phần [3]
LỢI
THẾ NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ .
Thái độ hiện đại của
các bà mẹ đi làm đối với con cái có khuynh hướng làm giảm
thiểu sự hiếu thảo được quý trọng từ lâu đời mà người
ta hy vọng những đứa con gìn giữ. Thay thế sữa mẹ bằng
sữa chai cũng là một nguyên nhân nữa. Khi các bà mẹ cho
các con bú bằng sữa của mình, nâng niu đứa con trong tay, tình
thương yêu đậm đà giữa mẹ và con trở nên càng nẩy nở
mạnh mẽ hơn. Người mẹ cho con bú bằng sữa của mình,
qua tình mẫu tử thiêng liêng, thường cảm thấy vô cùng
sung sướng khi biết rằng mình cung cấp cho con, như ý muốn
của tạo hóa đã ban, một cái gì chính của mình mà không
một ai khác có thể cho được. Ảnh hưởng của người mẹ
đến đứa trẻ ngày càng gia tăng và càng ngày càng trở
nên rõ rệt. Trong hoàn cảnh ấy, tình hiếu thảo, gia đình
keo sơn và thuận thảo luôn luôn tăng trưởng.
Có nhiều lập luận tiến
bộ thuyết phục các bà mẹ cho con bú bằng sữa mẹ là tốt
nhất. Lý do bao gồm cả lợi ích về cả vật chất lẫn
tinh thần của cả mẹ lẫn con. Chất đạm protein và các
thành phần khác trong sữa mẹ khác hẳn phẩm chất của sữa
bò. Sữa mẹ tinh khiết và không sợ bị nhiễm trùng. Cho
con bú bằng sữa mẹ có thể chống lại hữu hiệu hơn sự
nhiễm trùng và các bệnh truyền nhiễm. Cho con bú bằng sữa
mẹ cũng ít bị dị ứng hơn. Nó cũng rẻ hơn là sữa mua
để pha vào chai. Cho con bú bằng sữa mẹ đem lại sự mật
thiết tâm lý cao cả dẫn đến lợi ích về xúc cảm và nhận
thức trên tất cả phương pháp nuôi dưỡng khác. Cho con bú
bằng sữa của mình cũng phát triển quan hệ mẹ con khăng
khít.
Cho con bú bằng sữa mẹ
thực tiễn hơn và mất ít thì giờ hơn cho bú bằng sữa
chai. Không cần phải khử trùng chai và rửa chai. Sữa có
ngay khi đứa trẻ cần đến. Đúa trẻ bú sữa mẹ khóc ít
hơn vào những tháng cuối của năm đầu so sánh với những
đứa trẻ nuôi bằng sữa chai. Nên nhớ rằng không có gì bổ
ích hơn tình cha mẹ và con cái. Thì giờ dành cho con cái nhất
định rất đáng giá.
Trong những ngày đầu
sau khi sanh, cho con bú bằng sữa mẹ cung cấp cho bé lợi
ích của sữa non. Sữa non do bầu vú tiết ra được tạo thành
trước khi có sữa vào ngày thứ hai hay thứ ba sau khi sanh.
Chất này rất cần thiết về mọi mặt cho đứa trẻ.
Sữa mẹ có đầy đủ
chất dinh dưỡng và sinh tố mà đứa trẻ cần thiết ít nhất
trong sáu tháng đầu sau khi sanh. Sữa mẹ có những nhân tố
kháng sinh ngăn chặn một số bệnh và dị ứng. Ngoại trừ
trường hợp cùng cực như trường hợp người mẹ bị bệnh
AIDS có thể lây bệnh sang con, không có thứ gì thực sự
có thể thay thế sữa mẹ được.
Sự gần gũi với mẹ
đương nhiên cũng thêm sự thỏa mãn cho đứa con khi được
bú. Các cơ quan chức năng ở nhiều lãnh vực khác nhau
nghiên cứu về sự phát triển trẻ em đều nhấn mạnh việc
cho con bú bằng sữa mẹ là con đường duy nhất tốt đẹp
trong việc nuôi nấng trẻ sơ sanh. Nuôi con bằng sữa mẹ
được rất nhiều thầy thuốc tin tưởng khuyên dặn có lợi
cho đứa trẻ về cả vật chất lẫn tinh thần vì lẽ lợi
ích rõ ràng do người mẹ thỏa mãn trong việc nuôi dưỡng
con mình. Đứa trẻ cần sự nâng niu, nhiều thì giờ và bầu
không khí thoải mái cũng như cần chính sữa của mẹ nó.
Những nét truyền thống
này là điều lành và hạnh phúc cho đứa trẻ. Nhiêm vụ của
cha mẹ, đặc biệt là mẹ, là phải nuôi dưỡng con cái bằng
tình thương yêu, săn sóc và trìu mến khi chúng được quyền
hưởng điều đó. Người mẹ chịu trách nhiêm về tính
khí đứa trẻ hiền lành hay ương ngạnh. Như vậy người mẹ
có thể giảm thiểu các thiếu niên phạm pháp!
'Những ai sống trái lại
thiên nhiên, phải đương đầu với các hậu quả vật chất
và tinh thần'.
KIỂM
SOÁT SINH ĐẺ
Làm cho cha mẹ có kế
hoặch hay tự nguyện trong chượng trình kế hoạch hóa gia
đình liên quan đến sự điều chỉnh quan niệm trong nội bộ
gia đình, thường liên quan đến sự kiểm soát sinh đẻ. Kế
hoạch gia đình liên quan đến việc điều hòa, điều chỉnh
khoảng cách sinh đẻ bằng phương cách hợp pháp và đạo lý,
tùy theo điều kiện sức khỏe, kinh tế và hoàn cảnh của
chồng và vợ.
Ta phải xét sự thực
là mức độ sinh đẻ được kiểm soát có lợi lạc cho một
cuộc sống lành mạnh. Dân số tăng nhanh là một xu hướng
nguy hiểm tạo khó khăn theo ngay sau lúc con người đang tiến
đến cuộc sống đầy đủ, an toàn.
Tại Á Châu, nơi nhiều
thế hệ đã sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, áp dụng Kế
Hoạch Gia Đình rất thích đáng nếu nó không gây mâu thuẫn,
xung đột trong vấn đề cộng đồng. Một quốc gia có thể
tự cung cấp, được hưởng tự do to lớn nhất.
Người Phật Tử không
có lý do gì chống lại sự kiểm soát sinh đẻ. Họ hoàn
toàn tự do trong việc áp dụng phương pháp hiện đại hay cổ
xưa để ngừa mang thai. Những người chống lại vấn đề
kiểm soát sinh sản nói rằng làm như vậy chống lại luật
của Thượng Đế, phải hiểu rằng quan niệm về vấn đề
như thế là không hữu lý. Trong việc kiểm soát sinh đẻ,
người ta chỉ ngăn chặn sự trở thành một chúng sinh, do
đó không có sư giết chóc nào.
PHÁ
THAI
Mặc dù một người hoàn
toàn tự do quyết định về kế hoạch gia đình theo quan niệm
riêng của mình, tuy nhiên phá thai không thể bào chữa được.
Hành động này là sai vì hành động đó liên quan đến việc
lấy đi hay hủy diệt môt sự sống có thể nhìn thấy hay
không nhìn thấy.
Từ "phá thai"
liên tưởng đến hình ảnh người phụ nữ trẻ tuổi thất
vọng, người phá thai lậu. Đối với nhiều người, từ này
còn mang nghĩa rộng là bất hợp pháp và tội ác. Tại các
nước phát triển ở phương Tây, vấn đề đã được chính
trị hóa.
Phá thai được giải
nghĩa là lấy thai ra khỏi dạ con do phương tiện không chủ
yếu hay chủ yếu, mà thai này có khả năng sống được.
Trong y khoa, phá thai được định nghĩa là hành động lấy
bào thai ra khỏi dạ con bằng một phương pháp nào đó hoặc
bằng thuốc gây đau đẻ trước khi bào thai có thể tồn tại.
Phá thai có nghĩa là chấm dứt 28 tuần mang thai. Sau thời
gian này, bào thai đã phát triển đầy đủ nên bất kỳ một
hành động nào có thể lấy đi một sinh linh còn sống lúc
sanh hay sẽ sanh, hoặc bào thai, đều là phá thai.
Theo luật định, khi tiến
hành phá thai với ác ý, việc này là một tội ác, thủ phạm
sẽ bị buộc tội, và trừng trị. Khi phá thai làm người
phụ nữ chết, người này coi như kẻ sát nhân.
Phá thai bao giờ cũng vẫn
là một vấn đề tranh tụng, nhưng đối với người đàn
bà mang thai ngoài ý muốn, vấn đề này không phải là bất
hợp pháp và cũng không phải chính trị. Đó là vấn đề cá
nhân và đương nhân phải giải quyết mau lẹ với bất cứ
giá nào. Trong những trường hợp như vậy, người đàn bà
trong tình trạng vô vọng phải bắt buộc đi đến phá thai.
Nhưng họ không nên biện minh cho hành động phá thai, dù sao
đối với một số người, họ vẫn phải chịu hậu quả xấu
vì đã phạm tội ác.
Tại Mã Lai, chấm dứt
mang thai chỉ được phép trong trường hợp người mẹ vì sức
khỏe tinh thần hay thể chất trong tình trạng nguy hiểm. Thủ
tục này được coi như phá thai để chữa bệnh và cần phải
có giấy chứng nhận của hai nhà thầy thuốc chuyên nghiệp.
Ngoài ra phá thai với bất cứ lý do nào khác cũng là vi phạm
luật pháp.
