Chương 9
Cõi
Vô Hình
Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô
hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn
mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa
vào vách núi. Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác
sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp
sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác
áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
Giáo sư
Evans-Wentz vào đề :
- Chúng tôi
được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
Pháp sư thản
nhiên :
- Đúng thế,
tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
- Như thế ông
tin rằng có ma…
Vị pháp sư
nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :
- Đó là một
sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu
của tôi.
- Bằng cớ nào
ông tin rằng ma quỷ có thật ?
- Khắp nơi
trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái
gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ
nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai
thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ
hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi.
Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?
- Dĩ nhiên,
chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
- Được lắm,
các ông hãy nhìn đây.
Vị pháp sư mở
ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để
xuống đất. Ông ta thong thả :
- Chúng ta
tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ
ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy :
- Nếu ông
nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa
ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
Vị pháp sư
nghiêm giọng :
- Đó là một
quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không
phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi
này.
- Khi chết ta
bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh
được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy
theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con
người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với
một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa
chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong
và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc
nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác
ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và
nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người
sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên
ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra,
tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới
khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì
con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống
như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một
bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát
nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh
thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất
hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ
tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình
dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường
mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến
thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không
sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn,
thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà
chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn
thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình
tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái
lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động,
khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng
cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối,
non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn,
rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng
họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây
phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong
thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được
thoa? mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử
nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một
cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một
người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức
tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn
ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là
định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái
đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ
hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là
một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả
thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?
Hamud mỉm
cười như đọc được tư tưởng mọi người :
- Nếu các ông
biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford…
Giáo sư
Harding giật mình kêu lên :
- Oxford ư ?
Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
- Chính thế,
tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành
này.
(Ghi chú của
giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học
Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học
năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý).
- Nhưng làm
sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những
bằng chứng ở đâu ?
- Tôi đã khai
mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi
còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi
dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì
khoa học phải bó taỵ Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học.
Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các
vị đạo sư uyên b ác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên
cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên
nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu
nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt.
Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và
cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình,
chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư
Evans- Wentz ngập ngừng :
- Ông muốn
nói rằng ông kết bạn với ma ?
- Dĩ nhiên,
vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn
bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có
đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có
loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp
với chúng có lợi ích gì không ?
- Các ông nên
biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên
khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…..
- Như thế có
nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên,
có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ,
thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù,
nguyền rủa….
- Ông có thể
làm như vậy không ?
Vị pháp sư
nghiêm mặt :
- Tất cả
những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang
lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai
đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì
chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng
bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một
thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
- Xin ông nói
rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.
- Các ông nên
biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí
dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này
cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm
xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi
âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động
thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy
theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại
rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm
xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ
ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước
sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại
sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ
bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên
sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào
cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn
không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm
rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thoa? mãn thì
còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thoa?
mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời
gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt
và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cõi giới thứ sáu, có sự
rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn
vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc
sống như thoa? mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có
hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động
của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường
nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên
vu vơ nhằm thoa? mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn
sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng
cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung
động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ
thăng lên cảnh giới thứ năm. Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi
trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một
thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở
đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức.
Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành
kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt
của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng
hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa
(gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ,
pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của
những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng
phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng
thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu.
Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu
là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư
tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo
ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình
tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần
thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến.
Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người
hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ
sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này
sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành
kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay
“dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng
của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là
tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống
nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này
giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc
khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách
xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục,
tập quán. Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này
rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những
nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều
thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi
bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong
lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia
đình hay quốc gia. Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ
nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành
tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây
cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần
(Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần
(Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ
của nhân loại. Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử
hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi
giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng, ham
muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính
riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.
- Như thế
người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ?
- Thời gian
lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé
lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ
lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết
thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên
đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới
(Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở
một cảnh giới tương ứng.
Mọi người yên
lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức
khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều
mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là
một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không
phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh
thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận
một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục
những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối
ở khoa học /
Hamud mỉm
cười tiếp tục :
- Sự hiểu
biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau
khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân
chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục
tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và
khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người
có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thoa? mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ,
đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể
vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm
soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của tạ Sự nung đốt của dục
vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn
trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết
định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh.
Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ
ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc
thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người
nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các
dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi
về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ
thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các
chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng
hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất
đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn.
Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi
trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những
người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo
lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền
não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn thời
gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.
- Nhưng còn
các ma quỷ thì sao ?
- Các ông cứ
cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra
phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà
thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra
khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi
trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong
một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa,
người bạn của tôi đã làm xong việc.
Hamud chỉ vào
góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần
và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai
rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên
giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :
- Con ma này
rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len
cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò
ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khá,c tôi yêu cầu hắn thêu tên
người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ
khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan
riêng cho các ông thì còn ai nữa ?
Qủa thế, vị
pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng , rất vừa vặn cho giáo
sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những
người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này.
Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư
vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài
vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
Giáo sư
Evans-Wentz thắc mắc :
- Như vậy ông
có thể sai khiến ma quỷ hay sao?
- Tôi không
phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người
có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên
như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái
gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn.
Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn,
chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói
đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê
cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng
minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng,
còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi.
Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có
thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh
tất cả. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp
sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có
kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu
trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói,
điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa
học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông
nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và
giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại
cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể
con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo
bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể
khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở,
ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu
hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát
triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này
khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng.
Giáo sư Allen
ngập ngừng :
- Nhưng có
một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay
xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?
Hamud lắc đầu
:
- Đó là một
quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay
toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn
thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có
thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy
vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột
ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi
chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để
lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát
triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người
biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như
người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con
người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ
vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thoa? mãn vì
thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu
ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực
độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.
- Như ông đã
nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có
thoa? mãn không ?
- Khi người
sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm
cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thoa? mãn cho được.
Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước
bọt nhưng điều này đâu có thoa? mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung
dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động
theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô
tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh
hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.
- Đa số mọi
người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?
- Sự hiện
hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải
ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể
trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu
tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó
có nhiều nguyên tử 'dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi
rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì
đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên
nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các
nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là mạ Theo sự hiểu biết của tôi, thì
việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm
cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất
động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn
gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.
- Ma quỷ
thường thuộc thành phần nào trong xã hội ?
- Chúng thuộc
đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ
tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn.
Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có
ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong
trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng,
“Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó
lâu hay mau.”
- Số phận của
những người quân nhân tử trận thì ra sao ?
- Họ cũng
không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên,
người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì
cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình
để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử
đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ
giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.
- Như ông nói
thì người chết vẫn thấy người sống ?
- Thật ra
phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng
được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan
thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ;
mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn
hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.
- Như vậy thì
họ Ở gần hay ở xa chúng ta ?
- Khi mới từ
trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng
theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia
đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.
- Như thế có
cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?
- Điều này
không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì
ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự
chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra
ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí
huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau
cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn
bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức,
cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang
phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng
vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ
giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn
mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ
sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và
lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ
đến.
- Ông du hành
sang cõi âm thế nào ?
- Nói như thế
không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các
cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian.
Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức
chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì
nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với
sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là
cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình
ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có
cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể
xác.
