diện
vật chất mà ở thế kỷ trước tiến bộ này chỉ là điều
mơ ước. Những kỳ diệu của kỹ thuật tân tiến đã cho
chúng ta sức mạnh to lớn vượt qua sức mạnh của thiên
nhiên. Tuy đã thắng được nhiều thảm họa nhưng câu hỏi
chủ yếu vẫn là: 'Chúng ta có hạnh phúc nhiều hơn ông
cha ta trong quá khứ không?' Câu trả lời là 'Không'.
Ngược đãi phụ nữ,
trẻ em, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo và tầng lớp xã hội
thấp, ngăn cách mầu da và phân biệt đẳng cấp vẫn gia
tăng không giảm sút.
Nhiều người vui hưởng
tiện nghi vật chất lại đau khổ hơn những người 'nghèo'
đồng loại. Bệnh tâm thần, tinh thần căng thẳng, cô
đơn, là những vấn đề nghiêm trọng mà chúng ta phải đối
phó trong xã hội hiện đại. Câu hỏi quan trọng là: 'Ai
là người chịu trách nhiệm về những tội lỗi đang hoành
hành thế giới hiện nay?'
Có nhiều người đã vội
vã khen ngợi tiến bộ mà nhân loại đã đạt được. Những
nhà tôn giáo, khoa học gia, chính trị gia, và kinh tế gia - tất
cả tuyên bố cho rằng nhân loại mắc nợ họ về sự tiến
bộ này. Vậy ai là người đáng bị khiển trách? Chúng tôi
nghĩ tất cả mọi người đồng đều chịu trách nhiệm. Hãy
phản quang tự chiếu ngay nơi chúng ta và tự hỏi hết sức
thành khẩn là phải chăng chính chúng ta chịu trách nhiệm về
sự thất bại không mang hòa bình và hạnh phúc cho đồng loại.
Tất cả mọi người
đều chịu trách nhiệm về những sự kiện khủng khiếp
đang diễn ra ngày nay vì quá sợ hãi không dám nói lên sự
thật. Chúng ta hãy lấy ví dụ về sự khai thác ham muốn thỏa
mãn dục vọng của con người. Tham tiền, tham quyền thế đã
khiến những người vô lương tâm khuếch trương ngành kinh
doanh trị giá nhiều triệu đô la để cung cấp ý thích nhục
dục dưới mọi hình thức, và nhũng trẻ thơ vô tội đã bị
vương bẫy và là nạn nhân của tệ hại này.
Lịch sử thế giới chưa
bao giờ lại cấp thiết như ngày nay làm sao thoát khỏi xung
đột, ác cảm, ích kỷ, lừa đảo và tranh giành. Nói cho đúng
chúng ta cần hòa bình không những chỉ cho cuộc sống cá
nhân chúng ta ở nhà, nơi làm việc mà còn ở trên qui mô
toàn cầu. Căng thẳng, lo âu và sợ hãi phát sinh từ mâu
thuẫn không những phá vỡ mà còn không ngưng làm kiệt quệ
cả hạnh phúc tinh thần lẫn vật chất. Ham muốn ngự trị
mọi sự chung quanh mình, con người đã trở thành chúng sinh
tàn bạo nhất trên thế giới này. Con người đã thành
công ở một mức độ nào đó, nhưng đã phải trả một
giá rất đắt. Con người đã phải hy sinh cả an lạc nội
tâm để đổi lấy tiện nghi vật chất và uy quyền.
Vấn đề căn bản mà
chúng ta phải đối đầu ngày nay là sự suy đồi của luân
lý và sự lạm dụng trí thông minh. Bất chấp tất cả những
tiến bộ đạt được do khoa học và kỹ thuật, thế giới
vẫn không yên ổn và hòa bình. Quả thực khoa học và kỹ
thuật đã làm đời sống của con người bất an hơn trước
đây. Theo cách chúng ta làm, nếu không có sự cải thiện
tinh thần thì rồi đây chính nhân loại sẽ lâm vào tình trạng
nguy hiểm có thể bị tiêu diệt.
VƯỢT
QUA LẠC THÚ TRẦN TỤC
Các tôn giáo trên thế
giới luôn luôn khẳng định hạnh phúc của con người không
chỉ tùy thuộc vào việc thỏa mãn ham muốn và đam mê vật
chất hoặc đạt được của cải vật chất và quyền thế.
Cả đến khi chúng ta có được tất cả lạc thú trần
gian, chúng ta vẫn không hạnh phúc và an lạc nếu tâm chúng
ta luôn luôn bị ám ảnh bởi lo âu và sân hận phát sanh do
ngu muội không nhìn thấy bản chất thực sự của cuộc sống.
Hạnh phúc đích thực
không thể xác định đơn phương về phương diện của cải,
uy quyền, con cái, danh tiếng hay sáng tạo. Những thứ này
chắc chắn có mang lại một vài tiện nghi vật chất và
tinh thần tạm bợ nhưng chúng không tạo được hạnh phúc
lâu dài theo nghĩa rốt ráo. Điều này rất đúng khi của cải
tạo dành được bằng phi nghĩa hoặc có được do tham
nhũng. Chúng trở thành ngưồn gốc của khổ đau, tội lỗi
và phiền não hơn là đem hạnh phúc cho sở hữu chủ.
Rất thông thuờng
chúng ta cứ tưởng rằng thỏa mãn năm giác quan là có thể
bảo đảm hạnh phúc. Cảnh say mê quyến rũ, âm nhạc du dương,
mùi thơm ngào ngạt, vị giác ngon ngọt, và sự tiếp xúc với
thân hình cám dỗ khiến chúng ta đi lầm đường và lừa dối
chúng ta làm chúng ta lệ thuộc vào những lạc thú thế
gian. Trong khi không ai là không công nhận đúng là có những
niềm hạnh phúc ngắn ngủi khi mong chờ lạc thú cũng như
trong khi hưởng lạc thú thì lạc thú ấy rất phù du. Khi một
người nhìn những lạc thú một cách khách quan, người đó
thực sự hiểu được cái phù du và bản chất bất toại
nguyện của những lạc thú ấy. Người đó sẽ thông suốt
được sự thật: Cuộc sống này thực sự có ý nghĩa gì
và làm sao đạt được chân hạnh phúc. Chúng ta có thể
phát triển và duy trì an lạc nội tâm bằng cách hướng các
tư tưởng của chúng ta vào tuệ giác bên trong thay vì bên
ngoài. Chúng ta phải nhận thức những nguy hiểm và những cạm
bẫy của sức mạnh phá hoại do tham, sân si. Chúng ta phải
học hỏi, trau dồi và giữ vững sức mạnh nhân từ của
lòng hảo tâm, tình thương và hòa hợp. Chiến địa ở
trong tâm ta, chiến đấu không phải bằng võ khí hay bất cứ
bằng nguồn nào khác mà chính bằng sự tỉnh thức về tất
cả sức mạnh tiêu cực và tích cực trong tâm của chúng
ta.