Nguyên tắc đạo lý
không bao giờ nên nhượng bộ sự thỏa mãn của nhân loại.
Đúng hơn là những nguyên tắc này, nói chung, phải bảo vệ
cho hạnh phúc nhân loại.
BẠO
LỰC TRONG GIA ĐÌNH
Vấn đề bạo lực
trong gia đình đang tác động đến các gia đình, nhất là tại
các giới lợi tức thấp, và ngay cả tại những xã hội
giàu có, đã đến một mức báo động. Chính Phủ cần ban
hành luật lệ, đạo luật về Bạo Lực Trong Gia Đình mới
đây đã được Quốc Hội thông qua vào Tháng 6 năm 1996.
Bằng chứng cho thấy
người vợ bị hành hung trong nhiều trường hợp vẫn
thương yêu chồng mặc dù bị nhiều ngược đãi, gây ra do
rượu chè, cờ bạc, giai gái, và tiền bạc. Đó là sự thực
gây bạo lực gia đình mà ngày nay đa số người phụ nữ gặp
phải. Nhiều bà vợ bị đánh đập chỉ biết chịu đựng
vì tin tưởng bất cứ phản ứng nào của mình sẽ đưa dến
hậu quả mất con, mất nhà cửa và quyền lợi tài chính.
Quần chúng thường giữ
quan niệm bạo lực trong gia đình là một vấn đề nội bộ
không cần đến sự can thiệp bên ngoài. Chẳng hạn như
người lối xóm đến ngay khi nghe thấy tiếng kêu cứu của
người đàn bà bị cướp, nhưng khi nghe thấy tiếng kêu cứu
của người đàn bà bị chồng đánh đập, lối xóm lại e
dè đến can thiệp, cho rằng đây là một vấn đề riêng tư
trong nội bộ gia đình. Cho đến mới đây, cảnh sát cũng vẫn
còn quan niệm này. Theo Đạo Luật về Bạo Lực Trong Gia Đình,
nhiệm vụ của Cảnh sát bao gồm cả việc dẫn người vợ
bị ngược đãi về nhà lấy đồ đạc nếu cần thiết.
Điều mà người vợ bị ngược đãi đòi hỏi là được bảo
vệ theo luật pháp, số người chồng bị trừng phạt cũng
không nhiều lắm.
Đạo luật bảo vệ
người vợ bị ngược đãi mà không làm tan vỡ gia đình.
Theo đạo luật này, ta có thể xin lệnh của tòa án cấm người
chồng vũ phu về nhà, bảo vệ người vợ bị ngược đãi
và con cái cũng như cho phép người vợ được nuôi giữ con
cái . Đạo luật này coi việc bạo lực trong gia đình là một
tội ác phải bị trừng trị.
LY
DỊ CHỈ LÀ GIẢI PHÁP CUỐI CÙNG
Ly dị là giải pháp
gây nhiều tranh cãi giữa những tín đồ của các đạo giáo
khác nhau. Một số người tin hôn nhân đã được ghi sổ trên
thiên đàng, cho nên con người không có quyền cho phép ly dị.
Nhưng, nếu người vợ và người chồng thực ra không thể
chung sống, thay vì kéo dài cuộc sống đau khổ, tạo nhiều
mâu thuẫn, sân hận, họ nên được tự do xa nhau, sống riêng
biệt an lành.
Ly thân hay ly dị không
bị cấm trong Đạo Phật nhưng sự cần thiết ly thân hay ly
dị rất hiếm xẩy ra nếu người Phật Tử triệt để tuân
theo các huấn thị. Người đàn ông và người phụ nữ hoàn
toàn tự do xa nhau nếu họ không hòa hợp với nhau. Xa nhau
còn hơn phải chịu đựng một đời sống thống khổ kéo
dài.
Một số người chọn
hình thức ly thân chính thức, đó là một loại ly dị ngoại
trừ hôn nhân chỉ hiện hữu trong danh nghĩa vì nhiều lý
do.
Những yếu tố đưa đến
ly dị thay đổi. Khi ngọn lửa tình tắt hay lời hứa yêu
đương, trân trọng và trìu mến dường như không còn có thể
duy trì, ly dị xuất hiện như một giải pháp tốt nhất.
Đương nhiên cũng có nhiều yếu tố khác từ những vụ ngoại
tình, vấn đề bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, cũng như những
dị biệt mà người vợ đi làm phải đương đầu khi muốn
theo đuổi nghề nghiệp của mình. Liên hệ từ đây, chúng
ta nên nhớ lời Phật dạy là người già không nên lấy vợ
trẻ vì chồng già vợ trẻ sẽ tạo ra sự xung khắc, ghen
tuông, nghi ngờ (Kinh Parabhava).
Theo Đạo Luật Cải Cách
(Hôn Nhân và Ly Dị) năm 1976, bắt đầu hiệu lực từ Ngày
1 Tháng Ba 1982, Những Tòa Án Hôn Nhân được thiết lập trên
toàn cõi Mã Lai có chức năng giải quyết và hòa giải các
cập vợ chồng không theo Đạo Muslim (Hồi). Những cặp theo
Đạo Muslim gặp khó khăn trong hôn nhân được chi phối bởi
Luật Syriah, dưới quyền xét xử của Tòa Án Syriah.
Tòa Án xử Hôn Nhân
được thiết lập tại mỗi Tiểu Bang, kể cả Phần Đất
Liên Bang Kuala Lampur. Đạo Luật ủy nhiệm Tòa Án Hôn Nhân
xét xử các vụ bất hòa về hôn nhân trước khi đơn ly dị
được đệ nạp.
Đạo Luật ấn định
thời gian là sáu tháng xem cặp vợ chồng có thể tiến đến
hòa giải hay không. Mỗi Tòa Án phải hội đủ điều khoản
quy định là ba hay bốn phiên tòa cho mỗi trường hợp trong
vòng sáu tháng. Nếu không có dấu hiệu hòa giải được, Tòa
sẽ cấp giấy chứng nhận cho đương đơn. Chỉ khi giấy chứng
nhân được cấp phát, đương nhân mói có thể đệ nạp
đơn ly dị tại Tòa Thượng Thẩm qua một Luật Sư.
Bất hạnh thay, khi cha
mẹ ly dị nhau, những đứa con trở thành những nạn nhân
vô tội, chúng bị những hậu quả xấu nhất do sự thất bại
của hôn nhân. Ly dị là một hiện tượng xã hội, ảnh hưởng
tâm lý đến những đứa con, khiến chúng cảm thấy không
an toàn. Chúng phải đối đầu với bao nhiêu khó khăn phải
chấp nhận, điều chỉnh và bất an. Những đứa trẻ như vậy
cần đến sự chỉ dẫn, ủng hộ tinh thần và an ủi mới
có thể vượt qua giai đoạn tổn thương trong đời sống của
chúng.
Cha mẹ ly dị thường
được hình dung là những người theo chủ nghĩa khoái lạc,
ích kỷ chỉ quan tâm đến hạnh phúc của mình thôi, không
để ý gì đến con cái.
Một số trẻ phải sống
với cha mẹ ghẻ khi cha mẹ chúng tái giá, phải điều chỉnh
sao cho thích hợp với cuộc sống mới. Ly dị giống hệt như
bác bỏ quyền của đứa trẻ có một đời sống đủ điều
kiện với cha mẹ ruột dưới mái một gia đình. Vì tâm
trí chúng bị rối loạn, không còn tập trung được việc học
hành tại trường bị ảnh hưởng. Chúng sẽ bỏ nhà và trở
thành thanh thiếu niên tội phạm.
Vì ly dị là bất hạnh
nên đa số trẻ phải chịu khổ sở vật chất trong tay cha
mẹ giận hờn, chúng lớn lên trong sợ hãi khi chúng lập
gia đình sau này, chúng có quan niệm bất an và ít hy vọng hạnh
phúc. Chúng mất lòng tin nơi cha mẹ đã làm tan nát gia đình,
chúng cũng sẽ thiếu niềm tin nơi người hôn phối.
Với một số trẻ, vết
thương tình cảm sẽ được lành với thời gian. Nhưng với
một số khác vết thương ấy vẫn còn mãi. Cho nên ly dị
không những chỉ ảnh hưởng đến hai người mà ảnh hưởng
đến những phần tử vô tội khác. Phải có lý do chính đáng
trước khi ta tìm đến giải pháp ly dị.
Hầu hết những đứa
trẻ của các cặp vợ chồng ly dị thường ấp ủ, nguyện
cầu lời mong ước bí mật của chúng là làm sao hòa giải
được gia đình để đời sống của chúng trở lại bình
thường.
Cuối cùng phải cẩn
thận để sự chia ly được thực hành trong bầu không khí
thiện chí và hiểu biết bằng cách chấp nhận những giải
pháp hợp lý, không tạo thêm nhiều sân hận. Thực ra cả
hai phải nên nỗ lực chia tay đối với nhau thân thiện như
bạn hữu. Nếu như có con cái, cặp vợ chồng đó phải cố
gắng làm cuộc ly dị của họ bớt bi thương, giúp cho những
đứa con thích hợp được với đời sống mới. Bảo đảm
tương lai và phúc lợi của con cái hết sức quan trọng . Quả
là vô nhân đạo nếu cặp vợ chồng nào chối bỏ con cái,
khiến con cái phải tự lo liệu, sống một cuộc đời thống
khổ.