- Những người
chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?
- Trừ những
kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ
năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ
còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng
mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này
cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất
cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà
để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả
ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những
số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế
nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến
luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời
cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó
một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp
những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng
đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi
người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi
đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn
quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén
mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ
không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên
lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên
họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua
chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn
ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong
linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc
chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm,
mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng
của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê
trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không
nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng
không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi,
và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một
nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của
buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y
trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y
qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát…
- Ông cho
rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?
- Cầu siêu
cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng
một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của
nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả
tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ
chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung
tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh
kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây
Tạng”.
- Như ông nói
thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?
- Vấn đề cầu
nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một
nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức
chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có
những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.
- Như vậy
nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ?
- Một số
người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc
từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi
cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ
hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ
xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận
mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu
nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì
tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một
tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh
đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho
cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp
với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái
chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi
vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ
biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này.
- Vậy theo
ông, chúng ta cần có thái độ gì ?
- Đối với
người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó
là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của
chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống
và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế
giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các
chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng
phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp
sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu
vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha
thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một
đời sống ở cõi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho
gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ
bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược
lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham
thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu thì 50
tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại
khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết
sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng .
Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt.
Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều
tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên
họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp
người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các
cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối
với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật
hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào
giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác
là không có…
- Nhưng nếu
ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo
lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi
khác có tốt hơn không ?
Hamud mỉm
cười :
- Tuy cõi
trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm
hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần
có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên,
bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công
việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con
người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học
này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.
- Ông muốn
nói sự nhạy cảm như thế nào ?
- Sự mở mang
trí tuệ giống như một máy thu thanh, và các rung động ví như các tầng
sóng. Một người không hiểu biết, ví như máy thu thanh không bắt trúng đài,
không thay đổi băng tầng. Họ sinh ra sao thì chết cũng vậy, chả học được
điều gì, vì như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè. Một người hiểu biết
là người biết thay đổi con người của mình để bắt trúng những tầng sóng. Dĩ
nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và con người sẽ bị tràn ngập
bởi các làn sóng này cho đến khi họ điều hoà, phân biệt điều hay, lẻ dở,
để chọn những bằng tầng thích hợp hơn. Khi đó, họ bắt trúng những đài phát
thanh, nghe được điệu nhạc họ muốn. Huyền âm của thượng đế lúc nào cũng
vang lừng trong vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để
nghe, biết thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao, tế nhị đó.
Mọi người gật
đầu thán phục vị pháp sư Ai cập đã dùng những thí dụ cụ thể để giải thích
một điều phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc :
- Ngoài việc
khai mở giác quan để nghiên cứu cõi âm, ông còn làm gì nữa ?
- Việc nghiên
cứu sẽ không có ý nghĩa gì, nếu ta chỉ quan sát như một khách bàng quang,
đứng ngoài nhìn ngắm. Con người cần học hỏi những điều gì xảy ra khi họ từ
trần, để thay đổi thích hợp với cuộc sống mới, không những cho họ mà còn
cho những người thân. Càng hiểu biết bên kia cửa tử, họ càng dễ dàng hướng
dẫn các vong linh khác.
- Nói một
cách khác, ông hay giúp đỡ những vong linh vừa từ trần ?
- Chính thế,
đó là công việc của tôi. Phần lớn người chết thường xúc động và không chấp
nhận rằng họ đã chết, họ muốn bám víu lấy cõi trần, và trở nên các loài ma
vất vưởng. Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho họ rằng ở cõi
âm nếu muốn siêu thoát cần thay đổi trọn vẹn lối sống. Việc này dĩ nhiên
rất khó vì các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều người luyến tiếc
cõi trần , vì họ có những việc chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được
an để siêu thoát. Vì thế sự hiện diện của một người còn sống như tôi rất
hữu ích, tôi có thể giúp họ hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát…
- Công việc
này có kết quả gì không ?
- Đây là một
việc hết sức khó khăn, nên tôi phải kết thân với một số bạn bè bên cõi âm.
Nếu vong linh u mê nhất định không nghe, thì tôi phải nhờ những bạn bè,
người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ. Thí dụ như một vong linh bị chết
trong một trận hoa? hoạn tại Luân đôn. Y bị kẹt trong toà nhà ba tầng,
không sao thoát được, nên chết ngộp bởi khói. Y không tin mình đã chết,
nên thần thức vẫn vùng vẫy, tìm chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y quá
lo sợ chết cháy, nên không chịu tin lời tôi. Sau tôi phải nhờ mẹ y đã từ
trần từ nhiều năm trước đến khuyên bảo thì y mới chấp nhận và siêu thoát.
- Ông muốn
nói rằng thân quyến có thể làm việc đó, dù họ chết đã lâu ?
- Dĩ nhiên,
sự liên hệ giữa con người với nhau đâu phải tình cờ mà do nhiều duyên
nghiệp từ trước. Nếu sợi dây thân ái vẫn còn, thì dù qua đời họ vẫn để ý
lưu tâm đến những người họ yêu mến. Dù đã siêu thoát lên cảnh giới riêng,
nhưng họ vẫn sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu của họ.
- Như vậy sau
khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích hay sao ?
- Dĩ nhiên,
như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao thì chết vẫn vậy, đâu có đổi
thay gì. Nếu tình cảm vẫn còn thì họ vẫn tìm đến gặp nhau. Thật ra nếu ta
xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới mới, quang đãng, sáng sủa hơn
thì chúng ta sẽ không có cảm tưởng xa người quá cố. Sự thật là không có
điều gì chia cách linh hồn cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động chân
thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu phải chỉ xác thân. Xác
tuy hư hoại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn
cảm nhận được tình thương của tạ Họ còn biết các đau buồn, cảm giác của
ta, vì họ đọc được tư tưởng. Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dõi thì khi ta chết
đi, họ sẽ đón tiếp để trấn an tạ Đây là một vấn đề cần được lãnh hội cẩn
thận, vì khi hiểu biết ta sẽ không còn sợ hãi, ta chấp nhận sự chết như
một việc hiển nhiên. Bên kia cửa tử cũng như cõi trần, luật thiên nhiên
luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng.
- Làm sao
chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta sẽ gặp người thân ?
- Như tôi đã
trình bày, có bảy cảnh ở cõi trung giới và sự thức tỉnh ở cảnh nào hoàn
toàn tùy theo tâm thức con người rung động cùng với nhịp rung của cảnh đó.
Con người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh đó hoặc cảnh thấp hơn
mà thôi. Đa số những người qua đời đã lâu, thể vía đã được thanh lọc nên
thường sống ở cảnh giới cao hơn, do đó họ có thể tiếp xúc với những người
ở cảnh giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ thức tỉnh ở cảnh thứ
bảy hay thứ sáu chỉ muốn tìm về cõi trần mà thôi, ít khi ý thức cảnh giới
khác. Có nhiều vong linh sau khi đã lên đến cảnh giới cao lại tìm về những
cảnh thấp hơn, không phải họ ham mê gì cõi này, nhưng vì lòng thương
người, họ muốn giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ, những kẻ lạc lõng, bơ vơ
không ý thức.
