Chương 1
Một người Ấn lạ kỳ
Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều
người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thoa? mãn
các nhu cầu vật chất vì chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng
siêu phàm gì hết. Các đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên
bố, “Thượng đế đã chết!” Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa
ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một
cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu
Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể
quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy
thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học
thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự.
Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích
tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra : Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu
vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm
đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã
làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống
tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề
hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi
để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn
chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào
lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng,
dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi
dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để
điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên
tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích
những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ
rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp
nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để
soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình
ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả
cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều
đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra
để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đạ Tất cả những
điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.
Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo
sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để
cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải
quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là
sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận
quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ
chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu,
trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and
teachings of Masters of the East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi
nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã
rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng
cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm
chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake
đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul
Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận
giá trị cuộc nghiên cứu này.
Ấn độ là xứ
có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động
lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự
hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được
thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội
Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những
hiện tượng huyền bí này.
Tuy nhiên,
sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng
trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng , phái đoàn
vẫn không thoa? mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ
lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó
những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ.
Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có
một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết
(Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là
thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương
trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực
xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh
tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần
nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm
nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn
giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu
biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất,
ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm
khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự
nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó,
cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong
ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là
sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên
nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều
trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp
nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các
giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không ? Họ sùng
tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về
cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình
lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một
thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn
nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống
trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ
khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và
được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không
biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi”
đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném
theo… Đang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong
độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào
bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện
dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen
nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời :
- Các vị minh
sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức
tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng,
đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất
thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ
mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử
qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ
chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một
người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất
vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”
Giáo sư
Spalding ngạc nhiên :
- Tại sao ông
biết rõ như thế?
Người Ấn mỉm
cười :
- Các ông đã
bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới
lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì
đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những
huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.
Giáo sư
Spalding mất bình tĩnh :
- Nhưng tại
sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế,
ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà ?
Người Ấn nở
một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh :
- Ông bạn
thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không
gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao
một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ
cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân
sư nhờ tôi chuyển giao.”
Sự kiện người
Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư
Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một
luồng điện cao thế.
Ông lắp bắp:
- Nhưng làm
sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm ? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm
trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…
Người Ấn
nghiêm nghị trả lời :
- Hãy đến
Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp
những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ
sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn
rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó
mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người
đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng
trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc
thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.
Người Ấn im
lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding :
- Nhưng nếu
các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chấn sư (Rishi) thì các
ông còn mất nhiều thời gian nữa…
Giáo sư
Spalding thắc mắc :
- Ông vừa
dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau
thế nào?
- Nếu ông tin
ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt : “sự tiến hoá của linh
hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức
thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”
- Như thế thì
các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ ?
Người Ấn mỉm
cười khẽ lắc đầu :
- Chắc chắn
như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con
đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí.
Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài
phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện
như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.
Giáo sư
Spalding cãi :
- Nhưng chúa
Jesus đã từng làm các phép lạ.
Người Ấn bật
cười trả lời :
- Ông bạn
thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay
sao ? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người
dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
Một lần nữa,
người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây
phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Thế tại sao
các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng ?
Người Ấn
nghiêm nghị :
- Ông nghĩ
rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng ?
Nếu đức Phật
hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin
không ? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt
nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao
? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn
tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn ?
-
Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu ?
Người Ấn mỉm
cười :
- Vì không
biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng
đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại ? Nếu tôi quả
quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại
không ngừng thì ông có tin không ? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng,
một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những
tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu. Có lẽ
câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm,
lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà
sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy
nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên
các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người.
Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả
năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.
Giáo sư
Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Lúc nãy bạn
nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng
tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không ?
- Bạn thân
mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.
Nói xong,
người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa
ngôi chợ thành phố Benares.