Khi người đàn ông vì
lý do nào đó đi đến ly dị, người đàn bà là người bị
đau khổ nhất. Mộng ấp ủ đời sống hôn nhân hạnh phúc
của người phụ nữ bị tan nát, nhất là trường hợp người
chồng ngoại tình, tìm cách bội ước để được sống với
người khác. Người đàn bà sắp sửa phải ly dị, thường
bộc lộ cảm nghĩ thất vọng của mình điển hình trong những
trường hợp bi thảm này: "Đời tôi tan nát. Với tôi
thế giới đã đi đến chỗ cùng tận, tôi nghĩ đến chết
đi để làm cho anh hối hận vì đã bỏ tôi".
Tình trạng khó xử của
nhiều phụ nữ ly dị tại Mã Lai là thực tế buồn thảm:
người đàn bà chỉ có quyền chăm sóc con mà không có quyền
hành của người thủ hộ hợp pháp. Liên quan đến tình trạng
khó chịu này, người vợ được nuôi giữ con, bắt buộc
phải gọi người chồng cũ, khi phải thi hành quyền giám hộ
lẽ ra trước hết phải là quyền của vợ. Việc gì xẩy
ra nếu người chồng không đồng ý chấp thuận cho người
vợ cũ quyền hạn này hoặc không thể tìm thấy người chồng
cũ? Đứa trẻ bất hạnh, lúc cần thiết đến giấy thông
hành để xuất ngoại du học chẳng hạn sẽ bị rơi vào
tình trạng khó xử.
Người mẹ chỉ trở
thành người giám hộ hợp pháp của đứa trẻ khi người
cha chết, bị mất trí hay tội phạm. Trong những trường hợp
này, luật sư thường khuyên người đàn bà khởi sự ngay
việc xin với người chồng được làm giám hộ con ngay khi
ly thân, và đừng chờ đến khi ly dị mới tiến hành, tuy
nhiên thủ tục này không mấy dễ dàng.
KỲ
THỊ PHỤ NỮ
Đức Phật dạy nếu
chúng ta muốn hiểu điều gì, chúng ta phải biết nhìn bản
chất của điều đó.Sau khi phân tách s? tương quan giữa phái
nữ và phái nam, Ngài đi đến kết luận không có gì chướng
ngại đối với phụ nữ trong việc tu tập như phái nam, phụ
nữ có thể đạt được quả vị cao nhất như A La Hán hay
Bậc Thánh, bậc cao nhất trong sự thanh lọc tâm. Đức Phật
phải đối đầu với sự chống đối mãnh liệt vì cho phụ
nữ hoàn toàn tự do trong việc thực hành tôn giáo vào lúc
bấy giờ.
Trong thời kỳ Đức Phật,
trước khi Ngài giải phóng phụ nữ, tục lệ và truyền thống
coi phụ nữ như vật sở hữu để cho phái nam sử dụng
theo sở thích. Luật Manu cổ xưa của Ấn Độ ấn định phụ
nữ thấp hơn phái nam. Địa vị của người phụ nữ trong
xã hội bấy giờ rất thấp, chỉ thu hẹp trong việc bếp
núc. Họ cũng không được phép vào chùa và tham dự các hoạt
động tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào.
Như chúng ta đã ghi nhận
trước đây trong phần "Kiểm Soát Sanh Đẻ", có sự
kỳ thị phái nữ bắt đầu ngay trước khi đứa trẻ ra đời!
Việc phá thai bé gái lan tràn trên nhiều nơi trên thế giới
này ngày nay xác nhận thêm sự kiện hãi hùng này. Thêm nữa,
dưới tiêu đề "Phong Trào Giải Phóng Phụ Nữ và Hậu
Quả Đối Với Đời Sống Gia Đình", sự kỳ thị phụ
nữ tại các xã hội giàu có, đặc biệt đối với phụ nữ
có tham vọng giữ chức vụ quản trị cao cấp trong khu vực
đoàn thể, đã được đề cập đến vói nhiều chi tiết.
Tuy nhiên, trong các nước
đang phát triển cũng như các nước chậm tiến, tình trạng
được mô tả không những quá xấu mà còn đáng thương
hơn nữa như những khám phá dưới đây.
Theo lễ nghi tại Ấn
Độ, phái nam chi phối xã hội, phụ nữ góa bụa chịu một
số phận rất hẩm hiu . Có rất nhiều trường hợp, góa phụ
(hãy còn ở trong lứa tuổi 20) bị gia đình và xã hội ruồng
bỏ sau khi chồng chết.
Trong những gia đình dị
đoan, góa phụ bị trách cứ bởi gia đình chồng vì chồng
chết, góa phụ còn bị gia đình nhà chồng ruồng bỏ. Họ
hầu như chẳng có sự lựa chọn nào. Người Ấn Giáo nhìn
phụ nữ tái giá bằng một cặp mắt khinh bỉ, dù người
đàn ông chẳng có vướng mắc gì. Cho đến tận thời nay,
người ta còn mong đàn bà góa nhẩy vào giàn hỏa thiêu xác
chồng để chết theo tục lệ gọi là sati (trà tỳ). Mặc
dù tập tục này đã bị coi như phi pháp bởi người Anh từ
mấy thập niên qua, nhưng trường hợp mới nhất vẫn còn
thấy xẩy ra vào năm 1996. Đa số các phụ nữ Ấn Độ chẳng
còn gì khi trở thành góa bụa.
Một thí dụ điển hình
thấy nơi một góa phụ thành lập gia đình khi còn nhỏ, tục
lệ tảo hôn thường thấy tại thôn quê Ấn. Góa phụ này
than: "Tôi lấy chồng lúc mới năm tuổi. Chồng tôi,13
tuổi, tôi chưa hề dược gặp mặt trước khi cưới, chết
sau lễ cưới được một tháng. Bây giờ tôi vẫn còn là
người đàn bà góa."
Theo Ngân Hàng Thế Giới,
65% phụ nữ Ấn trên 60 tuổi là góa phụ. Tỷ lệ này lên
đến 80% với phụ nữ trên 70 tuổi. Hội Phụ Nữ Dân Chủ
Ấn báo cáo tại Ấn, lý lịch một phụ nữ phụ thuộc
vào người đàn ông, cảnh góa bụa mất mát rất nhiều chứ
không phải chỉ là mất chồng.
Tình hình cũng không mấy
gì tốt đẹp hơn tại một số quốc gia lân bang. Đã từ
lâu, gia đình coi con gái thấp hơn con trai và đối xử với
con gái như vậy. Người con gái chỉ được coi như chỉ thích
hợp cho việc nội trợ lặt vặt. Người phụ nữ phải sống
trong nhiều thông lệ xã hội chủ trương kỳ thị họ. Người
con gái trở thành gánh nặng kinh tế, cái nợ đời tinh thần.
Thế nhưng, người phụ nữ lại được kỳ vọng phải mạnh
khỏe, tích cực làm việc, dạy bảo con cái, và là một người
mẹ hiền. Nhiều đứa bé trai lớn lên nghĩ rằng chị hay
em gái của chúng thấp hơn chúng vì chúng thấy chúng được
đối xử tốt hơn chị em gái. Niềm tin ấy được củng cố
bởi đa số người trong xã hội, kể cả chính nữ giới.
Có lẽ vấn đề lớn
nhất là do thiếu sự hỗ trợ và những hạn chế mà người
con gái phải đối đầu nếu họ muốn làm một điều gì
trong đời sống vượt qua những vai trò truyền thống như
phụ giúp gia đình, trông em, nấu bếp và dọn dẹp nhà cửa.
Vì mục đích đó, người con gái sau cuộc huấn luyện dài
chỉ để trở thành người vợ tốt khi lớn lên.
Người con gái 16 tuổi
tại Rawalpindi vạch rõ:"Xã hội của chúng ta không đối
xử tốt với nữ giới. Người ở nơi đây không giáo dục
con gái vì cho rằng con gái không phải là con của họ. Con
gái được coi như là người của bên chồng trong tương
lai, bất cứ đầu tư nào cho tương lai con gái đều vô
ích. Con gái về nhà chồng lúc còn non dại, thường quãng
13 tuổi tại khắp nơi. Phần đời còn lại là trông nom
bên chồng, mang thai và nuôi dưỡng con cái để kéo dài và
củng cố gia tộc ."
'Chúng ta cần phải nhổ
hết gốc rễ loại suy nghĩ trên đây, giáo dục cho con gái
là điều bắt buộc để việc này không trở thành một vấn
đề phải giải quyết.' Cô nói: "Con gái cũng nên có việc
làm, làm việc tại những nơi thích hợp không ai phản đối
và tốt nhất là có những nữ đồng nghiệp để cha mẹ không
thể chống đối. Tôi bao giờ cũng ân hận là sinh ra làm đàn
bà. Đôi khi tôi không được phép làm điều gì, tôi chỉ
biết vào phòng, khóc than và cầu nguyện Thánh Thần biến
tôi thành con trai"
Dự án cho các thiếu nữ
tại các nước như vậy đang dần dần thay đổi, hãy thay
đổi tất cả bằng một cách phát triển một số thiếu nữ
nòng cốt hoạt động như chất xúc tác để tạo được sự
chú ý tại địa phương về vấn đề, về sự kỳ thị mà
phụ nữ phải đối đầu.
Vấn đề giáo dục hầu
như không thay đổi. Nhiều phụ nữ đã phải tranh đấu để
có quyền đi học. Một số được giúp đỡ bởi các bà mẹ
không được học hành nhưng tin tưởng đời sống của chính
các bà tốt đẹp hơn nếu được đi học.