Luôn luôn tỉnh thức
làm con người hoàn thiện. Người hoàn thiện ứng xử với
tâm vô ngại. Tựa như cái dù, tâm hành hoạt tốt dù hoàn
toàn mở hết. Sự tỉnh thức này là bí quyết để thoát
khỏi mâu thuẫn và xung đột cũng như để cho tư tưởng
thiện xuất hiện.
Tâm là cội nguồn của
tất cả hạnh phúc và đau khổ. Muốn hạnh phúc trên thế
giới này, tâm của một cá nhân trước nhất phải an lạc
và hạnh phúc. Hạnh phúc của một cá nhân dẫn đến hạnh
phúc xã hội, hạnh phúc xã hội có nghĩa là hạnh phúc của
quốc gia. Chính trên hạnh phúc của các quốc gia mà hạnh
phúc của thế giới được tạo dựng. Nơi đây chúng ta phải
dùng hình ảnh của một tấm lưới. Hãy tưởng tượng, toàn
thể vũ trụ là một màng lưới mênh mông và mỗi chúng
sinh là một mắt lưới trên tấm lưới ấy. Nếu chúng ta
làm hư một mắt lưới, cả tấm lưới sẽ bị lung lay. Cho
nên mỗi cá nhân phải hạnh phúc để giữ toàn thế giới
hạnh phúc.
Từ những bài học của
cuộc đời, rõ ràng ta thấy chiến thắng thực sự không
bao giờ đạt được do xung đột. Thành quả không bao giờ
đạt được do mâu thuẫn. Hạnh phúc không bao giờ có được
qua hận thù. Hòa bình chẳng bao giờ đạt được bằng tích
lũy nhiều của cải hơn hay đạt được do sức mạnh vật
chất. Hòa bình chỉ có thể có được khi chúng ta không vị
kỷ và giúp đỡ thế giới bằng hành động của tình thương.
Hòa bình trong tâm chiến thắng tất cả lực lượng chống
đối và cũng giúp chúng ta duy trì tâm lành mạnh, sống một
cuộc sống sung túc đầy đủ hạnh phúc và toại nguyện. 'Vì
từ nơi tâm con người, chiến tranh phát khởi, thì cũng từ
nơi tâm con người, thành trì hòa bình có thể kiến tạo
được'.
LẠC
THÚ TÌNH DỤC
Ngày nay, đặc biệt tại
nhiều nơi được gọi là xã hội giàu có, người dân lại
đối đầu với nhiều khó khăn hơn, bất toại nguyện, và
tinh thần xáo trộn hơn những xã hội chậm tiến. Đó là
do con người đã trở thành nô lệ cho lạc thú tình dục
và khao khát thú vui trần tục mà không có sự phát triển
đức hạnh và trí tuệ. Tinh thần căng thẳng, sợ hãi, lo
âu, và bất an xáo trộn tâm họ. Tình trạng của những vấn
đề này trở nên thành điều khó khăn lớn nhất tại nhiều
quốc gia. Vì người dân trong các nước phát triển không biết
cách sống tri túc trong đời sống nên đương nhiên họ cảm
thấy bất toại nguyện.
Có bốn lãnh vực mà
con người cố gắng tìm trong đó mục đích của cuộc đời.
- Mức độ vật chất;
- Yêu và ghét hay cảm nghĩ thích và không thích;
- Nghiên cứu và lý luận
- Hiểu biết thông cảm căn cứ trên sự phán xét thuần
túy và thái độ thẳng thắn.
Lãnh vực cuối cùng rất
thực tế và là một phương pháp bền vững không bao giờ tạo
thất bại. Ngày nay, người dân cần nhiều của cải hơn,
không những vì đời sống cá nhân và làm tròn nhiệm vụ,
mà vì tham dục tăng lên tích lũy cho thật nhiều. Do đó,
tranh giành đã xuất hiện.
Muốn có lạc thú trần
gian phải có một vật thể bên ngoài hay một bạn đường
nhưng muốn đạt hạnh phúc tinh thần, không cần thiết phải
có đối tượng bên ngoài.
Nhiều thanh niên đã mất
lòng tự tin và phải đương đầu với khó khăn trong việc
quyết định phải làm gì cho vừa lòng với với cuộc sống
của họ. Nguyên nhân chính của thái độ tinh thần này là
lòng tham vọng và lo âu quá đáng gây nên bởi sự tranh
đua, ganh ghét và bất an. Những khó khăn như vậy đương
nhiên tạo không khí rất xấu cho những người khác muốn sống
bình an. Thật sự là khi một cá nhân gây chuyện, cách cư xử
của cá nhân ấy đã ảnh hưởng đến phúc lợi của người
khác.
Con vật chẳng bao giờ
hưởng hạnh phúc nhưng chúng có lạc thú. Hạnh phúc không
thể căn cứ vào sự thỏa mãn độc đoán của cái ta (ngã)
của một cá nhân mà là trong việc hy sinh lạc thú của
mình cho phúc lợi của người khác.
SỬ
DỤNG CỦA CẢI MỘT CÁCH HỢP LÝ
Đối với đa số, một
người, một cộng đồng hay một quốc gia giàu có có nghĩa
là 'giàu có' trong ý nghĩa có nhiều tài sản hay tiền bạc
do sự đạt được từ vật chất. Nghĩa chữ của cải nguyên
thủy là trạng thái hạnh phúc. Khối cộng đồng thịnh vượng
mang ý nghĩa ấy. Nhưng bây giờ người ta sử dụng danh từ
này vào ý nghĩa tài sản thường để khuyếch trương phúc
lợi vật chất hơn là mở mang trạng thái tinh thần .
Đương nhiên chúng ta
không thể không công nhận lòng ham muốn của cải là yếu
tố phụ quan trọng để thành công nếu được gìn giữ
trong phạm vi thích đáng. Ham muốn, chính nó không phải là
một tội lỗi. Tuy nhiên không kiềm chế nó sẽ dẫn đến
sự bất mãn không ngừng, thèm muốn, tham, sợ hãi và tàn
ác với đồng loại. Tích lũy tiền bạc có thể mang đến
một thứ hạnh phúc ở một mức độ nào đó, nhưng không
thể tự nó mang lại sự thoả mãn hoàn toàn.
Hầu hết những người
có nhiều của cải lại thất bại vì họ không hiểu phương
tiện với cứu cánh. Họ không hiểu bản chất, ý nghĩa và
chức năng đúng của của cải, của cải chỉ là một phuơng
tiện mà người ta có thể đạt được cứu cánh của hạnh
phúc tối thượng. Nhưng ta có thể hạnh phúc mà không cần
phải giàu có. Một câu chuyện cổ Trung Hoa làm sáng tỏ việc
này .
