Chương 5
Thành Phố Thiêng Liêng
Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của
các vị thánh. Từ lâu nay người ta đã coi thành phố này như một thánh địa
mà tất cả những kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm mình trong bầu không khí
thiêng liêng. Rishikesh nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng
Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó đi lên hướng bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những
điều huyền bí. Phía nam là con sông Hằng, dòng sông thiêng của Ấn giáo.
Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức, đều ít nhất một lần trầm mình
trong dòng nước này để đón nhận những ân phược mà dòng sông mang lại.
Đúng như lời
người Ấn bí mật thành Benares đã nói, khắp nơi đâu đâu cũng có các đạo sĩ
và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ mình hạc, xương mai vừa đi vừa tụng
niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh, chống gậy trầm tư bên dòng
nước sông Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các thuật sĩ , quần
áo sặc sỡ biểu diễn những trò lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn
khố bằng da cọp, uốn mình trong tư thế Yogạ Bên cạnh một thuật sĩ gầy gò,
nằm lăn trên đất, lâm râm cầu nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc kinh
bên cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị
thần. Có những tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không
màng thế sự, bên cạnh những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn mình trong những
mảnh vải rách như một xác ướp. Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi
thóp như sắp chết, bên cạnh những thuật sĩ say sưa gọi tên thượng đế một
cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút, các tín đồ hành hưoong chen
vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm thành kính rõ rệt. Phái đoàn cảm
tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền ảo, với những nhân vật
kỳ dị , khác thường.
Bác sĩ Kavir,
giám đốc viện nghiên cứư Phạn ngữ (Sanskrit) của chính phủ là một học giả
nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đã sống ở Rishikesh nhiều năm . Theo
ông ta thì Rishikesh không còn là một thành phố của các bậc chân tu đạo
hạnh như xưa, mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn tạp. Đa số là
các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ hình thức đến tinh thần. Họ góp nhặt vài
phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú, rồi kiếm ăn qua sự
mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại
ngoài đời, lười biếng, không chịu làm việc. Đối với một quốc gia chậm tiến
như Ấn độ, thì hình thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc, và một mái nhà, là
trở nên một tu sĩ, sống trên lòng sùng tín của dân chúng. Vì không có một
tiêu chuẩn kiểm soát nào, nên bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ; chỉ
cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài hình thức lễ nghi, cúng tế
là có thể tự xưng đạo sĩ, thánh nhân được rồi. Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả
mạo này là những kẻ làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm
chuyện xằng bậy, ích kỷ cá nhân. Đã thế, họ còn tụ tập phe nhóm, phong
chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không cùng phe nhóm.
Được tin có
phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết cổ truyền, rất đông đạo
sĩ, gíao sĩ tìm đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí, dĩ nhiên, là với
một giá biểu. Khi bị từ chối, lập tức họ sụt giá như người mua bán. Một
đạo sĩ đòi bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau
nhiều lần sụt giá, y bằng lòng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một
nhóm tu sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đòi đến thảo luận
triết lý với phái đoàn. Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả
đạt được, phái đoàn cực kỳ ngẩn ngơ, vì toàn các bậc thần thánh gì đâu,
chứ không phải người. Ai cũng tu cả trăm năm, đủ các phép thuật thần thông
biến hoá. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát ở đâu bước vào thì các bậc
“thần tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy hết.
Quanh các chợ
, có rất nhiều tu sĩ khổ hạnh phô trương thân thể tàn phế bị huỷ hoại như
một công trình vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có thể đạt đến điều gì,
ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném chọ Một số các đạo sĩ sử dụng tà thuật
công khai. Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, nguyền rủa
một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn thành
công trên thương trường. Đâu đâu cũng có đạo sĩ rao bán bùa ngãi hoặc xưng
là đấng này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của
đấng Krishna và đã từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir
nổi giận ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến còng tay, tu
sĩ thú nhận, y chỉ là một học sinh thi rớt tiểu học, không sao kiếm được
việc làm. Y đã lười biếng còn thích làm thầy kẻ khác, nên làm gì một thời
gian cũng gặp khó khăn. Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là
Krishna giáng thế, một số dân quê tin những lời tuyên bố của ỵ Họ quyên
góp, xây cho y một ngôi đền. Y sống trên phẩm vật dâng cúng của tín đồ,
một cách ung dung chẳng tu hành gì hết. Đã thế, y còn đòi hỏi này nọ, chê
ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của ỵ Quen thói hống hách,
lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng, y dở trò bịp
bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ.
Lịch sử Ấn độ
cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa thiêng liêng, một nơi các tu
sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành hương quá đông, một số
hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi bộ dễ kiếm ăn
hơn nên nhiều hành khất đã “chuyển nghề” trở thành các đạo sư, gíao sĩ
chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ, nhẹ dạ.
Dĩ nhiên,
Rishikesh vẫn còn các tu sĩ học thức, dành trọn đời cho việc đi tìm chân
lý. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ý đến sự kiện các tu sĩ giả lợi dụng
sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Đó cũng là một nét đặc thù của nền
văn hoá xứ này. Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện như
thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương.