Trong nhiều xã hội, địa
vị của người đàn bà là ở nhà; người đàn bà lập gia
đình có bổn phận đầu tiên là làm tròn bổn phận người
vợ và người mẹ. Không thể là như vậy đối với phụ nữ
tự do. Cả đến tại các xã hội tiến bộ, phụ nữ cũng
bị mất thể diện. Chẳng hạn tại những nơi công cộng,
phụ nữ phải ngồi riêng, cách xa phái nam, hay ngoài tầm mắt
của họ- như đằng sau nam giới. Khi phụ nữ được đặt
ngồi cuối phòng hay cuối hội trường, việc sắp xếp này
tỏ đấu hiệu tế nhị là vai trò của phụ nữ là đằng
sau chứ không phải ngang hàng với nam giới.
Một số người tin phụ
nữ thiên về tội lỗi. Cho nên, tốt hơn là để phụ nữ
làm việc nội trợ để họ có thể quên đi thái độ tội
lỗi bẩm sinh!
PHONG
TRÀO GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ, VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA PHONG TRÀO
NÀY ĐỐI
VỚI ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH.
Ở thời kỳ xa xưa,
người đàn ông ra ngoài săn bắn để có thức ăn cho gia đình,
còn người đàn bà ở nhà để nấu ăn và trông nom con
cái. Vì vậy, nguồn gốc câu nói ai ai cũng biết là
:"Chỗ đứng của người phụ nữ là ở nhà"
Ở thời cổ, phụ nữ
cam phận là người nội trợ. Phụ nữ không ra ngoài làm việc
hay theo đuổi nghề nghiệp. Công thức của giới phụ nữ -
một đời sống quanh quẩn với con cái và bếp núc- đã
xói mòn từ nhiều thập niên qua, vì càng ngày càng nhiều
phụ nữ theo đuổi nghề nghiệp. Tuy nhiên lối sống xã hội
ở thôn quê vẫn khuyến khích phụ nữ làm bổn phận người
mẹ, không nên ra ham thích địa vị. Nói chung xã hội chấp
nhận thực tế người phụ nữ trẻ độc thân đi làm để
tự nuôi mình và giúp đõ cha mẹ già và thân nhân trẻ
trong gia đình. Đa số phụ nữ tìm công ăn việc làm vì nhu
cầu kinh tế, thay đổi thái độ về bổn phận cá nhân.
Tuy nhiên với sự kêu
gọi giải phóng phụ nữ, nhiều phụ nữ dường như nghĩ rằng
giải pháp này là thi đua với nam giới ngoài đời. Những
phụ nữ trên đây nên suy nghĩ cẩn thận là họ muốn sanh
con hay theo đuổi nghề nghiệp. Thật là vô trách nhiệm nếu
một người mẹ sanh đứa con ra đời lại để cho người
khác chăm sóc con mình mà không đếm xỉa gì đến phúc lợi
của chúng. Bạn phải chịu trách nhiệm cái gì bạn tạo
ra.
Số phụ nữ có chồng
đi làm gia tăng đáng kể. Ngày nay, họ được đào tạo
thành phụ nữ để làm việc ngoài đời, nên thường có
hai vai trò vừa đi làm vừa làm trọng trách người mẹ. Đa
số các phụ nữ đi làm bị dầy vò giữa tội bỏ con ở
nhà với người làm và sự đòi hỏi của nghề nghiệp.
Với càng ngày càng nhiều
phụ nữ đi sâu vào nghiên cứu học hỏi, số các bà mẹ
đi làm gia tăng. Qua nhiều năm, nữ giới đã đạt tiến bộ
cụ thể trong nghề nghiệp, bây giờ phái nữ giữ các chức
vụ quản lý cấp cao trong cơ quan chính phủ và trong giới tư
nhân. Trào lưu này rất rõ rệt tại thành thị. Trong lãnh vực
chính trị, nữ giới đã tiến đến chức vụ cấp bộ trưởng,
tiến đến mức độ nổi bật trước công chúng trong khi những
ông chồng cam phận ở hậu trường, chỉ còn là cái bóng
đằng sau vợ.
Tuy nhiên các phụ nữ
thuộc ban quản trị dù đã leo đến địa vị quản lý cao
nhất trên thang bậc doanh nghiệp vẫn phải đương đầu với
một dạng thức kỳ thị khó thấy . Những phụ nữ đầy
tham vọng phải đương đầu với sự khác biệt giới tính,
nhất là về nghề nghiệp, sự khác giới thường được thấy
rõ ở bậc thang tột cùng của doanh nghiệp. Quyết định của
ban lãnh đạo thường kết thúc với câu nhận xét:
"Chúng tôi miễn cưỡng phải chuẩn bị cho họ (nữ giới)
vào công việc lãnh đạo vì sự đầu tư của chúng tôi sẽ
thất bại khi họ phải ra đi để trở thành các bà mẹ".
Sự kỳ thị giới
tính ở mức hội đồng quản trị không dễ dàng chứng
minh được; cho nên danh từ 'trần kính' đã được đặt ra
để mô tả vật cản vô hình nhưng kiên cố ngăn chặn phụ
nữ tiến tới bậc thang cao hơn trong quyền hành doanh nghiệp.
Mặc dù một số người tuyệt đối bác bỏ sự tồn tại
của vật cản như vậy nhưng con đường của phụ nữ tiến
tới đỉnh cao vẫn bị chặn đứng bởi cái"trần
kính"này. Cho nên muốn tiến tới đỉnh cao, người phụ
nữ phải chọn một trong hai đường sự nghiệp hoặc gia đình.
Nhiều bà mẹ đi làm tận tâm, có những người phụ giúp
trông nom con cái cho họ, nhận thức rằng họ không bao giờ
có thể để con cái họ trong tay những người đàn bà lạ.
Cho nên tuy rất vui với công việc làm tại sở nhưng họ vẫn
quyết định từ bỏ nghề nghiệp để ở nhà. Mặt khác, cũng
đáng buồn có một số phụ nữ thích tiếp tục nghề nghiệp
nhờ vả vào gia đình.
Đứa trẻ có quyền
được thỏa mãn về vật chất, nhưng quan trọng hơn là
tinh thần và tâm lý. Việc cung cấp đầy đủ về vật chất
đứng sau việc cung cấp tình thương và chăm sóc của cha mẹ.
Chúng ta biết có nhiều gia đình nghèo, lợi tức rất ít
oi, nhưng đã dạy dỗ con cái nên người nhờ chan chứa tình
thương.
Ngược lại có những
gia đình giàu có, cung cấp cho con đủ tiện nghi vật chất,
nhưng thiếu tình thương nơi cha mẹ, những đứa trẻ đó lớn
lên bị thương tổn về tâm lý và tinh thần.
Một số phụ nữ cảm
thấy lời khuyên nên dồn sức vào việc xây dựng gia đình
là điều hạ phẩm giá, phản ảnh lối suy nghĩ cổ hủ và
bảo thủ. Đúng, thời xưa phụ nữ đã bị đối xử rất
tồi tệ, đó là do sự ngu si của phái nam hơn là nhược
điểm cố hữu của người đàn bà. Tiếng Phạn chỉ người
nội trợ "Gruhini" theo đúng nghĩa đen là
"lãnh đạo trong nhà" (nội tướng). Chắc chắn danh
từ này không ngụ ý là đàn bà bị thấp kém. Đúng hơn đó
là sự phân chia trách nhiệm cho phái nam và phái nữ.
Phụ nữ đã tranh đấu
qua nhiều thời đại để giành quyền bình đẳng với nam
giới trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp, chính trị và
nhiều lãnh vực khác. Bây giờ phụ nữ bình đẳng với nam
giới trong phạm vi rộng lớn. Nam giới thường có xu hướng
hung hăng do bản tính, phái nữ thì tình cảm hơn. Trong bối
cảnh gia đình, nhất là tại Đông Phương, người đàn ông
thường lấn át làm chủ gia đình trong khi người đàn bà
có xu hướng thụ động. Xin nhớ "thụ động" nơi
đây không có nghĩa là "yếu". Đúng hơn là đức tính
tích cực của "khiêm nhường" hay "hiền hòa".
Nếu người đàn ông và người đàn bà giữ được nam tính
và nữ tính thừa hưởng do thiên nhiên, và công nhận sức
mạnh và địa vị của nhau, thái độ như vậy sẽ đóng
góp vào sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau của hai giới.
Về điều này, nhận
xét của Thánh Gandhi rất xác đáng:"Tôi tin tưởng vào
sự giáo dục thích ứng cho phụ nữ. Nhưng tôi cũng tin tưởng
phụ nữ không đóng góp cho thế giới bằng cách bắt chước
hay chạy đua với người đàn ông. Phụ nữ có thể thi
đua, nhưng không thể tiến đến đỉnh cao bằng cách bắt
chước người đàn ông." Ở đây chúng ta có thể nhìn
vào sự thông thái của người Trung Hoa cổ khi họ tạo ra hình
tượng Âm Dương. Đường cong phân chia hai phần sáng tối
chứng tỏ rằng sự đối lập không cần thế đối đầu,
lúc phần nay tiến thì phần kia thoái và ngược lại, do vậy
cân bằng. Phụ nữ phải là phần bổ sung cho nam giới.
Trong một vài quốc
gia, đa số người chồng đưa tiền lương kiếm được cho
người vợ để lo việc nội trợ. Làm như vậy người chồng
được rảnh rang tập trung vào việc khác tốt đẹp cho gia
đình. Khi người hôn phối hiểu rõ trách nhiệm của mình,
không xẩy ra xung đột giữa hai vợ chồng. Không khí gia đình
vui vẻ, an lạc là cái nôi cho con cái trưởng thành.
Lẽ đương nhiên, người
chồng có bổn phận lo lắng chu đáo cho người bạn đường
của mình, tham khảo mọi quyết định gia đình với vợ,
và người vợ có đủ tự do để mở mang nhân cách, có đủ
thì giờ rảnh rỗi để theo đuổi việc riêng tư của mình.