Có một ông vua muốn
biết làm sao có được hạnh phúc thực sự. Một vị đại
thần tâu với vị vua này muốn có hạnh phúc thực sự là
phải mặc áo của một người thực sự hạnh phúc. Sau một
thời gian dài, nhà vua đã tìm được một người hạnh phúc
thực sự, nhưng người sung sướng hoàn toàn này lại không
có áo cho nhà vua. Không có cả đến cái áo mà lại là
người hạnh phúc!
Của cải phải được
sử dụng hợp lý và khôn ngoan. Của cải phải được sử
dụng cho hạnh phúc chính mình và cho người khác. Nếu một
người bỏ hết thì giờ bám víu vào tài sản của mình
không chu toàn nhiệm vụ với xứ sở, dân tộc và đạo giáo,
kẻ đó sống một cuộc sống trống trải đầy phiền muộn.
Có quá nhiều người bị ám ảnh với sự đạt được vật
chất đến mức mà họ quên cả trách nhiệm với gia đình
và người đồng loại. Hạnh phúc là một điều lạ. Bạn
càng chia sẻ hạnh phúc bao nhiêu thì bạn lại càng toại
nguyện bấy nhiêu.
Nếu ta ích kỷ, đến
khi phải từ giã thế giới này, thì đã quá trễ để tận
dụng của cải của ta. Không một ai, kể cả người giàu
có, được thực sự lợi lạc từ những người giàu có
chuyên tích lũy của cải.
TÍCH
LŨY CỦA CẢI
Một số người nghĩ rằng
càng tích lũy được nhiều của cải thì có thể vượt qua
được các khó khăn. Cho nên họ nỗ lực làm việc để trở
nên giàu có, nhưng khi trở thành tỷ phú họ lại phải
đương đầu với rất nhiều khó khăn bất ngờ - bất an,
lo âu, thù địch và nỗi khó khăn giữ được của cải.
Điều này cho thấy rõ ràng việc tích lũy của cải không
thôi không phải là giải pháp cho các khó khăn của con người.
Của cải chắc chắn có thể giúp vượt qua một số khó khăn
nhưng không phải hạnh phúc trên thế giới này lại có thể
đạt được bằng tiền bạc. Tiền bạc không thể nhổ hết
gốc rễ tất cả mọi khó khăn.
Các triết gia, các nhà
tư tưởng lớn và người duy lý đã vạch rõ bản chất
trong nhược điểm của con người và cách vượt qua. Tuy nhiên
một số đông coi đó chỉ là lý thuyết suông mà không phải
là giải pháp cho vấn đề. Đôi khi trí tuệ lại gây nhiều
khó khăn hơn vì quan niệm ích kỷ về mình lại tăng trưởng.
LỜI
KHUYÊN CỦA ĐỨC
PHẬT
Trái với một số quan
niệm sai lầm ở vài nơi cho rằng Phật Giáo với tinh thần
bao dung, và đặc biệt trong việc tu tập thiền định, đã
khuyên các đệ tử không nên hăng say mà phải cần cù làm
việc. Đức Phật, trong nhiều lần thuyết giảng, thực ra
khuyến khích các đệ tử không nên ăn không ngồi rồi và
biếng nhác mà phải tích cực làm việc và chuyên cần, tạo
dựng của cải bằng phuơng tiện chính đáng để duy trì sự
ổn định kinh tế. Đức Phật khuyến khích các đệ tử
trong khi tạo dựng của cải phải tôn trọng nguyên tắc đạo
lý. Ngài cũng dặn dò con người không nên trở thành nô lệ
cho việc tích lũy của cải chỉ vì lợi ích riêng tư mà
nên bảo vệ của cải bằng cách không cẩu thả và phí phạm.
Ngài khuyên của cải phải được sử dụng làm phương tiện
cho đời sống gia đình bằng những hành động nhân từ để
giúp đỡ thân quyến và bạn bè khi cần thiết, giúp đỡ
người nghèo, người cùng khổ.
Trong những bài thuyết
giảng của Ngài về nhiều loại hạnh phúc liên quan đến của
cải, Đức Phật phân định bốn loại hạnh phúc như sau:
- Hạnh phúc trong việc
tạo dựng của cải bằng những phương tiện chính đáng
và hợp pháp.
- Hạnh phúc trong việc
sử dụng thích đáng và chính xác của cải tích lũy.
- Hạnh phúc không mắc
nợ ai
- Hạnh phúc không áp
dụng phuơng tiện nào bất hợp pháp hay trái phép trong việc
tích lũy của cải và cũng không gây cho một ai bị hại
hay bị thương trong lúc tạo dựng của cải.
VỊ
THẾ CỦA CON NGƯỜI TRÊN HÀNH TINH NÀY
Theo quan điểm của Phật
Giáo, con người khác biệt con vật vì chỉ có con người phát
triển trí tuệ, hiểu biết và phản ảnh được lý luận của
mình. Con người có nghĩa là ' kẻ có một tâm trí để suy
nghĩ'. Mục đích của tôn giáo là giúp con người suy nghĩ
đúng, nâng con người trên tầm mức con vật, giúp con người
hiểu biết sự tương quan với vũ trụ và sống hòa hợp để
con người có thể tiến tới mục tiêu tối hậu của hạnh
phúc tối thượng và làm tròn nhiệm vụ của mình.
Suốt từ khi có thể
thỏa mãn ba nhu cầu cần thiết để sinh tồn là thực phẩm,
chổ ở và sinh sản thì ba câu hỏi đã từng làm trở ngại
con người là ' Tôi là ai? Tôi đang làm gì đây? Tôi cần
gì? Qua lịch sử loài người, nhiều hệ thống tư tưởng
đứng đầu là tôn giáo, đã tiến hóa để có câu trả lời
cho ba câu hỏi ấy. Đương nhiên, vì con người hỏi mình đầu
tiên, câu trả lời được bầy tỏ từ quan điểm của chính
con người.
CON
NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ
Từ lâu con người coi
mình là trung tâm vũ trụ, là cư dân quan trọng. Theo quan điểm
này, thế giới được tạo ra cho con người, dành cho con người
nên con người muốn lấy gì thì lấy vì con người là sinh
vật được biệt đãi nhất và mọi thứ hiện hữu trên
hành tinh này dành riêng độc nhất cho ý thích của con người.