Nhưng Ấn giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên chúa giáo. Các giáo
sĩ quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo
danh, lợi dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau.
Giáo sư Kavir
cho biết, theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi, cuộc sống trở nên khó
khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày một hiếm, thì các đạo sĩ, thuật
sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt nát, vô học đi
lang thang với các chức tước rất lớn như đạo sư, giáo sĩ, thánh nhân. Họ
chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt
này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gánh nặng của xã hội, vì chỉ thụ
hưởng mà không làm lợi ích gì. Đó cũng là lý do nhiều người Âu Mỹ đã coi
thường gia tài văn hoá xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn
sùng tôn giáo quá mạnh của dân chúng. Họ không phân biệt một đạo sư tu
hành chân chính, gìn giữ giới luật nghiêm minh, với những kẻ bịp đời. Lòng
sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ, sẵn sàng làm theo sự mách bảo
của các bậc tu hành. Một lý do nữa là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền. Đa
số các tín đồ mải mê với sinh kế, không có thì giờ lo việc tinh thần, nên
họ uỷ thác cho các giáo sĩ cầu nguyện dùm, và đồng hoá việc giải thoát với
việc trung thành vào một bậc giáo sĩ. Đa số các giáo sĩ lợi dụng vấn đề
này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng cách cầu nguyện cho
họ. Các giáo sĩ này tự hào đã tu hành đắc đạo, đã có thể nói chuyện trực
tiếp với thượng đế. Và là người trung gian giữa trời và người. Họ sống
trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dụng được cúng, và nhân danh
thượng đế để đòi hỏi này nọ. Người Á châu bản tính không thích hoài nghi,
chấp nhận việc các tu sĩ nói ra ý muốn của thượng đế, và tuân hành triệt
để. Cũng vì thế, các tài liệu tôn giáo Ấn độ đã bị sửa đổi rất nhiều,
không phân biệt được điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ
tha hồ trích dẫn những câu nói bí ẩn, và giảng ra theo ý nghĩa có lợi nhất
cho họ. Xứ Ấn độ phân biệt giai cấp rõ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên
cả vua chúa, quý phái. Giai cấp tu sĩ không làm gì, chỉ hưởng thụ và các
giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp các nhu cầu đòi hỏi của tu sĩ.
Cũng vì không làm gì, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống báng , đả kích lẫn
nhau. Mỗi người tự lập một giáo phái, xưng hùng, xưng bá, giảng kinh điển
theo quan niệm của mình từ cụ thể đến trừu tượng, như Thời gian luận,
Phương hướng luận, Đa nguyên luận…Không ai chịu theo ai, và còn tranh luận
lung tung khiến các tín đồ không còn biết đâu mà lần. Cũng vì xã hội nghèo
đói, rối ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết, nên từ bao năm
nay, Ấn độ không sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các
xứ khác. Tuy thế, với gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc
chân tu đạo hạnh, sống kín đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng
và vẫn có những người tha thiết mong cầu chân lý, sẵn sàng từ bỏ tất cả để
đi tìm chân lý.
Sự kiện từ bỏ
tất cả để đi tìm đạo cũng là một nét rất đặc biệt của Á châu, vì người Âu
Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất, để chạy theo một
viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả quyết rằng
sự tìm kiếm chân lý là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những gì cuộc
đời có thể mang lại vì chết là hết! Nếu như thế, thì mục đích cuộc đời là
gì ? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết ? Văn hoá Âu tây đã không giải
thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đã
nhức óc về đề tài này, nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi
đến một kết luận nào chắc chắn. Họ chỉ nói rằng có thể như thế này, hay
cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thật sự giao tiếp
với người Á châu, thì họ bỗng bật ngửa, vì tất cả những gì họ thắc mắc thì
người Á châu đã có những câu trả lời từ nhiều ngàn năm về trước.
Lịch sử đã
ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á châu và say mê nền minh triết
xứ này, đến nổi quên cả mục đích chính của chuyến đi. Điển hình là đại đế
Alexander xứ Hy Lạp, vị hoàng đế, bách chiến bách thắng đã chinh phục thế
giới, dẹp tan Ai cập, quét sạch Ba tư , mở rộng bờ cỏi đến tận Ấn độ
dương. Khi đến Ấn độ, ông là một kẻ chinh phục, oai danh lừng lẫy nhưng
khi trở về nước, ông đã trở nên một triết gia khiêm tốn, nhã nhặn. Hoàng
đế Alexander, học trò của hiền triết Aristotle đã bị các bậc hiền giả xứ
Ấn chinh phục. Khi dẹp tan các đạo binh của hoàng đế Ấn độ, Alexander cho
mang tất cả những tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi. Ông vua kiêu căng lớn
tiếng, “Thua trận như vậy, các người đã chịu phục ta chưa ?”. Nếu là
trường hợp các quốc gia khác, thì vua chúa đều quỳ mọp xin tha tội, và xin
thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đã dõng dạc trả
lời, “Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho được.