Trong ý thức ấy, chồng và vợ chịu trách nhiệm đồng đều
về hạnh phúc của gia đình. Chồng và vợ không đua tranh với
nhau.
Một bà mẹ nên suy nghĩ
cẩn thận có nên tiếp tục đi làm với nhiều chông gai cạm
bẫy hay ở nhà làm người nội trợ đem tình thương, chăm
sóc nuôi dưỡng con cái đang lớn lên. Thật lạ lùng, một
số bà mẹ hiện đại, đặc biệt tại một vài nước có
chế độ quân phiệt, vì thiếu nhân lực, đã được huấn
luyện để sử dụng các vũ khí giết người, trong khi lẽ
ra các bà phải nâng niu con cái trong tay, dạy dỗ chúng trở
thành những công dân tốt, biết tôn trọng luật pháp.
Trong một vài xứ, nữ
quân nhân thường được mang súng để tự vệ, và họ cũng
không còn bị giới hạn về cấp bậc. Người phụ nữ bây
giờ được lái máy bay, trực thăng chiến đấu, chứ không
chỉ lái xe giao thông vận tải mà thôi, nhưng khi ở nhà, họ
vẫn biểu lộ tính nhu mì, và lo lắng bẩm sinh nhất là với
con cái.
THANH
THIẾU NIÊN VÀ GIÁO DỤC VỀ TÌNH DỤC
Dạy con cái những điều
cần biết về giới tính và phát triển giới tính cần phải
được thực thi cẩn thận, tế nhị, trong một cách thức
trong sáng. Đối phó với sự thay đổi trong việc phát triển
giới tính là một vấn đề mà đứa trẻ nào cũng phải
đương đầu, thử thách này thậm chí nghiêm trọng hơn
trong những năm chúng mới lớn. Những nhà giáo dục và bậc
cha mẹ nên coi vấn đề giới tính là một phần của tiến
triển nhân loại, nhu cầu cơ bản phải được định hướng
một cách chính xác.
Sự cần thiết cho con
trẻ tin tức đứng đắn về sự phát triển giới tính là
hết sức quan trọng. Ngày nay trẻ em nhận biết về tình dục
qua truyền thông đại chúng (thường với các chi tiết đẫm
máu) do sách vở, màng lưới Internet, và cũng từ những chúng
bạn đồng lứa, và nếu chúng không được dạy dỗ để
phân biệt cái nào thích hợp cái nào không, chúng có thể
đi đến có thái độ đối xử không đạo đức. Bậc cha mẹ
không bao giờ muốn con cái mình hiểu biết sự phát triển
giới tính từ cặn bã xã hội.
Bậc cha mẹ có thể
cho con kiến thức về tình dục, nhưng kiến thức cần thiết
phải thích hợp với mức độ hiểu biết của đứa trẻ;
trong trường hợp này, mức tuổi tinh thần có thể không
phù hợp với tuổi tác. Trẻ em ngây thơ, rất dễ dàng trở
thành các nạn nhân của những người vô lương tâm. Thậm
chí trẻ không nhận ra nó đang bị dùng làm vật thỏa mãn
nhu cầu tình dục đồi bại của người lớn.
Việc quan trọng để các
em biết việc sờ mó thế nào là 'thích ứng' và 'không
thích ứng'. Việc quan trọng cho các em biết đề phòng là
do nơi cha mẹ. Đứa trẻ cần biết ai là người được sờ
chạm em, ở đâu và khi nào, bác sĩ có thể sờ mó chỗ
nào, những tình trạng nào các em phải tránh, và làm sao để
ngăn chặn cách cư xử không thích đáng trong lớp học.
Các bậc cha mẹ cũng cần
phải cảnh giác về những sự sờ mó không thích hợp có
thể xẩy ra ngay giữa những thân nhân. Chẳng hạn, cha mẹ
thường dạy các em đề phòng 'những người lạ', nhưng
nghiên cứu về các trường hợp trẻ bị lạm dụng tình dục
cho thấy đa số những kẻ lợi dụng là người quen biết
hoặc người thân trong gia đình.
Đối với trẻ em khác
trong xã hội, cần phải có tuyến liên lạc rộng rãi với
cha mẹ của các em ấy. Việc này gồm cả việc thảo luận
công khai về những vấn đề liên quan đến tình dục. Nếu
có sự động chạm xẩy ra, các em sẽ không ngại ngùng nói
với cha mẹ, thay vì e thẹn hay quá sợ hãi mà không nói rõ
chi tiết.
Giáo hóa về giới
tính rất là quan trọng vì ta không thể trông đợi thanh thiếu
niên theo đúng mù quáng các luật lệ mà không biết tại
sao phải theo. Một trong những đề tài phải được giảng
dạy là các em nên giữ trinh nguyên cho đến lúc thành hôn.
Nhiều người chống lại việc giáo dục về tình dục vì
nghĩ rằng nếu ta nói cho chúng biết, chúng sẽ ra ngoài và
lạm dụng. Điều đáng ghi nhận Thụy Sĩ là môt quốc gia dạy
trẻ em về tình dục ngay tại lớp mẫu giáo, và tỷ lệ của
quốc gia này về trẻ vị thành niên mang thai lại thấp nhất
trên thế giới. Điều quan trọng sống còn là trẻ em được
dạy bảo về hành vi tình dục có trách nhiệm ngay từ khi
chúng sæn sàng có kiến thức này. Giáo dục đứng đắn về
tình dục sẽ cứu đứa trẻ khỏi tinh thần bị căng thẳng
từ tội lỗi, sợ hãi, hối hận và trừng phạt ở tương
lai.
NUÔI
DƯỠNG TỘI ÁC
Mảnh đất phì nhiêu
nuôi dưỡng tội ác là gia đình. Mặc dù với nhiều biện
pháp áp dụng để giảm thiểu tỷ lệ tội hành hung trong
gia đình, nhưng tỷ lệ này càng ngày càng tăng trong nhiều
gia đình tại những xã hội hiện đại kỹ nghệ tiến bộ.
Hầu hết trẻ em trở thành các tội phạm do cách dưỡng dục
của cha mẹ.
Tại một số quốc
gia, trong khi tỷ lệ phạm tội ác của người lớn giảm
thiểu, thì tội ác của giới trẻ lại gia tăng. Chúng ta
được biết qua thông tin đại chúng nhiều trẻ em đã mang
súng đi học. Đôi khi chúng ta nghe thấy có trẻ nít thậm
chí dưới năm tuổi bắn anh chị em hay cha mẹ ruột. Thuờng
thường tội phạm trong thanh thiếu niên gây ra do ma túy và
rượu chè, những thứ này sæn có tại nhà. Người ta không
đẻ ra kẻ phạm tội mà bởi sự thiếu hướng dẫn, thiếu
quan tâm của gia đình, và môi trường chung quanh.
Một kiểu mới trở thành
của thế kỷ 20 là nhiều người ăn ở với nhau như vợ chồng
nhưng không cưới. Có một số trường họp, trẻ sinh ra
trong hoàn cảnh ấy đau khổ vì bị bỏ mặc. Những trẻ
này lớn lên dưới sự chăm sóc và hướng dẫn của một
người, thường là người mẹ. Cha, hoặc mẹ vô trách nhiệm
thường bỏ con cho cha hoặc mẹ ghẻ chăm sóc. Người đàn
bà, thường bị kỳ thị, phải làm việc gấp đôi đàn
ông cùng nghề để có thể nuôi bản thân và con cái. Kinh tế
thế giới hiện đại là thế đấy, phụ nữ bị thất lợi
hơn cả người đàn ông ở tầng lớp dưới. Vì cách cấu
trúc toàn thể xã hội đã đi theo môt con đường khác biệt
hẳn con đường truyền thống, việc nuôi dưỡng gia đình hầu
như không còn tồn tại ở nhiều quốc gia. Kết quả các phụ
nữ đau khổ nhiểu hơn, những khó khăn phản ảnh trong gia
đình họ nuôi dưỡng.
Trẻ em nuôi dưỡng bởi
một người, cha hoặc mẹ, thường không nhận được đầy
đủ tình thương và chăm sóc nơi cha mẹ. Cha mẹ bị sa sút
tâm lý không thể làm tròn nhiệm vụ tình cảm với con
cái. Những người giữ trẻ đôi khi chỉ là những máy truyền
hình hay những người được giao phó tương tự như vậy để
làm nhiêm vụ giữ em. Nhiều trường hợp, người giữ trẻ
là những thiếu nữ cần tiền vì ma túy và rượu chè. Họ
không có qua một lớp huấn luyện về giữ trẻ nào. Trong
khi giữ em, chính họ hút thuốc hay dùng ma túy bất hợp
pháp. Trong hoàn cảnh đó, trẻ em đâu có được đầy đủ
săn sóc, hướng dẫn, thương yêu cần thiết và quan trọng
nhất là giáo dục căn bản.
Không một người giữ
trẻ nào có thể cho tình thương và chăm sóc như người mẹ
cho con. Những đứa con không bao giờ nói đến người giữ
chúng như chúng nói đối với cha mẹ của chúng.
Khi lớn, những đứa
trẻ như vậy có thể bắt đầu lối sống cẩu thả và sai
lầm. Chúng không nhận được sự giáo dục đạo lý thích
đáng. Chúng cũng không biết cách tự mình khám phá đạo lý.