Hamud im lặng
một lúc rồi thong thả :
- Cứu trợ,
giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết sức cần thiết vì
người chết thì nhiều, mà người hiểu biết lại chẳng có bao nhiêu….
- Nhưng đâu
phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang năng đặc biệt như ông,
hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ…
Hamud lắc đầu
:
- Không phải
khi từ trần mới làm được việc này. Khi còn sống ta vẫn có thể làm được mà
cũng không cần khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai biết suy nghĩ đều có
thể làm được. Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể vía của ta được tự do có
thể hoạt động bên cõi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một
sự giúp đỡ, an ủi nhắm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người không
phân biệt thì điều này sẽ được thực hiện.
- Chỉ thế
thôi ư ? Như vậy thì ai làm chẳng được ?
- Dĩ nhiên,
điều này không nguy hiểm gì hết vì tư tưởng có một sức mạnh thần giao đặc
biệt và có một mãnh lực phi thường ở cõi âm. Nếu ta tập làm những việc này
khi còn sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cõi bên kia vì ta đã
quen thuộc với nó rồi. Ta còn gặp những người nhờ tư tưởng của ta mà được
giúp đỡ, dĩ nhiên là họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục làm
những công việc này…
- Làm sao có
thể dễ dàng như thế được ?
Hamud mỉm
cười :
- Nghe thì dễ
thật nhưng nó đòi hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất việc làm của ta phải bất
vụ lợi, vị tha, vô tư vì cõi âm là cõi tư tưởng . Nếu ta có ý định mưu đồ
việc gì, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết thế nào mà
lường được. Thứ hai, đa số vong linh đều u mê, ngoan cố, rất khó thuyết
phục, vì các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cõi trần vì con cháu khóc
than, thương tiếc quá làm họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công
việc này đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối
rối, xúc động. Nhưng khi ta đã phát tâm thì tư tưởng này sẽ là một khí cụ
rất tốt giúp đỡ ta rất nhiều. Theo ý kiến của tôi, thì việc có một kiến
thức rộng rãi về cõi âm là căn bản đầu tiên.
Giáo sư Allen
lắc đầu :
- Nếu nói
rằng khi ngủ, ta qua cõi âm. Tại sao tôi không ý thức một tí gì cả ? Phải
có một bằng chứng nào rõ rệt mới tin như vậy được.
- Các ông
hiểu thế nào về sự cấu tạo của con người. Trong lúc tỉnh, thể vía là cây
cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên ngoài do hệ thần
kinh giao cảm, được thể vía chuyển vào tâm thức, sau đó mới ghi nhận ở
khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải không ?
Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác. Nó cần phục hồi sức khoẻ
nên nằm yên, nhưng thể vía lại khác. Nó vẫn hoạt động vì bằng chứng là đôi
khi ngủ say nhưng ta vẫn ý thức mọi việc xảy ra chung quanh, có đúng thế
không ? Thể vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, vì
tính chất này nó rất mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục
vọng. Các tính xấu như giận hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư
tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo thành một lớp vỏ bao trùm lên thể vía,
và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính tình con người chỉ là một thói quen của
tư tưởng. Như tôi đã trình bày, tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều bị
thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng
chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp với những nơi ồn
ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ,
êm đềm. Có người tự hỏi, tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ, không thể
tu tập các pháp môn thiền quán ? Ấy vì thể vía họ lao chao, giao động. Họ
cần biết cách chủ trị tình cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc
như thịt cá, rượu, các chất kích thích cũng đem vào thể vía những phần
nặng trọc. Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này, vì nó rất có hại
cho việc tham thiền, quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua
bảy trung tâm giao điểm sinh lực gọi là Luân xạ Tại đây, có một tấm màn
cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần để ngăn chận ảnh hưởng cõi âm. Vì thế, ký
ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển sang khối óc vật chất. Tuy nhiên, đôi
khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái gì mà không sao nhớ được. Đối
với một người bình thường thì luân xa không thức động nên tấm màn này khép
chặt nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá hoại tấm màn này
khiến nó bị rách và ảnh hưỏong cõi âm có thể chuyển qua cõi trần khiến y
bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị các
loài ma quỷ nhập vào sai khiến.
Giáo sư Allen
lên tiếng :
- Những điều
ông trình bày rất lạ lùng, nhưng cũng có lý. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết
của chúng tôi thì khoa học không thể chứng minh điều này. Liệu có cách nào
khiến chúng tôi cũng khai mở các quan năng để nghiên cứu cõi giới vô hình
như ông không ?
Hamud gật đầu
:
- Sự khai mở
quyền năng thuộc phạm vi tâm thức, trước khi mở tâm phải tinh luyện các
thể đã. Nếu chưa thanh lọc được các thể thì đừng nói đến khai mở bất cứ
một giác quan nào.
- Vậy ta phải
luyện các thể bằng cách nào ?
- Tinh luyện
thể trí bằng sự suy tư chân chính. Trí tưởng tượng con người là một công
cụ sáng tạo hữu hiệu. Khi ta suy tư, tưởng tượng, ta vô tình xây dựng thể
trí. Nếu ta chỉ suy tư những điều tốt lành, cao thượng thì ta đã luyện trí
rồi. Sau thể trí là thể vía, thể này chỉ luyện bằng cách ham muốn chân
chính. Hãy ham mê các điều cao thượng thì tự khắc thể vía sẽ phát triển.
- Ông nói
nghe thật dễ dàng. Tư tưởng cao thượng và ham muốn chân chính là những
điều trừu tượng, làm sao có thể làm được…
- Đa số mọi
người quan niệm như thế nên chả khi nào tiến bộ được. Con người muốn quyền
năng, giải thoát nhưng chỉ chờ đợi một phép lạ, một tha lực ngoại giới,
chứ không tự tin rằng mình có khả năng làm những việc đó.
- Dù tôi muốn
thanh lọc các thể thì cũng phải có một phương pháp, một sự hướng dẫn, một
kỹ thuật nào đó, chứ nói một cách trừu tượng thì ai nói chẳng được.
- Theo sự
hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng dạy những điều cao đẹp và áp dụng
những lời dạy này. Đây cũng là một phương pháp, kỹ thuật thanh lọc các
thể.
- Như vậy,
ông theo phương pháp nào ? Hãy nói về kinh nghiệm của ông đã…
Hamud trầm
ngâm rồi gật đầu :
- Được lắm,
tôi được truyền thụ phương pháp này tại một tu viện ở Tây Tạng, nên chịu
ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều. Thứ nhất là luyện thể xác, phải biết cách
kiểm soát, kiềm chế thể xác hoàn toàn, quy định mọi hoạt động như ăn,
uống, ngủ cho thật đúng. Thức ăn được phân làm ba loại : tỉnh, động và
điều hoà. Người tập phải tránh đồ ăn “tỉnh” vì nó làm thể xác hôn mê, lười
biếng, bất động. Các thức ăn có đặc tính “tỉnh” là các món đang lên men,
các thứ đồ khô, các loại rượu. Các món ăn có đặc tính “động”, như thịt,
cá, thường đem lại các kích thích hăng hái nhất thời, xác chết thú vật gồm
nhiều nguyên tử nặng nề bởi các thú tính thấp hèn không thích hợp cho việc
tu hàn, thanh lọc. Chỉ có các món ăn “điều hoà” là thứ có khả năng tăng
trưởng, chứa nhiều sụ sống như ngũ cốc, vì nó đâm mầm, nẩy lộc, các loại
trái cây vốn tràn đầy nhựa sống, các loại rau cỏ vốn hấp thụ khí thái
dương cần thiết cho một thể xác cường tráng, nhạy cảm. Sau việc ăn uống,
còn phải thở hít, hô hấp cho đúng cách. Khoa học chứng minh con người sống
được là nhờ hơi thở nhưng thật ra đó nhờ sinh khí (prana). Chính các sinh
khí này thấm nhuần khắp cơ thể, mang sự sống đến khắp tế bào. Prana xuất
phát từ ánh sáng mặt trời, nó rung động và pha trộn trong không khí. Bằng
cách hô hấp thật sâu, thong thả. Prana sẽ thấm vào thần kinh hệ và lưu
thông khắp châu thân, mang sự sống khắp xác thể. Chính các Prana tích tụ
trong hệ thần kinh tạo ra luồng “nhân điện”, một yếu tố quan trọng của sự
sống.