Điều trên đây gọi
là quan điểm 'nhân văn' này chịu trách nhiệm trực tiếp về
sự cưỡng đoạt khủng khiếp hành tinh của chúng ta và
không mảy may đếm xỉa gì đến quyền lợi của những
sinh vật khác đang cùng tồn tại với chúng ta. Chẳng hạn,
có những trường hợp bi thảm như một số loại thú đã
tuyệt chủng do sự giết chóc không cần thiết bởi những
con người không chút tình cảm để thỏa mãn thú vui thể
thao hoặc mục đích thương mại. Thậm chí ngày nay sự
chinh phục thiên nhiên bởi khoa học và kỹ thuật đang được
tán thưởng. Chúng ta phải vận động số người nhận thức
được sự phá hoại to lớn do con người gây ra nhân danh sự
"tiến bộ" ngày một tăng lên. Cho đến ngay nay, thiên
nhiên đã hết sức tha thứ và đã để cho con người tiếp
tục nghĩ rằng hành tinh này tạo ra cho con người cho nên
con người tha hồ muốn cưỡng đoạt, cướp bóc để thỏa
mãn lòng tham vô độ hầu có của cải vật chất và nhục
dục. Ngày nay đã có rất nhiều dấu hiệu cảnh báo cho thấy
sắp hết thời làm mưa làm gió rồi. Hy vọng nếu từ bi
và chánh kiến không cứu được thế giới này thì ít nhất
cũng tính ích kỷ ấy và lòng ham muốn gìn giữ và thỏa
mãn cá nhân sẽ buộc con người phải có suy nghĩ khôn
ngoan, hợp lý về môi sinh đã bị kiệt quệ và về sự
đau khổ của các sinh vật đồng loại trên trái đất này.
Muốn hiểu vị thế của
con người trong Vũ Trụ này từ quan điểm Phật Giáo, chúng
ta trước nhất hãy nhìn vào quan điểm của Đức Phật về
vũ trụ. Theo Ngài vũ trụ là khoảng không gian có trật tự
rộng lớn. Giáo lý của Ngài sắp toàn thể vũ trụ thành
ba nhóm: hành tinh có sinh vật, hành tinh với nhiều thành phần
cấu tạo, và không gian.
Chúng ta có thể thấy
con người là một sinh vật đặc biệt được ưu đãi xuất
hiện để vui sống trên một hành tinh đã hình thành giữa
trung tâm vũ trụ. Phật Giáo xem con người là một chúng
sinh nhỏ xíu không chỉ về sức mạnh mà còn về tuổi thọ.
Con người cũng không hơn gì sinh vật khác ngoại trừ khả
năng hiểu biết.
Theo sinh vật học, con
người lại yếu hơn những sinh vật khác dù to hay nhỏ hơn.
Thú vật sinh ra được trang bị một loại vũ khí nào đó
để tự bảo vệ và sinh tồn. Trái lại con người có trí
tuệ để làm mọi chuyện, nhưng không phải là vũ khí. Con
người được coi như một sinh vật có văn hóa biết hòa hợp
với sinh vật khác mà không phá hoại chúng. Tôn giáo được
khám phá ra bởi con người với mục đích ấy. Mọi thể sống
đều chia sẻ cùng lực sống truyền cho con người. Chúng
là một phần của sinh lực vũ trụ mang nhiều dạng thức
khác nhau trong những kiếp tái sanh vô tận, chuyển từ người
thành vật tới thành những hình thái siêu phàm và rồi lại
trở lại, thúc đẩy bởi sự ham muốn sự sống ( bản
năng sinh tồn) đi từ sinh đến tử và lại tái sanh trong một
cái vòng bất tận được gọi là luân hồi. Ba nguồn phương
hại cho con người khiến phải luân hồi là Tham, Sân và Si.
Cái vòng này chỉ bị phá vỡ duy nhất do sự phát triển
Trí Tuệ, nó hủy diệt những gông cùm ấy và chấm dứt
tham dục. Định mệnh chung của chúng ta với tư cách là một
sinh vật sống trên hành tinh này là tất cả đều muốn sống.
'Ai cũng run sợ trước
gậy gộc
Ai cũng sợ chết
Nếu biết như vậy
Ta chẳng nên đánh đập
Mà cũng chẳng nên gây đánh đập'
-- (Kinh Pháp Cú)
Tất cả mọi sự vật
đều tùy thuộc lẫn nhau để sinh tồn. Con người không thể
coi mình khác hơn (cao hơn) các sinh vật khác vì thân xác phải
tùy thuộc vào cây cối, nước, dưỡng khí vân vân để sống,
đồng thời tâm trí cũng tùy thuộc sự hiện hũu của tư
tưởng mà tư tưởng lại dựa vào dữ kiện cảm giác bắt
nguồn từ đối tượng hay người từ thế giới bên ngoài.
Toàn thể vũ trụ phải đưọc coi như một tấm lưới mênh
mông: nếu một mắt lưới bị lung lay, tất cả tấm lưới
cũng chấn động. Con người có bổn phận với thế giới
vì con người tùy thuộc vào thế giới để sống cả về
tinh thần lẫn vật chất. Cho nên thái độ của con người
đối với thế giới không thể cao ngạo như một đứa con
một được nuông chiều mà là khiêm tốn: thế giới tạo
ra không phải chỉ để cho con người hay cũng chẳng phải
thế giới được tạo ra mãi mãi ưu tiên cho con người. Không
có sự thiên vị trong các điều kiện vật chất. Chúng cũng
chẳng hiền lương mà cũng chẳng dữ mà trung lập. Con người
sống được là vì phần còn lại của thế giới cho phép
con người làm như vậy.
Cho nên con người không
nên bóp nặn mọi thứ trên thế giới chỉ vì lợi ích
riêng tư. Con người phải duy trì cảm giác sợ hãi và tôn
trọng thiên nhiên và tất cả sinh vật. Con người là kẻ mới
đến so với hành tinh trái đất này. Con người phải học
để kính mến đồng bào, học hỏi cách cư xử của một
người khách hơn là một người chơi bài muốn thắng tất
cả.
Nhận định sự phụ
thuộc lẫn nhau nên Đức Phật đã khuyên tín đồ phải thực
hành hạnh từ ái với tất cả, trải tình thương đến tất
cả sinh vật. Không có nghĩa là Ngài dạy chỉ đem tình thương
đến những con người đồng loại thôi (Cũng không có nghĩa
là Ngài căn dặn phải có một sự đối xử đặc biệt với
người Phật Tử). Khi Ngài nói đến tình thương, Ngài lúc
nào cũng nói đến tình thương cho tất cả sinh vật (sabbe
satta) cả đến những hình thức không ở dạng vật chất,
thức và siêu thức.
Ba loại sinh: sinh vật
sinh ra do ẩm ướt, do noãn sinh, do thai sinh và loại sinh ra
ở những cảnh giới khác của cuộc sống. Rõ ràng Đức Phật
dạy nếu con người sống tại hành tinh này, con người phải
phát triển thái độ từ ái đến không những người
đồng loại mà đến tất cả những sinh vật sống trên
hành tinh này và tất cả sinh vật ở các cảnh giới khác của
cuộc sống. Chỉ khi đó con người mới có thể đánh bại
được tư tưởng vị kỷ luôn đặt nhu cầu thiết yếu và
sự sinh tồn của mình trên nhu cầu của tất cả sinh vật
khác.
Trong vũ trụ Phật giáo,
con người đơn giản chỉ là cư dân trên một trong những cảnh
giới hiện hữu mà con người có thể sẽ đến sau khi chết.