Tệ hại hơn nữa, bạo động trên truyền hình là thần tượng
của chúng. Nhiều nhà sản xuất và viết kịch bản, những
chuyện phim khích động bạo lực với mục đích dễ kiếm
tiền. Những đứa trẻ lớn lên không có sự hướng dẫn
thích đáng, chăm chú vào những chuyện phim ấy, cố gắng bắt
chước như chúng nhìn thấy trên truyền hình hay đọc trong
sách.
Nhiều bậc cha mẹ cũng
không thận trọng về súng và rượu. Nhiều bậc cha mẹ uống
rượu và hút thuốc trước mặt con cái. Khi họ không còn
giữ được tinh thần trách nhiệm do ảnh hưởng của rượu,
tri giác của họ tr? nên đần độn, họ không còn nhớ đến
cất dấu chai rượu, thuốc lá, và súng vào những chỗ an
toàn để con cái không thấy được. Họ cũng không lưu tâm
đến việc giữ súng có đạn sæn khiến con cái có thể lấy
được. Con cái vô tình được khuyến khích do bản tính tò
mò tự nhiên bằng cách sử dụng súng, uống rượu, dùng ma
túy, hay hút thuốc lá sæn có trong nhà.
Một số chính các cha
mẹ cũng xuất thân từ những gia đình đổ vỡ, thiếu giáo
dục về luân lý, hạnh kiểm, không giữ ý nên đã không giữ
tư cách trước mặt con cái. Một số cha mẹ, ông bà, chú
bác, và anh em đã lạm dụng tình dục con trẻ. Những đứa
trẻ bị xâm phạm tiết hạnh lớn lên trong hận thù người
gây tội lỗi. Đôi khi chính chúng cũng trở thành những tội
phạm tương tự lúc trưởng thành.
Nhiều khi, xã hội làm
cho vấn đề tệ hơn cho những gia đình và con cái khủng hoảng.
Những nhà sản xuất vũ khí lại rất vừa lòng thấy càng
ngày ngày càng nhiều người sử dụng vũ khí để tăng
doanh thu. Kẻ buôn bán ma túy có lãi lớn bằng cách dùng trẻ
em, nhất là các trẻ từ những gia đình tan vỡ, trong việc
phân phát và sủ dụng ma túy. Đứa trẻ kiếm tiền trong việc
bán ma túy, làm mọi điều để khuyến khích chúng bạn
dùng và buôn bán ma túy. Khi cha mẹ không có nhà, bọn trẻ
vui sướng rộn ràng lấy ma túy hay rượu của cha mẹ cất
tại những nơi không khóa.
Ly dị trở thành tiêu
chuẩn ngày này tại các xã hội kỹ nghệ mở mang. Kẻ bị
đau khổ nhất do ly dị là con cái. Trong tuổi thơ ngây, trẻ
nít cần đến tình thương và chăm sóc của cả cha lẫn mẹ.
Đó là tuổi mà chúng cần chỉ dẫn thích hợp, và gương tốt
để noi theo. Đó là tuổi tâm trí thâu thập mọi thứ rất
nhanh như miếng bọt biển hút nước. Khi cha mẹ ly dị hay
ly thân, con cái tan nát và bối rối. Chính cha mẹ cũng phải
phấn đấu để tự trấn an và lo lắng đời sống của mình,
không thể hướng dẫn con cái đúng hướng, cũng không thể
để hết tâm lực cần thiết đến việc nuôi nấng con
cái. Nếu bị bỏ bê, con cái tìm cách giải quyết những
khó khăn của chúng nơi bạn bè mà đa số cũng xuất thân từ
những gia đình tan vỡ. Không ai trong số bạn bè thực ra
có thể giúp đỡ chúng được.
Cả đến những gia đình
không gặp khó khăn vì ly dị con cái cũng không thân cận gần
gũi với cha mẹ. Một số người tham công tiếc việc để
có đời sống tiện nghi cho chính mình và con cái. Họ thường
không có nhà vì phải làm hai công việc để có nhiều tiền
hơn. Một số phải xa nhà vì phải du hành buôn bán nơi xa.
Một số tuy không phải đi xa nhưng lại làm thêm tại
sở. Một số như người
ghiền rượu không thể bỏ một phút nào mà không nghĩ đến
công việc của mình. Hoặc, từ sáng sớm họ đã đi làm,
trở về nhà muộn còn mang việc của sở về nhà làm. Đã
di ngủ rất trễ nhưng họ vẫn còn suy nghĩ đến công việc
ngày mai. Họ bận từng giây phút trong ngày, bận rộn nghĩ
đến công việc ngày mai lúc ngủ.
Hỏi họ tại sao quá
ám ảnh bởi công việc như thế, họ trả lời họ phải làm
việc như vậy để kiếm tiền, dành dụm để nuôi dưỡng
gia đình. Nhưng vì lúc nào cũng sống trong tình trạng căng
thẳng nên lúc nào họ cũng cáu kỉnh, cục cằn. Họ càu
nhàu lúc sáng dậy, càu nhàu lúc đi ngủ ban đêm. Một chút
nhỏ nhặt cũng làm cho họ cáu kỉnh. Họ không có thì giờ
cho chính họ và cho con cái. Họ tin là nếu họ kiếm được
nhiều tiền thì tương lai của con cái sẽ được bảo đảm.
Nhưng dù kiếm được bao nhiêu đi nữa, cũng vẫn chưa đủ.
Một số có nhiều hơn nhu cầu vẫn không có thì giờ cho
con cái vì họ bỏ nhiều thì giờ với bạn hữu hơn là với
gia đình.
Khi trẻ em từ trường
về nhà tự tung, tự tác muốn làm gì thì làm vì không ai
ở nhà để cai quản chúng. Một số trường hợp, cha mẹ
đón con tại trường học khi đi làm về, không có đến cả
thì giờ để nghe chúng. Họ chỉ muốn nhìn chúng chứ
không nghe chúng. Trẻ em lại sợ không dám nói chuyện với
cha mẹ, e ngại sẽ làm cho cha mẹ giận vì những vấn đề
của chúng. Những khó khăn của chúng ngày một thêm nhiều
khi chúng không có thì giờ để thảo luận cùng cha mẹ. Những
bạn hữu cùng lứa tuổi cũng chẳng hơn gì để có thể
cho chúng những lời khuyên ý nghĩa.
Một số cha mẹ mong mỏi
con cái mau trưởng thành rời khỏi gia đình càng sớm càng
tốt để họ muốn làm gì thì làm. Buồn thay, con cái cũng
mong mỏi mau trưởng thành để thoát được bố mẹ. Có những
trường hợp cực đoan, đứa trẻ không được hướng dẫn,
nóng lòng đã giết cha mẹ để chiếm hữu tài sản. Trẻ
em mong muốn được độc lập càng nhanh càng tốt, trở nên
càng ích kỷ hơn. Chúng ta hiểu vấn đề. Không có tình thương
yêu khăng khít giữa cha mẹ và con cái. Vậy giải pháp phải
như thế nào?
Đương nhiên, cả cha mẹ
lẫn con cái có thể độc lập nhưng vẫn có mối quan hệ tốt
đẹp với nhau. Mối liên hệ giũa cha mẹ và con cái đã
được đề cao bởi Đức Phật. Để xúc tiến mối liên hệ
tốt đẹp ấy, Đức Phật chủ trương nhiều biện pháp. Nếu
cha mẹ làm tròn bổn phận và trách nhiệm đối với con cái,
và nếu con cái làm tròn trách nhiệm đối với cha mẹ, kết
quả gia đình hòa thuận và an lạc.
Người coi tiền bạc
như hạnh phúc thường là gốc rễ của tội ác hung bạo. Hầu
hết tất cả những tội ác gây nên là do những người không
được giáo dục về giá trị luân lý và đạo đức. Nếu
bạn đầu tư tất cả lợi tức, tất cả năng lực và thì
giờ vào kiếm tiền hay vào dục lạc, bạn phải trả giá bằng
tương lai của con cái, làm sao bạn có thể trông chờ con
cái biết phân biệt giữa điều xấu và điều tốt? Hoặc
bạn dạy con bạn ghét người láng giềng vì người này
khác bạn không cùng một giá trị như bạn, bạn làm sao có
thể hy vọng con cái bạn kính trọng mọi người?
Hay bạn dạy con cái bạn
căm thù người theo đạo khác đạo của bạn, làm sao bạn
có thể hy vọng con bạn không hung bạo? Hay bạn dạy con
cái căm thù người có ngôn ngữ khác mà bạn không hiểu,
làm sao bạn có thể hy vọng giảm thiểu tội ác trong xã hội.
Tội bạo hành không nhiều trong các xã hội khi mối liên hệ
giữa cha mẹ và con cái và giữa người thân và gia đình
được chặt chẽ. Trong những xã hội có sự trao đổi tư
do về thì giờ, của cải, năng lực, kiến thức, tình thương
và thận trọng, tội bạo hành giảm thiểu.
Phước lành thay cha mẹ
và con cái có mối liên hệ thương yêu với nhau. Phước lành
thay gia đình có sự thân mật và hòa hợp. Bậc cha mẹ phải
hy sinh dành cho con cái tình thương và chăm sóc. Cha mẹ khôn
ngoan nên đầu tư thì giờ, năng lực và tiền bạc để tạo
bầu không khí gia đình lành mạnh, nơi mà họ nuôi dưỡng
con cái thành công hạnh phúc. Để chăm sóc con cái, một số
cha mẹ từ chối không làm việc thêm ở bên ngoài. Lời
khuyên cho cha mẹ là phải thay đổi chương trình làm việc,
nếu cả hai đều phải làm việc để có đủ lợi tức nuôi
gia đình. Đôi khi, cha hoặc mẹ phải quyết định ở nhà
để chăm sóc con cái nếu một người đi làm đủ lợi tức
nuôi gia đình.