Tóm lại, dinh
dưỡng đúng cách bằng các món ăn có đặc tính “điều hoà”, tập thở hít đúng
cách là phương pháp tinh luyện thể xác vô cùng quan trọng. Như các ông
thấy, phương pháp này không có gì trái với khoa học hiện tại. Cách thực
hành có thể khác nhau tùy cá nhân, người gọi là thể dục, kẻ gọi là thiền
định, điều này không quan trọng vì căn bản chính chỉ nhằm đem lại một thể
xác lành mạnh, cường tráng. Người luyện thể xác cần sống nơi thoáng khí,
nhiều ánh sáng mặt trời để đón nhận các sinh lực prana, nhằm bổ túc luồng
nhân điện. Các món ăn như thịt cá mang lại các rung động thô bạo, khiến
luồng nhân điện này chạy loạn lên khó kiểm soát, gây nên các bệnh tật hoặc
phá hoại hệ thần kinh. Các món ăn “tỉnh” như rượu làm tê liệt bộ thần kinh
khiến luồng nhân điện bị ngắt quãng không đều, ngăn trở các sinh khí prana
lưu thông mang sinh lực nuôi thể xác, gây nên nhiều hậu quả không tốt.
Sau khi thanh
lọc thể xác, ta bắt đầu luyện đến thể vía. Thể vía là trung tâm của tình
cảm, một khi tình cảm trong sạch, vị tha, bác ái, đương nhiên các chất
thanh nhẹ sẽ được hấp thụ vào và các chất nặng trọc, xấu xa sẽ bị đào thải
ra ngoài, theo một nguyên lý giống như sự thấm lọc (osmose). Khi thể vía
thanh cao, nó sẽ rung động với các tư tưởng cao thượng mang tâm thức lên
một bình diện cao hơn. Khi sự rung động đến một chu kỳ nào đó, các giác
quan thể vía bắt đầu khai mở tự nhiên, con người sẽ bắt đầu có quyền năng
đặc biệt. Nói một cách khoa học hơn, các giác quan thể vía chỉ hoạt động ở
một chu kỳ và chỉ khi nào thể vía rung động đúng chu kỳ này nó mới được
đánh thức để hoạt động. Thể vía chỉ có thể rung động ở chu kỳ này vì nó
được cấu tạo bằng những nguyên tử thật thanh, nhẹ, khi những nguyên tử
nặng trọc bị khu trục hết. Điều này chỉ xảy ra khi con người chỉ có các
tình cảm cao thượng, lòng bác ái tốt lành bao trùm mọi vật. Đó là bí quyết
cách luyện thể vía.
Khi bảy giác
quan của thể vía hoạt động, nó sẽ khai mở một số bí huyệt để luồng hoa?
hầu Kundalini thức giấc. Khi luồng hoa? hầu này chạy dọc theo xương sống
lên đỉnh đầu, nó sẽ thúc đẩy, khai mở thể trí khiến nó khai triển để hợp
nhất với chân thần. Khi thể trí khai triển, mở lớn ra nó sẽ khởi sự tiêu
diệt cái phàm ngã ích kỷ của con người để hướng đến các điều thánh thiện.
Đây là một giai đoạn vô cùng khó khăn, rất ít ai vượt qua nổi. Danh từ
Phật giáo gọi là Phật tánh biểu lộ, danh từ Thiên chúa giáo gọi là quên
mình để hoà nhập với đấng cứu thế, danh từ Ấn giáo gọi là sự hợp nhất với
Chân Ngã. Nói một cách giản dị thì đây là lúc trí tuệ quy kết các tư tưởng
và hoạt động về tình huynh đệ, bác ái nhu thuận, từ bi, trí tuệ, vị tha,
hỷ xả để kết tinh thành chân ngã. Khi phàm ngã hoàn toàn bị huỷ diệt, các
thể cũng hoàn toàn được thanh lọc thì không còn sự phân biệt giữa ta và
tha nhân, giữa chủ thể và đối tượng mà tất cả đều là một. Thể trí không
còn tính cách cá nhân mà đã thành “đại trí”, hay trí tuệ “bát nhã”. Tâm
thức cũng không còn là tâm cá nhân mà thành tâm thức “bồ đề”, hoà hợp hoàn
toàn với tâm thức vũ trụ. Cả tâm lẫn trí mở rộng đón nhận ánh sáng chân lý
mà không còn phải học hỏi, lý luận gì nữa. Đây chính là giai đoạn giác ngộ
của người tụ Họ trở nên một đấng siêu nhân, một vị Tổ, một vị Thánh…
Giáo sư
Evan-Wentz thắc mắc :
- Căn cứ vào
đâu ta biết được như vậy ? Phải có bằng chứng gì chứ ?
Hamud lắc đầu
:
- Các kinh
nghiệm quý báu, thiêng liêng đó chỉ có các bậc giác ngộ rồi mới hiểu được.
Không một vị thánh nào vỗ ngực tự xưng đã đạt quả vị này hay quyền năng
nọ. Khi đã giác ngộ thì chức tước, danh vọng, địa vị đâu có nghĩa lý gì
nữa, vì họ đâu còn bản ngã thấp hèn như chúng ta để phân biệt. Chỉ có các
“bậc lừa bịp”, các tu sĩ giả mạo mới thích danh vọng, chức tước , vì bản
ngã họ còn to lớn và cần các danh xưng, địa vị để lừa bịp tín đồ nhẹ dạ.
- Trên nguyên
tắc thì như vậy, nhưng còn phương pháp, kỹ thuật thì sao ?
- Phương
pháp, kỹ thuật thì rất nhiều, con đường đến chân lý cũng thế, tùy theo
nhân duyên, căn cơ cá nhân không thể áp dụng một kỹ thuật nào cứng nhắc
được. Phương pháp, kỹ thuật có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc chỉ có một.
Sự thật là chân lý luôn luôn được truyền dạy dưới hình thức này hay hình
thức khác., tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện. Phương pháp tuy
khác nhưng chân lý vẫn là một giống như nước suối hay nước sông vẫn là
nước mà thôi. (Tùy duyên bất biến). Chân lý có thể được truyền dạy bởi
những thầy phù thuỷ trong các bộ lạc man dã hoặc các bậc giáo chủ trong
kinh điển tôn giáo. Kinh điển hay tôn giáo có thể khác nhau về hình thức
nhưng vẫn có điểm tương đồng mà ta phải chấp nhận.