Những cảnh giới này có từ mức độ siêu thức qua tham dục
cao độ xuống đến bốn trạng thái bất hạnh. Con người
đứng ở vị trí trung bình trong những cảnh giới ấy. Cái
mà được gọi là cảnh giới thần thánh siêu phàm là ở
trong trạng thái hạnh phúc, nhưng cảnh giới này cũng không
trường cửu. Mặc dù có những dấu hiệu cho ta tin tuởng
có một số chúng sinh thông minh hiện hữu trên những hành
tinh khác trong vũ trụ nhưng không thể xác minh có những
chúng sinh giống con người hay không. Trong phạm vi rộng lớn
của vũ trụ, Phật Giáo cố gắng tìm hiểu vị trí của
con nguời trong vũ trụ. Trong phạm vi này, con người hình như
rất nhỏ nhoi. Chúng ta phải thêm vào xu hướng về tàn ác
của con người, về khả năng làm đau đớn người khác khiến
con người ở một lúc nào đó không hơn gì con vật. Con vật
chỉ tấn công để thỏa mãn nhu cầu căn bản như vì thực
phẩm, chổ ở, hay xác thịt.
VỊ
TRÍ ĐỘC ĐÁO CỦA CON NGƯỜI
Ta có thể tranh luận rằng
đó là quan điểm tiêu cực về con nguời vì chuyển con người
xuống một địa vị thấp và không lưu ý đến những thành
quả rực rỡ về triết lý, tôn giáo, tâm lý, khoa học, mỹ
thuật, kiến trúc, văn chuơng, phát triển văn hóa và những
thứ tương tự như vậy. Ngược lại trong phạm vi vũ trụ
con người mang một vị trí độc đáo vì con người có đặc
quyền hiếm có nhất là dễ dàng đi đến giải thoát. Đó
là vì ba lý do.
Thế giới loài người
là sự pha trộn vừa phải, quân bình giữa sung sướng và
khổ đau. Khi lạc thú gia tăng (cảnh trời) và khổ đau chiếm
ưu thế (thế giới hạ đẳng) tâm không quay về với tinh
thần. Người Phật Tử khẳng định là khắc khổ đến cực
đoan hay tự nuông chiều đến cực đoan không dẫn đến sự
phát triển trí tuệ và hiểu biết. Con Đường Trung Đạo
giữa hai cực đoan lạc thú và khắc khổ được tán thành
và thế giới loài người cho con người cơ hội bước lên
con đường Trung Đạo. Lý do thứ hai là cuộc đời tương
đối ngắn ngủi của kiếp người và cái chết đến không
tiên đoán được. Đối đầu v?i cái chết tất nhiên ta thuờng
ngả về tinh thần. Lý do thứ ba là trong khi trong các cảnh
giới khác, dân cư là những người chịu hậu quả của các
nghiệp quá khứ, con người ở trong một vị trí thuận lợi
để tạo nghiệp mới, và như vậy con người có thể uốn
nắn định mệnh của chính mình.
Tất cả những điều
này đem lại cho con người trách nhiệm tìm cách giải thoát
trong cảnh giới loài người. Con người thực quả là người
Sáng Tạo và là Cứu Tinh của chính mình. Nhiều người tin
rằng tôn giáo là từ thiên đường xuống nhưng người Phật
Tử biết Phật Giáo khởi thủy từ trái đất và tiến đến
thiên đường.
Điều này ngụ ý là mỗi
người đều có nơi mình Phật Tính (khả năng viên mãn) mà
con người có thể phát triển không cần đến sự giúp đỡ
bên ngoài. Ta có thể trở thành Phật do sự sanh ra trong cảnh
giới loài người, vì chính tại nơi đây, con người có thể
đạt được một cuộc sống trong trạng thái toàn vẹn. Người
Phật Tử đồng ý với quan điểm của Thi Sĩ Shakespeare về
cái nghịch lý của loài người:
Con người, một công
trình
cao thượng trong lẽ phải,
khả năng vô tận trong hình thái và chuyển động;
hoạt động diễn đạt đáng ngưỡng mộ làm sao,
giống như một thiên thần trong hiểu biết,
giống như một thượng đế: cái huy hoàng của thế giới,
viên kim cương tuyệt đẹp của động vật, và nhưng với tôi
cái tinh hoa của đất bụi đó?
-- (Hamlet 2:2)
Trong nhiều phương diện,
con người ngu muội, nhưng con người có hạt giống để trở
nên tối thượng trên tất cả sinh vật: bậc toàn giác. Một
số nói rằng cuộc sống loài người ở giữa thiên đàng
và địa ngục vì tâm con nguời có thể phát triển dễ
dàng để đạt hạnh phúc trên thiên đuờng, và khi tâm lạm
dụng thì cũng dễ dàng xuống địa ngục để chịu đau khổ.
Con người xứng đáng
là con người chỉ nếu con người quan tâm đến nhân loại
hay thương nhân loại.
Kẻ kiêu ngạo không
thiên đường
Người tham lam không lân bang
Kẻ sân si không có cả chính mình -- (Triết
Lý Trung Hoa)
'Cá nhân tự mình
không tự lực được. Vậy nên đời sống xã hội của con
người cần đến sức mạnh của sự hợp tác. Con người
không phải là con người nếu không có xã hội. Con người
với thiên nhiên là một'. -- (Một Nhà Triết Lý Hy Lạp)
Trong giáo lý của Đức
Phật có ghi rõ con người đạt hạnh phúc thiên đường khi
những đối tượng tác động năm giác quan thuận lợi và dễ
chịu.
Mặt khác con người
cũng có thể bị đau khổ như trong địa ngục nếu các đối
tượng khó chịu và nhiễu loạn.
PHẬT
GIÁO ĐÒI
HỎI GÌ NƠI CON NGƯỜI?
Phật Giáo đòi hỏi
gì nơi con người? Một học giả Trung Quốc hỏi một nhà sư
cốt tủy của Đạo Phật là gì và đã được bậc thức
giả trả lời:
Làm điều thiện,
không làm điều ác
Thanh lọc tâm ý
Đó là lời Phật dạy
Đương nhiên, học giả
này đang chờ đợi câu trả lời 'thâm sâu' hơn, thâm thúy
hơn, nên đã nhận định đứa trẻ lên ba cũng hiểu được
như vậy. Nhưng bậc thức giả trả lời đứa trẻ lên ba
có thể hiểu được câu đó nhưng ông già tám mươi chưa
chắc đã thực hành được!
Tương tự Đức Phật
đã quở Ngài A Nan, đệ tử thị giả của Ngài, đừng nên
coi thường giáo lý đơn giản là điều dễ dàng để thực
hành.