Cha mẹ tốt nên nhận
thức rằng mình làm gương cho con cái. Muốn cho con cái có kỷ
luật, cha mẹ phải tự kỷ luật. Nếu cha mẹ vô kỷ luật,
thì không thể mong mỏi con cái giữ kỷ luật. Khi cha mẹ cố
gắng đem con cái vào kỷ luật, đôi khi chúng chống lại.
Con cái có thể nói chúng ghét cha mẹ. Tuy nhiên, bậc cha mẹ
tốt không nên sợ hãi về những câu bình phẩm như thế của
con cái. Khi chúng lớn chúng sẽ hiểu cha mẹ áp dụng kỷ
luật với chúng là làm lợi lạc cho chúng.
Đôi khi, con cái có những
vấn đề quan trọng, liên quan đến cảm nghĩ lo âu hay những
khó khăn cần biết, hay những vấn đề học hành, bạn bè,
mà chúng mong được đem thảo luận cùng cha mẹ. Cha mẹ phải
nhẫn nại và bao dung để nghe chúng. Trong lúc thảo luận, nếu
con cái dùng ngôn từ quá đáng, cha mẹ phải dạy chúng ngay
rồi cho phép chúng được tiếp tục trình bày. Nếu chúng
biểu lộ xúc động, cha mẹ không nên tỏ thái độ đồng
tình để rồi cũng trở nên xúc động, mà chăm chú nghe
chúng hy vọng giúp đỡ chúng. Nói một cách khác, khi chúng
giận dữ, cha mẹ phải nhẫn nại, chăm chú nghe chúng chứ
không giận dữ, như vậy cha mẹ giúp chúng có hiệu quả.
Cha mẹ và con cái nên thường xuyên có những cuộc bàn thảo
thân mật cởi mở. Cha mẹ nên chấp nhận nếu có lỗi lầm,
và thẳng thắn xin lỗi con cái. Nếu cha mẹ la hét, chửi rủa
hay nổi cơn thịnh nộ, lập tức phải xin lỗi chúng ngay
hay sau đó phải giải thích cho chúng biết lý do tại sao cha
mẹ lại có thái độ như vậy. Cha mẹ phải quyết định là
từ nay không tái diễn thái độ như vậy nữa trước mặt
con cái. Con cái cũng vậy nên được khuyến khích nhận những
lỗi lầm và xin lỗi cha mẹ. Cha mẹ nên tán thưởng những
việc làm tốt của con cái và thừa nhận bất cứ tiến bộ
nào chúng đạt được. Thưởng phạt có hiêu quả với tất
cả mọi người.
Nếu có nhiều con trong
gia đình, cha mẹ phải công bằng đối với mỗi đứa con.
Giải quyết những khó khăn gia đình, cha mẹ luôn luôn phải
thận trọng, công bằng với tất cả các con. Nếu đề cao
một đứa trước mặt tất cả có thể làm cho những anh chị
em ruột ganh tị đứa được khen thưởng. Khi tràn đầy
thương yêu và bi mẫn, cha mẹ sẽ dễ dàng giải quyết mọi
khó khăn trong gia đình.
Cha mẹ nên đối xử với
con cái với danh dự và phẩm giá khi những chúng sanh tuyệt
vời này một một ngày nào đó có thể nắm thế giới
trong tay.
Bất cứ lúc nào, con
cái làm những điều thiện, cha mẹ không nên quên đánh
giá cao và thưởng chúng ít nhất bằng lời khen. Khi con cái
làm một điều gì vô đạo đức, vô luân lý, hay tai hại,
cha mẹ phải quở mắng ngay chúng, trực tiếp dạy chúng.
Cha mẹ phải hiểu lúc nào cần phải răn dạy riêng biệt,
lúc nào cần phải quở mắng trước mặt mọi người trong
các cuộc hội họp gia đình. Cha mẹ cũng không nên phê
bình nhau trước mặt con cái. Cha mẹ nên có những cuộc họp
riêng tư để thảo luận những vấn đề.
Cha mẹ nên phải chọn
lời nói thích hợp, thái độ chính đáng, đúng lúc và đúng
chỗ để nói sự việc đúng cho con cái. Trong mọi trường
hợp, cha mẹ luôn luôn tỏ ra thực tình thuơng yêu con cái.
Cha mẹ phải bảo đảm là thực tình yêu thương chúng. Nếu
quý vị làm bẽ mặt con cái trước mặt mọi người, con cái
có thể lén lút làm những điều sai trái. Chúng cũng sẽ học
thói đạo đức giả. Cha mẹ phải hết sức chân thật với
con cái. Nếu cha mẹ không chân thật, con cái sẽ mất niềm
tôn kính với họ. Quý vị là bậc cha mẹ không thể đòi hỏi
sự kính trọng nơi chúng nếu chính quý vị không xứng đáng.
Quý vị phải cố đạt được sự kính trọng bằng tư cách
và thái độ của quý vị với con cái. Không nên kỳ vọng
lúc nào quý vị cũng là thầy dạy của chúng. Con cái, cũng
có thể là các thầy dạy tốt cho cha mẹ.
"Một điều tốt
nhất mà các bậc cha mẹ có thể làm được để thiết lập
và duy trì mối giao tế thân mật, thương yêu giũa cha mẹ và
con cái là thực hành lòng từ ái và thiền định. Họ nên
làm thành thói quen việc trên đây để khuyến khích con cái
theo họ vài phút thực hành thiền tập hàng ngày. Trong những
gia đình Phật Giáo tốt, cha mẹ và con cái dành ít phút để
tụng kinh kệ. Những gia đình này có một bàn thờ, nơi đây
gia đình quây quần ít nhất ít phút trong một ngày." --
(Thượng Tọa Henepola Gunaratana, Hoa Kỳ).
THANH
THIẾU NIÊN PHẠM PHÁP
Thảo luận về thanh
thiếu niên phạm pháp, hai câu hỏi căn bản được nêu
lên: (1) Ai là thanh thiếu niên? và (2) Cái gì cấu thành phạm
pháp?
Để trả lời câu hỏi
thứ nhất, đó là tiêu chuẩn theo sự sắp xếp thứ tự tuổi
tác. Đa số luật lệ nói về thanh thiếu niên phạm pháp
trên khắp thế giới ấn định cỡ tuổi, trên cỡ tuổi
này, thủ tục và các biện pháp đối với trẻ vị thành
niên sẽ không áp dụng cho chúng. Cỡ tuổi ấn định tại
Mã Lai sẽ được đề cập ở đoạn sau.
Câu hỏi thứ hai cái
gì cấu thành phạm pháp rất khó để trả lời. Chữ
delinquency (phạm pháp) bắt nguồn từ tiếng La Tinh deliquence
có nghĩa là 'sao lãng', và có thể giải theo nghĩa rộng là
cẩu thả của thanh thiếu niên không tuân theo đúng tiêu chuẩn
về tư cách được chấp thuận trong một xã hội. Hành động
của một thanh thiếu niên chống lại xã hội được coi
như sự phạm pháp.
Một số chúng ta có những
'đồ bỏ đi' (cừu đen) trong nhà hoặc là ngay trong chúng
ta. Nguyên nhân gì? Nghiên cứu cho thấy một số yếu tố
khiến trẻ em có thể gặp phải cái nguy hiểm rơi vào tội
ác. Những lý do về tội ác được nêu lên là: (a) lịch sử
tội phạm của gia đình đứa trẻ; (b) Những nét cơ bản về
gia đình không hạnh phúc do cách cư xử của cha mẹ, kỷ luật
nghiêm khắc và thất thường pha trộn lẫn lộn với lòng rộng
lượng trong viêc cung cấp tặng phẩm vật chất; (c) gia đình
quá đông; (d) trốn học; và (e) thất bại trong việc học
hành ở nhà trường.
Đứa trẻ phạm pháp
có thể do môi trường xấu của nơi ở, không có lòng tự
tin, không tin vào cá tính của mình, không hề được hưởng
niềm vui bình thường. Giải pháp chính là ở nơi gia đình.
Cha mẹ phải chịu trách nhiệm về việc làm của con cái
ở mức độ nào? Trẻ em phạm tội lặt vặt là do sự sao
lãng của gia đình lúc còn nhỏ. Chúng muốn chiếm hữu và
có tiền. Nhưng vì chúng không biết làm sao để có được
nên sinh ra ăn cắp. Những đứa phạm các tội ác hung bạo
là vì ngoài sự cẩu thả của gia đình, chúng thường bị
đối xử độc ác lúc thơ ấu. Chúng không biết xấu hổ
khi tù tội. Chúng không có ý thức khi hạ thấp ai và cũng
không thấy thích thú được xã hội tán thưởng.
Cha mẹ ly dị thường
tạo những khó khăn tình cảm cho con cái. Chúng bị mất đi
truyền thống của gia đình, truyền thống giúp chúng cư xử
đúng mức và hợp đạo lý.
Không có cách chi có thể
bảo con cái làm một cái gì khi chúng đã trở nên ngang ngạnh.
Thưởng phạt phải có giới hạn. Khi nào ta bắt đầu kiểm
soát và thúc đẩy con cái của chúng ta? Các nhà tâm lý cho
rằng hai năm đầu tiên trong đời người, đó là phần lớn
nhất của tiến trình này diễn ra lúc tình thương của cha
mẹ thức tỉnh tình cảm tương ứng ở trẻ.