- Chấp nhận
phải chăng là một hình thức của tin tưởng ?
- Con đường
đạo đòi hỏi một đức tin, nhưng không phải nhắm mắt tin tưởng bừa bãi. Đức
tin chỉ đến sau khi người tìm đạo tự mình nhận thức rõ ràng, sau khi hiểu
biết chứng nghiệm nó một cách rốt ráo. Các ông là những khoa học gia,
không đời nào các ông tin tưởng một sự kiện gì nếu không kiểm chứng rõ
ràng. Sự nghi ngờ là một điều cần thiết, nhưng nếu có những sự kiện mà
khoa học không thể chứng minh hay chưa thể chứng minh được, các ông sẽ
phải làm gì ? Phủ nhận chăng ? Nếu phủ nhận, các ông đã bỏ qua một cơ hội
tìm hiểu nghiên cứu. Nếu chấp nhận mà không kiểm chứng thì các ông đã mù
quáng tin tưởng bừa bãi. Tôi không mong các ông phải tin tưởng những điều
tôi trình bày, nhưng mong các ông hãy suy gẫm, nghiên cứu nó. Nếu chưa thể
sử dụng các dụng cụ khoa học thực nghiệm để chứng minh thì hãy sử dụng lý
trí, trực giác, vì sự nghiên cứu cõi âm là một khoa học, chứ không phải
một sự tin tưởng bừa bãi. Kiến thức về cõi giới này sẽ giúp đỡ nhiều
người, tôi tin rằng trong một ngày không xa sẽ có nhiều cuộc nghiên cứu về
đối tượng này.
- Tại sao ông
không công bố những khám phá của mình cho mọi người ? Tại sao ông lại ẩn
thân một nơi hoang vu như thế này ? Nếu ông muốn, kiến thức của cõi giới
này được nghiên cứu rộng rãi thì ông phải là người khởi xướng nó lên để
mọi người được biết , và biết đâu sau đó lại chẳng có những cuộc nghiên
cứu ?
Hamud mỉm
cười :
- Khi trình
độ con người chưa đến lúc, thì có những điều chưa thể công bố được. Các
bậc giáo chủ ngày trước đã giảng dạy chân lý làm thành hai phần, Công
truyền và Bí truyền . Tại sao các ngài lại dạy riêng cho một thiểu số môn
đồ giáo lý Bí truyền ? Phải chăng các ngài biết chỉ một thiểu số người mới
có thể lãnh hội được những điều ngài giảng dạy. Khoa học nghiên cứu về cõi
âm cũng có những sự nguy hiểm riêng của nó, không thể truyền dạy bừa bãi
cho tất cả mọi người.
- Xin ông
giải thích rõ hơn về việc này, tại sao lại nguy hiểm ?
- Tôi vừa
trình bày cho các ông một phương pháp tinh luyện các thể như tôi đã được
truyền dạy. Dĩ nhiên, còn có nhiều phương pháp khác cũng mang lại các kết
quả tương tự nhưng cứu cánh lại khác hẳn. Có hàng trăm phương pháp phát
triển năng khiếu thần thông, nhưng người tu phải hiểu rằng quyền năng chỉ
là những phương tiện thấp thỏi, giúp ta mở rộng kiến thức. Quyền năng
không bao giờ là một cứu cánh, một mục đích. Sự tham luyến, vọng tưởng sẽ
đưa người có quyền năng vào ma đạo. Người tu hành cần ý thức rõ rệt rằng
chỉ khi nào phàm ngã hoàn toàn bị tiêu diệt thì con người mới thoát khỏi
ảo ảnh của màn vô minh và thực sự chứng nghiệm chân lý. Quyền năng càng
cao ta càng phải lập hạnh, nghiêm khắc giữ gìn đề cao cảnh giác các ảo ảnh
của vô minh….
- Ông nói đến
vô minh như một cái gì trừu tượng, liệu ông có thể lấy một thí dụ dễ hiểu
hơn không vì danh từ này còn xa lạ với chúng tôi ?
- Hãy lấy thí
dụ một người tu hành công phu khổ luyện đã bắt đầu khai mở vài quyền năng
thô thiển như Thần Nhãn chẳng hạn. Vì số người có quyền năng này ở cõi
trần rất ít, người đó tưỏong mình tiến bộ vượt bực, đã trở nên một đấng
này, đấng nọ. Lòng kiêu căng phát triển xúi dục họ nghĩ rằng mình đã đắc
quả vị lớn lao, đã được giao phó các sứ mạng cao cả. Họ tự phong cho mình
những chức tước, danh vọng hoặc đôi khi tín đồ xưng tụng cho họ là đấng
này, đấng nọ, thì họ cũng chấp nhận tuốt. Họ nghĩ mình đã sáng suốt, cao
cả thì còn lầm lạc thế nào được nữa… Họ đâu hiểu rằng trong cõi âm có rất
nhiều vong linh bất hảo hay tìm cách hướng dẫn sai lạc những người non nớt
vừa bắt đầu khai mở quyền năng. Dĩ nhiên với trí tuệ nông cạn, họ không có
một tiêu chuẩn nào để xét đoán, hiểu biết những hiện tượng, những điều họ
nhìn thấy và trắc nghiệm xem điều đó có hợp với chân lý hay không ? Bởi
thế họ dễ bị lung lạc để trở nên một tay sai đắc lực của các vong linh, ma
quỷ, các sinh vật vô hình. Như các ông đã thấy những pháp sư, thầy phù
thuỷ, các tu sĩ thiếu sáng suốt, thiếu công phu tu hành, thiếu trì giới,
đều rơi vào cạm bẫy của vô minh cả. Họ có một vài quyền năng thật nhưng
không sử dụng nó vào mục đích giúp dời mà sử dụng vào các việc ích kỷ hại
nhân…
- Nhưng làm
sao tránh được các điều này ? Làm sao một người mới bắt đầu có quyền năng
biết được những điều mình nhìn thấy không phải là ảo ảnh của vô minh,
những điều mình chứng nghiệm không phải sự truyền dạy vu vơ của loài sinh
vật vô hình ?
Hamud nghiêm
trang tuyên bố :
- Người nào
sống một đời tinh khiết về tư tưởng và hành động, không bị Ô nhiễm bởi ích
kỷ thì sẽ được che chở. Với các rung động thanh cao, các ảnh hưởng xấu
không thể xâm nhập, các vong linh bất hảo thấy người đó không có gì để
chúng lợi dụng được. Trái lại, một người còn nhiều tham vọng, thiếu công
phu trì giới thì chính sự rung động bất thiện phát xuất từ nội tâm người
đó, sẽ hấp dẫn các vong linh, ma quái đến quanh. Trong họ còn đầy đủ các
khí cụ như Tham, Sân, Si, ích kỷ, mê muội thì quá dễ dàng để các vong linh
lợi dụng. Một tu sĩ bất cứ tôn giáo nào cũng đều phải giữ giới, tuân các
điều răn vì các bậc giáo chủ sáng lập tôn giáo đã đi qua con đưòong đó, đã
biết các hiểm nguy và đặt ra cấm điều để cho người theo sau biết đường mà
tránh.
- Nhưng các
lối tu luyện thần thông vào mục đích nhất định như chữa bệnh thì sao ?