Cốt tủy của Đạo Phật
đòi hỏi con người giữ gìn giới luật 'đơn giản' trong sự
việc đi tìm giải thoát, nhưng việc thực hành các điều này
hết sức khó khăn. Bắt đầu bằng những giới sau đây:
- Không được lấy
đi đời sống của bất cứ sinh vật nào
- Không được lấy bất
cứ gì nếu không được cho
- Không được nói dối
và phải thận trọng trong lời nói
- Không được tà
dâm
- Không được dùng
các chất độc (như ma túy và rượu), có thể làm mất sự
lưu tâm.
Trên đây là những
nguyên tắc căn bản phải theo.
Những nguyên tắc này
không phải chỉ để diễn tả mà đơn giản là đem thực hành
với sự hiểu biết. Vấn đề chính yếu của đời sống
tinh thần là áp dụng thực tiễn, tích cực, không phải vấn
đế của kiến thức .
Mục đích chủ yếu của
con người trong Đạo Phật là phá vỡ gông cùm trói buộc
con người triền miên trong vòng sanh tử luân hồi. Con người
phải chịu trôi lăn trong vòng tái sanh vô tận vì vô minh,
con người mường tượng một thực thể vĩnh viễn gọi là
cái 'ngã' hay cái 'ta'.
Cho ảo ảnh cái ta là
thật, con người phát triển lòng ham muốn ích kỷ. Con người
tranh đấu không ngừng để thoả mãn lòng tham dục nhưng không
bao giờ được thỏa mãn. Giống như gãi một chỗ đau để
đỡ đau, nhưng làm như vậy, ngứa lại càng tăng, vết đau
lại càng thêm nặng.
THỂ
CHẾ HÔN NHÂN
Hôn nhân là một sự
chung hợp trong đó hai người khác giới bình đẳng đồng
ý cùng nhau chung sống. Một hôn nhân hạnh phúc lâu dài đòi
hỏi sự làm việc tích cực, cam kết để tình yêu được
duy trì, cùng nhau chia sẻ lúc vui cũng như lúc buồn.
Hôn nhân là đỉnh điểm
của tình yêu bởi hai cá nhân cùng nhau cam kết bằng một
cam kết chung.
"Làm sao anh (em)
yêu em (anh)? Hãy để cho anh tìm phương cách ràng buộc bởi
một sợi dây quan hệ chung. Anh (Em) yêu em (anh) tận đáy
lòng, đến hơi thở cuối cùng .... ' (Robert Browning) Chúng ta
tin cũng như Browning tin, tình yêu là thực chất của chính
đời sống, không biên giới, không phân biệt chủng tộc,
không phân biệt tín ngưỡng. Thời nay hôn nhân vẫn không
làm đúng mục đích của chính nó vì người ta không công
nhận sự quan trọng về bình đẳng, tôn trọng phụ nữ.
Nhiều phụ nữ được hưởng những đặc quyền ấy trong
nhiều lãnh vực hoạt động của con người. Nhưng lạ thay,
khi trở về với hôn nhân, phụ nữ vẫn bị ngược đãi. Tầm
quan trọng trong vai trò của người phụ nữ chắc chắn đã
được mở rộng sau khi Phật Giáo phát khởi tại Ấn Độ,
đã cho người phụ nữ một tầm mức rộng lớn để dấn
thân vào những nghề nghiệp ngoài việc nội trợ. Mặc dù
như vậy, đa số phụ nữ vẫn giữ nguyên sự lựa chọn: lấy
chồng rồi nuôi con. Nhưng có điều khác biệt: đời sống
chồng vợ đã được chính Đức Phật nâng lên hàng cao
quý như trọng trách gánh vác. Ngài đã nâng người phụ nữ
có chồng từ địa vị một người hầu hạ lên hàng địa
vị trách nhiệm quan trọng. Chứng minh về sự quan tâm của
Đức Phật trong vấn đề duy trì hạnh phúc hôn nhân, Ngài
đã vạch ra các huấn thị đặc biệt để hướng dẫn người
chồng và người vợ.
Đức Phật nhiệt liệt
tán thán các cặp vợ chồng hạnh phúc. Trong hàng cư sĩ cặp
vợ chồng Nakulamata và Nakulapita được coi như nổi tiếng
đã chung sống thuận hòa hạnh phúc trong một thời gian
dài. Đức Phật đã tán duơng cặp vợ chồng này, dạy các
đệ tử làm sao cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Những lời
dạy của Ngài từ hơn 2500 năm qua vẫn có giá trị ngày
nay. Nam nữ trong thời đại tân tiến ngày nay nếm trải nhiều
đau khổ trong đời sống vợ chồng vì họ lạc hướng trước
những lời dạy này. Thể chế hôn nhân trong thời cổ tại
Ấn ngự trị bởi quan niệm đẳng cấp, vị thế của phụ
nữ, quyền hành của phái nam, và bốn giai đoạn trong đời
sống cá nhân. Đức Phật bác bỏ hệ thống đẳng cấp, có
nghĩa là thể chế hôn nhân Phật Giáo giải thoát khỏi các
luật lệ cùng những nghi thúc khắt khe, không thích hợp đã
là một trở ngại lớn lao cho cách cư xử tự do, không
thành kiến của con người trong xã hội kể cả nam lẫn nữ.
Những bài giảng về nền
tảng Đạo Đức Phật Giáo trong xã hội (Kinh Sigalovada),
phác họa mẫu mực căn bản trong mối quan hệ vợ chồng,
cha mẹ và con cái, nêu những bổn phận ràng buộc với
nhau, nhấn mạnh đến những khía cạnh thiết yếu của cuộc
sống chung.
Sự nghiên cứu toàn diện
thể chế hôn nhân Phật Giáo đề cập bởi Đức Phật
trong giáo lý của Ngài rõ ràng cho thấy giáo lý này nhằm
mang lại an vui, khuyến khích, luân lý về nhu cầu tình dục,
thỏa mãn tâm lý, và phúc lợi vật chất cho cả chồng lẫn
vợ bất kể gì đến tục lệ đặc biệt, lời thề nguyền
hay lý tưởng, tôn giáo hay loại gì khác.
Theo Đức Phật, văn hóa
tương hợp giữa chồng và vợ là một trong những yếu tố
đem thành công trong hạnh phúc lứa đôi. Nhiều vấn đề về
hôn nhân ngày nay phát xuất từ sự thiếu khả năng của
người hôn phối trong việc nhận thức những hy sinh trong
hôn nhân. Hôn nhân không đơn giản chỉ là nhục dục và
lãng mạn. Lãng mạn chính nó không phải là điều xấu,
nhưng nó là cảm xúc và cần phải giới hạn.
Vỡ mộng và đau buồn
sẽ ít đi trong hôn nhân nếu chúng ta hiểu từ những ảo tưởng
của lãng mạn, một tình yêu sâu xa và không thay đổi sẽ
phát khởi. Tình yêu là một niềm đam mê say đắm lâu bền
giữa hai người, tạo ra những điều kiện mà trong đó mỗi
người có thể bộc lộ mình và cùng xây dựng một mái ấm
tình yêu và trí thức. Nhờ đó cả hai có thể phát triển
cao hơn và xa hơn nhiều những gì họ có thể đạt được
nếu không có tình yêu.