Thời gian này thiết yếu
để hướng dẫn trẻ khi chúng lớn thành người biết trách
nhiệm với xã hội hay là người chống lại xã hội. Trong
thời hiện đại, những đứa trẻ sáu hay bẩy tuổi không
còn là các em bé cưng mà ta nuông chiều, bồng bế, mà là
những thằng nhóc bướng bỉnh. Cha mẹ chịu trách nhiệm
nhiều về tư cách như vậy của chúng. Chúng ta phải hình
thành suy nghĩ phê bình nghiêm túc nơi con cái, dạy chúng đánh
giá hành động với hậu quả.
Trong giai đoạn chúng
phát triển, nhà trường có trách nhiệm tương đưong với
cha mẹ. Nhiều trẻ sợ hãi đi học vì sợ bị bắt nạt,
chế diễu hay quá e thẹn về dáng dấp hay lo âu vì học
kém ở trường, hay sợ hãi các thầy giáo. Trong ánh sáng
các kinh nghiệm này, cố gắng làm cho cuộc sống của trẻ
5-6 tuổi bảo đảm hơn là thích đáng.
Những báo cáo mới đây
về thanh thiếu niên phạm pháp của Bộ Xã Hội cho thấy tỷ
lệ phạm pháp của trẻ dưới 18 tuổi gia tăng dữ dội
(300 phần trăm từ năm 1962) . Đó là một điều đáng buồn,
cho thấy biết bao cố gắng không kết quả trong các chương
trình và đề án để truyền bá và nuôi dưỡng một xã hội
lành mạnh. Trên 4000 trẻ em dưới vị thành niên phạm pháp
bị bắt năm 1965, so với năm ngoái tăng khoảng 1000. Hầu hết
những trẻ em vị thành niên bị bắt là những đúa gặp
khó khăn tại trường học. Tình trạng vô kỷ luật trong học
sinh tiến tới mức báo động. Thanh thiếu niên phạm pháp
là do sự thiếu chăm sóc nơi gia đình, Những yếu tố
không lành mạnh hiện hữu đàng sau trò chơi video và trung
tâm giải trí cùng với bạn xấu. Bản nghiên cứu nêu rõ học
sinh xuất thân từ các khu dân cư nghèo hoặc khu đất lấn
chiếm dễ bị tổn thương và có vấn đề nhất.
Tiến sỉ Mahathir
Mohamad, thủ tướng Mã Lai nói nếu Chính Phủ đóng cửa một
số các trung tâm giải trí, nơi người ta khuyến khích giới
trẻ dấn thân vào một số thói quen vô luân, thì chúng cũng
hành động như vậy trong bí mật.
Cảnh sát cũng bày tỏ
nỗi lo âu về những băng đảng mọc lên và các trường hợp
hành hung tại trường học. Những hành động tội lỗi như
vậy cần phải được kiềm chế để ngăn ngừa học sinh
phạm các tội ác nghiêm trọng. Hiệu trưởng và các thầy
cô giáo phải chỉ bảo và khuyên nhủ học sinh không nên bị
lôi cuốn vào các hoạt động tội ác. Cảnh sát chỉ nên
được gọi đến khi không giải quyết nổi các khó khăn.
Hisham Haren viết trong tờ
New Straits Times (Mã Lai), ngày 5 Tháng 3 1994 như sau:
Thống kê của Cảnh
Sát cho thấy năm 1994, số người bị bắt vì tội ác gồm
có ghiền ma túy, hiếp dâm, loạn luân, đột nhập ăn trộm,
và ăn cắp xe lên tới 4192 người. Trong số này 1839 đàn
ông, và 23 phụ nữ gốc Mã, 390 đàn ông và 18 phụ nữ gốc
Trung Hoa, và 421 người đàn ông và 10 phụ nữ gốc Ấn.
Năm kế tiếp người
Mã phạm pháp cũng ở cỡ tuổi này là 2402 người, người
gốc Trung Hoa là 922 người và 507 thanh niên Ấn Độ. Năm
ngoái con số cho thấy là 2890 người Mã Lai, 770 người
Trung Hoa (có xuống thấp) và 574 người gốc Ấn. Tại
Selangor, Johor, và Kedah là những nơi tỷ lệ giới trẻ phạm
pháp cao nhất. Thanh thiếu niên Mã chiếm tỷ lệ người
phạm pháp nhiều nhất tại các Tiểu Bang.
Thống kê của Bộ
Phát Triển Xã Hội và Thống Nhất (Mã) dường như xác
minh thống kê Cảnh Sát cho biết trong số 2898 thanh thiếu
niên phạm pháp về ma túy và vấn đề xã hội, 61 phần
trăm là người Mã, 17 phần trăm là người Trung Hoa, và 10
phần trăm là người gốc Ấn. Mã Lai có đến 70 phần
trăm người phạm pháp giam tại (Trại Cải Huấn Thanh
Niên) Hundry Gurney tại Malacca.
Giới chức phụ
trách an sinh xã hội cho là do áp lực đời sống hiện đại
không tránh được dẫn đến sự sụp đổ mối quan hệ mạnh
mẽ của cộng đồng và gia đình. Ai là người cần sự
khuyến bảo? Chính bậc cha mẹ cũng rất cần chứ không
riêng gì giới trẻ phạm pháp.
Nhóm phụ trách tờ
News Straits Times trong một số báo ra ngày chủ nhật tại Mã
Lai, tuyên bố những người già cũng có lỗi trước tệ nạn
xã hội của quốc gia.
Lúc trưởng thành là
lúc nhiều mâu thuẫn - thể chất, tình cảm, và tâm lý.
Ngày nay người ta thấy hầu hết trẻ em phạm pháp là học
sinh. Khi học sinh biểu lộ tư cách đáng lo ngại, giới chức
liên hệ phải báo ngay cho cha mẹ để đề phòng về những
nhận xét thấy nơi trẻ.
Những báo động sớm
như vậy sẽ giúp cho cha mẹ có biện pháp đề phòng và sửa
chữa trước khi các em sa vào thống kê hồ sơ phạm pháp của
quốc gia. Như vậy, gia đình và trường học đều đóng một
vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn trẻ con phạm pháp.
Nếu cha mẹ lưu ý đến lời dạy của Đức Phật về bổn
phận đối với con cái, những khó khăn tạo nên bởi con trẻ
có thể được hạn chế .
TRẺ
LANG THANG
Bỏ nhà trở thành một
vấn đề nghiêm trọng trong thanh thiếu niên là nguyên nhân
khiến cha mẹ lo âu. Trốn bỏ gia đình là một đứa trẻ bỏ
gia đình không được phép của cha mẹ với ý định không
trở về. Những đứa trẻ trốn gia đình vì chúng cảm thấy
tình hình không thể chấp nhận được. Chúng nghĩ rằng bỏ
nhà là một giải pháp. Nhưng thực ra bỏ đi chỉ có nghĩa
là không ở nhà nữa, tinh thần căng thẳng và vết thương
tình cảm vẫn còn.
Một nhà tâm lý xã hội
nghiên cứu những khó khăn thời hiện đại nói rằng trốn
bỏ gia đình ' là một phản ứng thiếu suy nghĩ trước
căng thẳng và khủng hoảng'. Đương nhiên, có đủ lý do
trong môi trường ở nhà và ở trường để thúc đẩy thậm
chí một người tinh thần vững chãi nhất tìm đến cách bỏ
đi như là một cách đối phó.'
Khi đứa trẻ bắt đầu
nghĩ đến bỏ nhà ra đi, nó tự hỏi nhiều câu hỏi. Nó tự
tính toán nhiều hơn là người lớn nghĩ. Chúng muốn từ bỏ
mối an toàn trong gia đình để đổi lấy những hứa hẹn bất
trắc ở môi trường mới. Tại sao? Đó là vì chúng quá thất
vọng và nhân định là bất cứ lựa chọn con đường nào
thì cũng tốt hơn là chịu khổ ở nhà. Chốn bỏ gia đình
ít khi được lập kế hoạch chu đáo. Nó bất thần, phát
xuất trong cơn bốc đồng.
Một số cha mẹ nghiêm
khắc chọn bạn cho con hay cấm chúng giao du với bạn bè. Những
bậc cha mẹ như vậy có thể đem đến kết quả là khuyến
khích chúng bỏ nhà để đi tìm triển vọng tự do ngoài gia
đình. Con gái bỏ nhà để tránh khỏi sự kiểm soát và bảo
vệ quá mức của cha mẹ, chẳng hạn quyết định về lựa
chọn bạn trai. Con trai bỏ nhà ra đi thường vì chúng không
bị giám sát từ lâu. Chúng đã phát triển tính tình nông nổi,
muốn thoát ly, muốn có một cuộc sống vô tổ chức.
Tình trạng căng thẳng
cũng đôi khi phát xuất từ tình thương yêu con cái yếu ớt.
Cha mẹ quá ư bận rộn về công ăn việc làm nên đã bất
lực trong việc sửa chữa tính nết con cái. Mặt khác, chốn
bỏ gia đình hầu hết bao giờ cũng vì sự kiểm soát quá mức
và sự mong muốn không thực tế của cha mẹ.
Sự phát triển kinh tế
quốc gia mạnh mẽ hiện nay đã dẫn đến những vấn đề
xã hội ảnh hưởng đến giới trẻ. Với sự tiến tới
truyền hình qua vệ tinh, và thông tin siêu việt, giới trẻ
sẽ càng ngày càng bị ảnh hưởng bởi tin tức dung chứa
giá trị tiêu cực dẫn đến làm suy đồi luân lý nay đang
ám ảnh nhiều thanh thiếu niên tại các nước phát triển.
Chúng ta phải tự chuẩn bị trước đối với sự thử thách
của thế giới mới.
-ooOoo-