- Điều này
tùy tâm thức người luyện, nhưng theo sự hiểu biết của tôi thì bất cứ lối
tập luyện nào thiếu sự đứng đắn đều đưa vào con đường nguy hiểm. Các ông
nên biết một khi có quyền năng, dù là một quyền năng hạ cấp rất thô thiển,
kẻ sự dụng nó đều có thể làm nhiều việc mà người bình thường cho là “phi
thường”, vì đa số nhân loại chưa có khả năng đó. Điều này khiến kẻ luyện
dễ trở nên kiêu căng và nếu không có tâm trong sạch, y có thể sử dụng
quyền năng này vào các điều tà vạy.
Giáo sư Allen
lắc đầu :
- Ông nói
điều xấu, điều tốt như có một tiêu chuẩn rõ ràng vậy. Tại sao ông không
nghĩ xấu hay tốt chỉ là những điều tương đối. Một điều người Âu cho là vô
lý có thể người Á châu lại chấp nhận như một sự kiện hữu lý.
Hamud gật đầu
:
- Đúng thế,
quan niệm xấu tốt, thiện ác ít nhiều chịu ảnh hưởng xã hội, nhưng vượt lên
cao hơn nữa, chúng ta vẫn có luật vũ trụ kia mà. Theo sự hiểu biết của
tôi, thì có hai con đường: Chánh đạo và Tà đạo. Con người làm chuyện tà
đạo là khi y dùng quyền năng tiềm tàng của mình để mưu lợi riêng cho sự
phát triển cá nhân, và sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của kẻ khác. Phát triển
cá nhân ở đây có nghĩa là sự bành trướng về giác quan, cảm xúc hay tri
thức của cá nhân, mà không kể gì đến sự thiệt hại cho kẻ khác. Một người
lợi dụng sự ngu dốt, yếu đuối của kẻ khác để thu lấy ít lợi lộc về tiền
bạc hay thoa? mãn tham vọng cá nhân tức là đang đi trên con đường tà đạo.
Nếu y có chút quyền năng, y sẽ trở nên ghê gớm như thế nào ? Chánh đạo
cũng là việc sử dụng những quyền năng của mình, nhưng để phụng sự nhân
loại. Trong khi phụng sự, con người sẵn sàng hy sinh mọi tiện nghi, tham
vọng cá nhân mình để làm việc hữu ích cho kẻ khác. Kẻ phụng sự dứt tuyệt
các thú vui về giác quan, từ bỏ mọi tôn kính chính đáng mà y có quyền
hưởng thụ, dẹp bỏ cái phàm ngã cá nhân, chỉ nên chú trọng đến mục đích đạt
đến sự toàn thiện. Tà đạo sử dụng quyền năng qua các hình thức lễ nghi,
cúng bái trợ lực để tạo nên các đoàn thể hình thức. Các hình thức này có
thể là vật chất hay một tổ chức mà công cụ của nó không phải lo cho đời
sống hay một lý tưởng cao thượng mà chỉ là một hình thức phát biểu cho
quan niệm riêng của mình. Chánh đạo là sử dụng các quyền năng cố hữu của
bản chất con người để vượt qua mọi hạn định của hình thức. Để giải thoát
tâm hồn khỏi các trói buộc của cảm giác, của sự tưởng tượng hay xu hướng
nhất thời. Để tránh các cám dỗ, lừa gạt của vô minh, để phục vụ cái phần
tử thiêng liêng của bản thể vũ trụ. Một người nghiên cứu huyền môn có thể
đi trên đường chánh cũng như tà. Họ có thể tìm cách phát triển cá nhân qua
sự tự chủ gắt gao để khai mở các quyền năng, thu thập kiến thức. Họ cũng
có thể ao ước cõi thiên đàng mở rộng trong lòng mọi người, và chính trong
họ, qua các hành động bác ái, vị thạ Trong hai trường hợp, hạng đầu cầu
mong kiến thức, quyền năng; hạng sau muốn trở nên người hữu dụng. Càng đi
xa thì sự tiến bộ càng khác biệt. Người sử dụng kiến thức, quyền năng để
phụng sự, sẽ trở nên một bậc “Bồ Tát” (Bodhisattva), và chỉ có trái tim Bồ
Tát mới là ánh sáng soi đưòng, chỉ lối giúp họ đi trọn vẹn con đường đạo.
Người cầu trí thức cho mình chỉ quanh quẩn trong phạm trù cá nhân một lúc,
thiếu từ bi, trí tuệ, y rất dễ bị sa ngã vào ma đạo lúc nào không haỵ
Không có trí tuệ bát nhã soi đường, y dễ trở thành nạn nhân của vô minh.
Điều này cũng như một người đi biển mà không có bản đồ, la bàn định hướng,
mà đi bừa bãi thì làm sao đến nơi được. Đường đạo cũng thế, một tu sĩ phải
trì giới nghiêm minh để tu thân, nhưng vẫn chưa đủ, mà còn phải lập những
hạnh nguyện, xác định mục đích rõ ràng để hành động. Có tu thì phải có
hành, phải biết đem kiến thức của mình ra để giúp ích cho những người
khác. Trí tuệ phải đi đôi với Từ Bị Có “Trí” mà thiếu “Tâm” chỉ là mớ kiến
thức vô dụng, một cái xác không hồn. Có “Tâm” mà thiếu “Trí” cũng không
được vì sẽ dễ sa ngã, đi lầm vào tà đạo. Đó là điều đã xảy ra trong quá
khứ, các tu sĩ thiếu kiến thức, trí tuệ, đã bị vô minh che phủ. Họ coi
thượng đế như một đấng thần linh để thờ phụng, tách ngài ra khỏi tín đồ và
dạy bảo rằng thượng đế cao siêu quá, không thể nói chuyện với những người
tầm thường được, mà phải qua trung gian của giới tăng lữ. Họ đặt đủ các
ngôn từ hoa mỹ, thêu gấm dệt hoa vào giáo điều để tín đồ quay cuồng trong
ngôn ngữ, mà xa lánh chân lý thực tế. Dần dần các chân lý cao đẹp bị bao
phủ bằng các hình thức mê tín dị đoan, các điều xằng bậy, và đưa đến chỗ
suy tàn…. Đó là điều đã xảy ra cho tôn giáo Ai Cập.
Giáo sư
Evan-Wentz ngắt lời :
- Xin ông nói
rõ hơn về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Lịch sử vẫn chưa hiểu tại
sao nền văn minh này lại suy tàn nhanh chóng như vậy ?