Trong quá khứ chúng ta
nghe nói những cặp vợ chồng hạnh phúc trường cửu, họ
cùng nhau chia sẻ dịu ngọt của tình yêu, qua năm tháng dài
cùng nhau chia sẻ vui buồn. Nhất là các cặp vợ chồng
cùng nhau chung sống lâu năm, hạnh phúc lâu bền không tự
nhiên đến. Những cặp vợ chồng hạnh phúc lâu dài này
ghi nhận thực tế cuộc sống khi được hỏi họ làm thế
nào để giữ đưọc hạnh phúc lâu bền. " Câu trả lời:
"Chúng tôi giữ gìn tình yêu. Với những dị biệt
chúng tôi học hỏi từ nhũng dị biệt này".
"Chúng tôi nói thẳng
những điều bất mãn và tìm cách giải quyết ngay thay vì
để chúng thành mây giông bão tố". Ở mức độ nào đó,
điều mà các cặp vợ chồng thành công trong hôn nhân đều
phản ảnh trong nhận xét này: 'Cả đến trước sự việc
thật là tồi tệ, cả hai chúng tôi đều cương quyết không
đầu hàng'. Có lẽ điều nổi bật với các cặp vợ chồng
tân tiến ngày nay là trước các khó khăn, họ muốn giải
quyết dễ dàng mau lẹ như chuyện xẩy ra trên máy truyền
hình. Không, không thể được, muốn gặt hái được điều
tốt phải làm việc tích cực.
Đối với nhiều người,
con đường dẫn tới cuộc sống hôn nhân bền vững lâu
dài không trơn chu. Những gập ghềnh gồm có nhiều sự việc:
không con, con chết, con tật nguyền, tài chính khó khăn và
tinh thần căng thẳng vì sự thay đổi nghề nghiệp.
Được hỏi về hôn
nhân, không cặp vợ chồng nào cho biết có điều đặc biệt
ngoài hai yếu tố thành công trong hôn nhân. Yếu tố thứ nhất,
mặc dù một số cặp vợ chồng phải đương đầu với những
dị biệt đáng kể về tính cách, và đôi khi mang nặng vấn
đề tình cảm, họ lúc nào cũng duy trì sự tương kính, và
không nghĩ tới chuyện tìm bạn đời mới. Một người vợ
có lần hỏi người chồng:' Có phải Anh cưới tôi vì tôi
là như vậy phải không?' Người chồng đối đáp:' Không,
tôi cưới em hy vọng em trở thành người tôi ước muốn'.
Bây giờ đương nhiên cả hai phía chồng và vợ đều nhầm
lẫn vì những điều mong mỏi đều khác hẳn và họ đều
không thiện chí để thỏa hiệp. Yếu tố thứ hai là không
một cặp hôn nhân nào bị đổ vỡ bởi những sự xáo trộn
tâm lý nghiêm trọng đến nỗi loại trừ người hôn phối.
Có một bà vợ luôn luôn xúc phạm chồng dù là một lỗi
nhỏ với câu:' Anh là người ngu dại'. Người chồng trái lại
là một người khoan dung. Tuy nhiên, một ngày nọ, khi anh ta
bị người vợ gắt gỏng bằng câu trên đây, Anh ta đã đốp
lại:' Tôi nghĩ rằng em nói phải. Nếu tôi không phải là
người ngu dại, thì em nghĩ rằng tôi lại đi lấy một người
như em?' Từ ngày đó trở về sau, người vợ đã không bao
giờ dám mắng mỏ người chồng bằng câu đó nữa.
Muốn đạt kết quả
trong hôn nhân, vợ chồng cần thiết phải hiểu và chấp nhận
những dị biệt giữa hai giới. Đôi khi vợ chồng chán
nhau, muốn người hôn phối phải giống mình. Hiểu biết
và tha thứ các dị biệt giữa người đàn ông và người
đàn bà sẽ giúp đỡ rất nhiều trong hôn nhân.
Một người bạn đời
sæn sàng vượt qua những lúc khó khăn và điều chỉnh cho
thích hợp khi có con cái, thay đổi công việc làm, tài
chính khó khăn hay đơn giản tìm hiểu hơn nữa về người
hôn phối mà mình kết bạn là sự bí quyết thực sự đưa
đến thành công trong hôn nhân.
Môt câu phương ngôn
nói về đời sống lứa đôi như sau: "Người vợ trở
thành người có chủ quyền lúc người đàn ông trẻ, là người
bạn đường lúc trung niên và người trợ y lúc tuổi
già".
Nhiều cặp vợ chồng
quyết định sống chung với con cái ít nhất cho đến khi
con cái trưởng thành. Với một chút cố gắng, những năm
đó là những năm làm tròn nhiệm vụ nhất trong một hôn
nhân.
Hôn nhân là một phước
lành nhưng nhiều người đã biến đời sống lứa đôi của
họ thành lầm than và tai họa. Nghèo khổ không phải là một
lý do chính của môt đời sống lứa đôi không hạnh phúc.
Cả hai vợ lẫn chồng phải chia sẻ lúc vui cũng như lúc buồn
về mọi sự trong đời sống. Hiểu biết lẫn nhau là một
bí mật cho đời sống gia đình hạnh phúc.
Trong hôn nhân đích thực,
người này thường nghĩ tới người kia hơn là nghĩ tới chính
mình. Hôn nhân ví như một cái xe đạp làm cho hai người sử
dụng. Cảm giác an ổn và thoải mái đến từ sự cùng nhau
nỗ lực.
Người vợ không phải
là người đầy tớ của chồng, người vợ đáng được kính
trọng ngang hàng. Tuy người chồng là người đi kiếm tiền
nuôi gia đình, nhưng người chồng vẫn giúp đỡ gia đình
trong những công việc lặt vặt, không có nghĩa là hạ thấp
nam tính của đấng trượng phu. Đồng thời một người vợ
luôn luôn than phiền và gắt gỏng cũng không thể bù đắp
những thiếu thốn trong gia đình. Khi người vợ nghi ngờ chồng
thì cũng không thể xây dựng được hạnh phúc. Nếu người
chồng có nhược điểm chỉ có lòng khoan dung và những lời
ngọt ngào mới có thể làm cho người chồng nhìn thấy ánh
sáng. Rất quan trọng là phải giữ lòng khoan dung trong suốt
cuộc đời lứa đôi. Những điều tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa
rất lớn. Hiểu biết đứng đắn và có tư cách đạo đức
là những khía cạnh thực tiễn của kiến thức.