Hamud ngồi im
lặng như hồi tưởng một ký ức xa xôi nào đó, một lúc sao y gật đầu :
- Có nhiều
giả thuyết về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Đa số đỗ lỗi cho chiến
tranh, bệnh dịch, thiên tai, nhưng ít ai biết rõ nguyên nhân sâu xạ Tôi
không có ý muốn tiết lộ những điều này, vì mục đích buổi tiếp xúc hôm nay
là nói chuyện, tham khảo về cõi giới vô hình. Tuy nhiên, tôi sẵn sàng tiết
lộ những điều thầm kín như một nhân duyên đặc biệt với các ông. Điều này
không phải tự ý tôi, nhưng do một thông điệp tư tưởng của một vị chân sư
chuyển giao. Tôi muốn tiết lộ những điều này như một cảnh cáo đối với thế
giới ngày nay, để họ không đi vào vết xe của quá khứ…
Một lần nữa,
sự hiện diện của một vị chân sư bí mật lại được nhắc đến khiến mọi người
vô cùng cảm kích. Vị pháp sư Ai cập ngửa mặt nhìn lên trời như ôn lại dĩ
vãng :
- Trong thời
buổi vàng son, nền văn minh Ai cập đã đến lúc cực thịnh. Các đạo viện với
những minh sư truyền dạy khoa học huyền môn, đưa dân trí đến một mức tiến
bộ vượt xa thời buổi hiện naỵ Tuy nhiên, theo thời gian, nhiều tu sĩ đã
không giữ gìn giới luật khắt khe, hoặc không thấu hiểu các giáo điều cao
siêu. Họ bèn tìm một lối đi ngắn hơn và dễ hơn, chú trọng về phương pháp
kỹ thuật để đạt đến quyền năng. Thần thông trở nên mục đích chứ không phải
phương tiện nữa. Để đạt mục đích, họ không ngần ngại hy sinh quyền lợi tôn
giáo, quốc gia… Thiếu sáng suốt nên họ đi vào ma đạo, và chịu sự sai khiến
của các động lực bất hảo. Các tăng lữ này lập thành phe nhóm, liên kết lẫn
nhau, để tạo một ảnh hưởng cực mạnh, đến nỗi các vua Pharaoh hách dịch
cũng phải kiêng dè. Họ lạm dụng danh từ tôn giáo, thần linh, truyền bá các
tà thuật, phù phép, thần chú hắc ám để lôi cuốn tín đồ. Dĩ nhiên với các
tà thuật, họ có thể làm mọi thứ mà một người bình thường vô phương chống
lại. Chỉ một thời gian ngắn, dân chúng đều trở thành nạn nhân của một thứ
tà giáo. Các vị pháp sư trở nên sứ giả của cõi âm, một thứ quỷ sống đội
lốt người. Họ còn kêu gọi những âm binh hung ác nhất đến giúp họ đạt các
mục đích ám muội. Trong đền thờ, khoa phù thuỷ thay thế sinh hoạt tâm linh
và các tu sĩ chân chính bị loại trừ, đào thải nhanh chóng. Cũng vì thế,
khoa huyền môn chân chính trở nên thất truyền vì không người tu học,
nghiên cứu. Các tu sĩ chân chính phải trốn tránh, từ bỏ các giáo đường uy
nghiêm. Nền văn minh đặt căn bản trên kiến thức huyền môn cũng tàn lụi,
khi cánh cửa huyền môn chân chính khép chặt. Các ông nên biết, trong thời
cổ, hầu hết các khoa học gia, y sĩ, các nhà toán học kiến trúc đều xuất
thân từ giới tu sĩ hoặc học hỏi trong các tu viện; vì thời đó, không có
trường học hay nền giáo dục như bây giờ. Khi bùa chú, phép thuật mê hoặc
nhân tâm, thúc đẩy con người từ bỏ thượng đế để tôn thờ các loài ma quái
thì các thứ như chiêm tinh, toán học, kiến trúc, không còn lý do để tồn
tại. Thời gian trôi qua, nền văn minh Ai cập huy hoàng đã xuống dốc cực kỳ
thảm hại. Chính các tu sĩ lầm lạc, ích kỷ đầy tham vọng là nguyên nhân gây
nên hoàn cảnh trên. Họ lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, một thứ tôn giáo ma
quái để đưa Ai cập vào con đường thoái hoá. Thay vì lo giải thoát cho
chính mình khỏi mê lầm, thì họ lại hướng dẫn quần chúng vào ma đạo. Thay
vì tuân theo các giới luật thì họ lại phá giới, nguỵ biện bằng các danh từ
hoa mỹ, tốt đẹp. Thay vì kiểm thảo nội tâm, họ lập phe nhóm bênh vực lẫn
nhau để che dấu các hành vi tà muội. Khoa nghi thức hành lễ mất hết các
tính cách thiêng liêng, mà chỉ còn hình thức bề ngoài, kêu gọi một năng
lực ngoại giới đến trợ giúp quyền uy giáo sĩ. Sự hiến dâng biến thành hối
lộ, tu sĩ lựa chọn các thứ mình thích nhất như món ăn, thiếu nữ xinh đẹp
để tế thần. Sau đó đem chia chác cho nhau cùng hưởng thụ; thượng đế nhân
từ bác ái bỗng biến thành một thần linh toàn lực, toàn uy, trọn quyển
thưởng phạt mà giới giáo sĩ là trung gian. Để lung lạc nhân tâm, khoa bùa
chú, thôi miên được sử dụng tối đa như một phương tiện cần thiết để thoa?
mãn tham vọng cá nhân. Để tránh các tinh túy huyền môn không lọt vào tay
giới bàng môn tà đạo, các tu sĩ chân chánh đã sử dụng khoa Ám Tự (chữ
tượng hình cổ Ai cập). Đây là một văn tự huyền bí ẩn dấu nhiều ý nghĩa tâm
linh mà chỉ các tu sĩ chân chính sau khi vượt qua thử thách mới được tiết
lộ. Sự sử dụng ý nghĩa biểu tượng hoặc tỷ dụ được dùng tối đa, chính Moses
về sau đã sử dụng ngôn ngữ này trong các cuốn sách của Do thái . Sự bành
trướng của nhóm tà đạo quá mạnh, các tu sĩ chân chính phải rút vào rừng
sâu núi thẳm và cuối cùng thì khoa huyền môn chân chính cũng thất truyền.
Một số giáo sĩ, khoa học gia, các nhà toán học, kiến trúc, trốn sang Hy
Lạp và truyền dạy các khoa này tại đây, mở đầu cho một nền văn minh mới.
Trong khi đó, để lôi cuốn phe đảng, vấn đề truyền giáo được đặt ra và giới
tăng lữ buộc các vua Pharaoh phải gây chiến tranh để truyền bá tôn giáo.
Các cuộc “thánh chiến” này đã đem lại một giai cấp mới – Nô lệ.
Giáo sư
Mortimer ngạc nhiên :
- Như thế lúc
trưóoc không có nô lệ hay sao ?
Hamud lắc đầu
:
- Nền văn
minh cổ đặt căn bản trên sự bác ái hoàn hảo của từng cá nhân, làm gì có
vấn đề nô lệ. Hiện tượng nô lệ chỉ bắt đầu khi văn hoá suy đồi, giới tu sĩ
lộng hành và sau các cuộc chiến tranh. Lúc đầu họ là tù binh chiến tranh,
về sau họ trở thành nô lệ. Sau đó các giáo sĩ đặt ra luật những ai không
cùng tôn giáo đều bị coi là nô lệ. Dân Do thái vì khác tôn giáo nên trở
thành nạn nhân đầu tiên. Tình trạng nô lệ thay đổi xã hội rất nhiều, các
giáo sĩ không cần sử dụng bùa chú, thôi miên để thoa? mãn dục vọng, các nô
lệ đương nhiên phải làm tất cả những gì chủ nhân muốn. Theo thời gian,
pháp môn phù thuỷ, bùa chú cũng thất truyền vì giới tu sĩ không cần đến nó
nữa. Khi các phép thuật biến mất thì uy tín các giáo sĩ cũng giảm theo, và
các vua Pharaoh bắt đầu hạn chế quyền lực các giáo sĩ. Khi nền văn minh
xuống dốc, các chân lý tốt đẹp biến mất, đời sống hưởng thụ của tiện nghi
vật chất khiến các vua chúa trở nên ích kỷ, chỉ muốn kéo dài đời sống, nên
phong tục xây cất nhà mồ, ướp xác trở nên thịnh hành,vì nó hứa hẹn một đời
sống vĩnh cữu. Công cuộc xây cất những ngôi mộ vĩ đại đã làm khánh kiệt
tài sản quốc gia, đưa xã hội Ai cập vào một tình trạng suy thoái… Do đó,
Ai cập trở nên một miếng mồi ngon cho Ba Tư và Hy Lạp.. Lịch sử đã ghi
chép khá rõ ràng từ lúc này, tôi chắc các ông đã biết rõ….
Phái đoàn im
lặng nhìn nhau, sự suy yếu của Ai cập sau khi bị Ba Tư, Hy Lạp cai trị
không phải là một điều gì xa lạ, nhưng tại sao một nền văn minh như Ai cập
đã xây cất những Kim tự tháp hùng vĩ, đã sản xuất bao nhân tài, ảnh hưởng
sâu rộng đến toàn cõi Trung đông, lại suy sụp mau chóng vẫn còn là một câu
hỏi lịch sử. Lời giải thích của Hamud là một chìa khoá vô giá về lịch sử
này.
Nhà pháp sư
Ai cập mỉm cười nhìn tất cả mọi người :
- Lịch sử
nhân loại luôn luôn biến đổi theo chu kỳ, nhiều việc xảy ra trong quá khứ
sẽ tiếp diễn lại. Có sống trong thời buổi đen tối, hỗn loạn, đầy đau khổ
hoang mang, nhân loại mới ao ước cõi tâm linh cao thượng . Nhu cầu này sẽ
được đáp ứng, và một đấng thánh nhân sẽ chuyển kiếp xuống trần, mở rộng
cánh cửa tâm linh, hướng dẫn nhân loại dưới một hình thức, phương tiện
thích hợp với hoàn cảnh thời gian và không gian khi đó. Điều này đã xảy ra
nhiều lần tại các nơi khác nhau trên thế giới, từ Trung hoa qua Ấn độ, đến
Trung đông. Các bậc thánh nhân đều rao truyền những chân lý cao siêu, đẹp
đẽ, nhưng vì nhân loại cứ u mê, thiếu hiểu biết, nên chỉ ít lâu sau tất cả
lại quay cuồng vào vết xe cũ. Các chân lý cao đẹp bị xuyên tạc, sửa đổi,
giảng giải sai lạc bởi các giáo sĩ mê tín, thành kiến , đầy cuồng tín. Dù
sao đi nữa bánh xe tiến hoá vẫn quay đều và trong mọi hoàn cảnh, thời đại
nào cũng có các cá nhân cố gắng vượt mức để tự giải thoát ra khỏi ảo ảnh
của màn vô minh để nhận định chân lý…
Hamud im lặng
một lúc rồi thong thả :
- Tôi muốn
các ông ghi nhận một điều này, các ông có thể coi đó như một lời tiên đoán
hay cảnh cáo trước cũng được. Thời gian sắp đến sẽ là một giai đoạn cực kỳ
tiến bộ về tri thức, nhưng thoái bộ về tâm linh. Mọi sự hiểu biết chỉ nhắm
vào hiện tượng thay vì nguyên nhân bản chất. Do đó, nền khoa học tương lai
không thể chuyển biến được lòng người hoặc giúp cho con người có cái nhìn
sáng suốt, có được một tâm hồn bình an. Nền “khoa học hiện tượng” chỉ kích
thích giác quan, cảm xúc hướng ngoại sẽ khiến cho con người cực kỳ bất
mãn, lo âu và trở nên hoang mang phiêu bạt. Thêm vào đó, sự khai quật các
ngôi cổ mộ Ai cập sẽ tháo củi xổ lồng cho vô số âm binh, các động lực cực
kỳ hung dữ. Như tôi vừa kể với các ông, thời kỳ chót của nền văn minh Ai
cập, các giáo sĩ đã thực hành tà thuật tối đa, mà khoa ướp xác là một bí
thuật mang sự liên lạc của cõi vô hình vào cõi trần. Tất cả các ngôi mộ cổ
đều là nơi giam giữ các động lực vô hình để canh giữ, duy trì ảnh hưởng tà
môn. Khi được tháo củi xổ lồng, chúng sẽ mang nền tà giáo cổ Ai cập trở
lại thế kỷ này. Dĩ nhiên, dưới một hình thức nào nó hợp thời hơn. Một số
pháp sư vốn là sứ giả cõi âm sẽ đầu thai trở lại, hoặc nhập xác để tác
oai, tác quái, tái tạo một xã hội tối tăm, sa đoạ, đi ngược trào lưu tiến
hoá của thượng đế. Thế giới sẽ trở thành nạn nhân của thứ tôn giáo ma quái
này.. Chiến tranh, đau khổ, bất an cùng các kích thích của cảm giác mới lạ
do nền “khoa học hiện tượng” mang lại, sẽ thúc đẩy con người vào các cùng
cực của cuộc sống. Trong thời buổi này, khối óc ly trí không giúp được gì
mà chỉ có sự hiểu biết và ý thức bản chất thầm lặng của nội tâm mới đáp
ứng được. Đó là lối thoát duy nhất mà thôi.
Giáo sư Allen
ngắt lời :
- Nhưng đã có
bằng chứng gì về sự hiện diện của các động lực vô hình này. Làm sao có thể
cảnh cáo mọi người về sự trở lại của pháp sư thời cổ ? Người Âu Mỹ sẽ
chẳng bao giờ chấp nhận một điều hoang đường, vô lý nếu không có bằng
chứng rõ rệt.
Hamud mỉm
cười bí mật :
- Cõi âm là
đối tượng nghiên cứu của tôi, nên tôi có thể trình bày một vài dữ kiện để
các ông suy nghiệm, như một bằng chứng. Chuyện xảy ra đã bắt đầu xảy ra,
theo thời gian các ông sẽ thấy. Dù các pháp sư tà đạo thời cổ này có khéo
léo dẫn dụ con người bằng những danh từ hoa mỹ, những chủ thuyết đẹp đẽ
thế mấy đi nữa, thì họ vẫn chỉ có thể sống như một con người. Dù thế nào
họ cũng không thể bỏ qua các thói quen cũ của quá khứ, họ sẽ đội lốt tôn
giáo, họ sẽ kêu gọi sự hợp tác của thần quyền, họ sẽ đặt ra các giáo điều
mới, thay thế các chân lý cao đẹp để lôi kéo con người từ bỏ thượng đế. Họ
sẽ sử dụng danh từ, ngôn ngữ để đánh lạc hướng mọi người, tuy nhiên trước
sau gì họ cũng phải chết và trước khi chết, họ sẽ di chúc yêu cầu ướp xác
họ và xây dựng những nhà mồ vĩ đại bằng đá như họ đã từng làm trong quá
khứ…
Giáo sư Allen
bật cười :
- Như vậy thì
nhận diện họ quá dễ, nhưng tôi không tin thời buổi này còn ai ướp xác, xây
cất nhà mồ như vậy, ông nên nhớ chúng ta đã bắt đầu vào thế kỷ 20, không
phải tám ngàn năm trước?
Hamud mỉm
cười :
- Rồi các ông
sẽ thấy, tôi mong các ông ghi chép những điều này cẩn thận rồi đúng hay
sai thời gian sẽ trả lời