Từ thuở xa xưa, những
đóa hoa được coi như tiếng nói của tình yêu. Hoa không tốn
bao nhiêu tiền. Những người vợ, về vấn đề này, tất cả
phụ nữ chú trọng rất nhiều đến ngày sinh nhật và ngày
kỷ niệm hôn nhân của họ, nên người chồng quan tâm
không bao giờ vì quá bận mà không giữ tình yêu sống động
với chút ít đồ tặng và ân cần chăm sóc. Tính chất tầm
thường như vậy mà là căn bản của hầu hết hạnh phúc lứa
đôi. Người vợ cảm kích trước sự đối xử ân cần nho
nhỏ như vậy của người chồng lịch sự và chính cái thiện
chí bền bỉ này giữ cho ngọn lửa ấm cúng trong căn nhà
cháy mãi.
Tình cảm gia đình được
nuôi dưỡng cẩn thận là một công thức đơn giản cho cả
hai việc bảo vệ gia đình và nuôi nấng con cái thành những
đứa trẻ tính nết tốt. Tình yêu đích thực có nghĩa là
xác nhận giá trị của người hôn phối và không làm mất
thể diện của người vợ hay người chồng trước mặt
người khác. Sự tự nguyện này phải nẩy nở từ con tim.
Sự khác biệt chính giữa những hôn nhân thành công và những
hôn nhân thất bại là do mức độ quý trọng lẫn nhau của
cặp vợ chồng đó. Chỉ trích, hạ thấp hay coi thường
người hôn phối nhất là trước mặt người khác, xói mòn
tình vợ chồng. Kể cả như vậy vẫn chưa đủ, vì người
này phải trân trọng giá trị của người kia như viên ngọc
quý.
Đôi khi những lời
nói không cần thiết nếu đã có sự hiểu biết. Một người
cha già có lần đã thổ lộ với con cái là ông hết sức
yêu thương bà vợ tức mẹ chúng và bảo các con phải lúc
nào cũng săn sóc bà cả đến khi ông không còn nữa. ông
tâm sự với các con là bà là người phụ nữ tốt nhất trên
thế giới và gia đình hết sức may mắn có bà. Người vợ,
nay vào khoảng 60 tuổi, có bẩy người con đã trưởng thành,
và một lũ cháu. Bà tỏ lộ rằng bà chưa bao giờ nghe thấy
lời nói trìu mến như " Anh yêu em" thốt ra hay thì
thầm bên tai bà - hay những câu đại loại như vậy. Bà vợ
này, thuộc trường phái cổ của nền triết lý Trung Hoa, thỏa
mãn với lối cư xử và săn sóc của người chồng về hạnh
phúc của bà trong đời sống lứa đôi sung sướng. Trực giác
của người nữ phái nói cho bà biết người chồng yêu bà
thực sự tận trong thâm tâm và bà thấy bà không cần đến
lá bài nào tốt hơn nữa. Bản tính của một số người không
hay bộc lộ cảm nghĩ của mình nhưng họ là những người
rất quan tâm. Chúng ta phải nhìn vào hành động của họ. Cái
chìa khóa tiếp theo cho một hôn nhân hòa hợp là cùng làm
việc để đi đến một mục tiêu. Đó là luật tự nhiên,
chẳng hạn nếu không nỗ lực bỏ hạt giống trong vườn
thì cỏ dại sẽ mọc thay vì những đóa hoa đẹp. Trong hôn
nhân cũng như vậy.
Trong ý nghĩa tôn giáo,
đức tin này không phải là cần thiết (tuy nhiên nó giúp đỡ
rất nhiều nếu hai vợ chồng cùng một tín ngưỡng) là chất
liệu quan trọng giữ mối quan hệ bền vững.
Nhục dục quan trọng
trong hôn nhân như thế nào? Nhục dục là bản năng tự nhiên
nếu chúng ta vui hưởng trong giới hạn thích hợp sẽ mang
nhiều hạnh phúc. Nhục dục giúp cho hôn nhân nồng cháy,
và là một lãnh vực quan trọng và quan yếu để bảo vệ hôn
nhân. Nó tạo sự mật thiết, một chút nếm trải giữa hai
người, không can dự đến người nào khác. Nó làm cho giây
thân ái quý giá và riêng tư.
Điều quan trọng phải
nhận thức nơi đây thật sự là nam giới và nữ giới
nhìn vào vấn đề tình dục một cách khác nhau. Trong khi đàn
ông coi đó là hoạt động thể xác mạnh mẽ, thì người
đàn bà lại không coi là như thế. Với người đàn bà, nó
cần sự tác động với người chồng mình thương yêu đó
là sự dịu dàng, sự săn sóc và ân cần của người chồng.
Với hiểu biết đó, người phụ nữ cần sự thân mật và
gần gũi làm cho hoạt động nhục dục có nhiều ý nghĩ và
trọn vẹn hơn.
Tình dục khác hẳn với
cảm giác ngon miệng. Nó là cơ sở cho mối giây liên hệ
lâu dài mật thiết, và là phương tiện sanh con cho thế giới,
những đứa con chúng ta thương yêu ấp ủ khi chúng ta còn sống.
Do tuổi tác, chúng ta
biết được tình thương yêu và tôn trọng lẫn nhau là cơ
sở cho sự mật thiết gần gũi của hai người. Tình dục,
giống như bất cứ khuynh hướng khác trong con người, phải
được điều hành bằng lý trí. Con người, bản năng không
bị chế ngự thì không bằng con vật, có khuynh hướng trở
nên man dại khi không điều chỉnh khuynh hướng này bằng
lý trí.
Môt câu phương ngôn:
"Giống như lửa, tình dục là một người đầy tớ tốt
nhưng cũng là một ông chủ xấu".
Xã hội ngày càng phát
triển thành một mạng lưới, các mối quan hệ đan quện mật
thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi quan hệ là một lời
cam kết nhiệt thành để yểm trợ và bảo vệ những người
khác trong một nhóm hay cộng đồng. Hôn nhân đóng một phần
rất quan trọng trong mạng lưới vững chắc các mối quan hệ
để bảo vệ và che chở. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp phát
triển và dần lớn mạnh từ sự hiểu biết chứ không phải
từ sự thôi thúc, do lòng chung thủy thực sự chứ không phải
do buông thả hoàn toàn. Thể chế hôn nhân cung cấp một nền
tảng tốt đẹp cho sự phát triển văn hóa, và sự liên kết
vui vẻ giữa hai cá nhân cùng chung sống để hết cô đơn,
bàn cùng và sợ hãi. Trong hôn nhân, vợ chồng bổ sung sức
mạnh tinh thần và can đảm cho nhau, và mỗi người nên hiểu
biết và công nhận tài năng của nhau.
Chồng hay vợ không ai
trên ai - người này bổ sung, bù đắp cho người kia vì hôn
nhân là một sự hợp tác bình đẳng, biểu lộ sự hòa
nhã, rộng lượng, bình tĩnh và hiến dâng, và quan trọng hơn
hết là sự tự hy sinh.
-ooOoo-