Người có thể thắng bằng quân sự, nhưng cai trị thế nào nổi dân của tả”
Alexander nổi giận, “Ta đã cai trị toàn thế giới, có nước nào không phục
tài ta, nơi nào làm phản, ta giêt trọn cả nước. Ngươi không thấy các đại
cường quốc như Ai cập, Ba tư còn xin thần phục huống chi Ấn độ yếu đuối ?”
Vị chỉ huy xứ Ấn bật cười, “Chinh phục bàng sức mạnh quân sự thì dễ, chứ
chinh phục nhân tâm còn khó gấp trăm ngàn lần. Một kẻ vũ phu như ngươi,
làm sao có thể cai trị được Ấn độ ?” Câu nói bất ngờ làm đại đế Alexander
giật mình. Nên nhớ, ông là một hoàng đế văn võ toàn tài, chứ không phải là
một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ nhỏ, ông đã được giáo dục bởi các bậc hiền
triết Hy Lạp và năm 14 tuổi, ông đã đem quân chinh phạt khắp Địa trung
hải, tạo các chiến công hiển hách. Ông theo học với triết gia Aristotle và
lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để thảo luận. Câu nói của vị
tướng lãnh chỉ huy xứ Ấn, làm ông suy nghĩ. Thay vì ra lệnh giết ngay viên
tướng này để làm gương, ông đã không giận dữ, lại còn mang ngay đề tài
chinh phục nhân tâm ra thảo luận với ỵ Trong suốt lịch sử Âu châu, chỉ có
Alexander là hoàng đế duy nhất đã tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ thù
kính phục mới thôi.
Chi tiết cuộc
thảo luận này ra sao, không thấy lịch sử ghi chép nhưng chỉ ít lâu sau,
hoàng đế Alexander đã cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn đến thảo luận với
các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn viễn chinh. Chỉ một thời gian
ngắn, Alexander nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với các
hiền giả Ấn độ. Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị
này. Thay vì cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông
ghi nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân
chúng xứ này.
Đoàn quân
viễn chinh ngừng lại, không đi sâu vào nội địa xứ Ấn, để ông có thời gian
học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc thảo luận
nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đã ra lệnh
rút binh trở về Hy Lạp, vì giấc mộng bá vương không còn nữa. Ông dự định
sẽ cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn độ. Tiếc thay, nhà
vua lại chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đã than, “Nếu Alexander
sống lâu thêm ít năm nữa, thì biết đâu lịch sử Tây phương đã khác hẳn.
Trong các
hiền triết nổi danh, Ramakrishna được coi là một vị thánh của Ấn giáo.
Danh tiếng ông này vang sang tận Âu châu. Phái đoàn tìm đến đức Mahayasa,
môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó.
Ngang qua một
khoảng sân nhỏ đến một căn phòng kiến trúc kiểu xưa, cổ kính. Mọi người
được mời ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, có tiếng chân người chậm
rãi bước lại, đó là một ông lão khoẻ mạnh, râu dài trắng phếu, dung mạo
nghiêm trang, và đôi mắt chói sáng toa? ra một cái gì thánh thiện, khiến
mọi người có cảm giác rung động lạ thường.
Giáo sư
Evans-Wentz lên tiếng bày tỏ mục địch của phái đoàn, Mahayasa mỉm cười :
- Ơn trên đã
dẫn dắt các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp xúc nhiều với những bậc
hiền triết xứ này. Ơn trên có một mục đích rõ ràng rồi các ông sẽ thấy.
- Chúng tôi
nghe nói nhiều về đạo sư Ramakrishna, ông có thể cho chúng tôi biết thêm
về ngài không ?
- Tôi rất
thích nói về ngài. Ngài mất đã nửa thế kỷ rồi, nhưng vẫn còn lưu lại nhiều
kỷ niệm linh động trong lòng tôi. Tôi gặp ngài hồi 27 tuổi, và luôn luôn ở
bên ngài, cho đến những ngày cuối cùng. Nhờ ngài, tôi đã trở thành một con
người mới, và quan niệm của tôi đối với cuộc đời cũng thay đổi hẳn. Ảnh
hưởng của ngài thật sâu đậm, ai đến với ngài cũng được cảm hoá như vậy, kể
cả những kẻ hoài nghi, chế nhạo…
- Nhưng nếu
người ta không tin, làm sao người ta có thể được cảm hoá ?
Đức Mahayasa
mỉm cười:
- Trước ảnh
hưởng an lành toa? ra từ con người thánh thiện của đức Ramakrishna dù có
hoài nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh thoát.
Giáo sư Allen
rụt rè :
- Chúng tôi
được biết ngài rất ít học.
- Đúng thế,
ngài là con người đơn giản, biết ít, học ít, nhưng ngay cả những bậc học
rộng , tài cao của Ấn độ đều ngưỡng mộ ngài. Họ cúi đầu trước hào quang
tâm linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền bạc, chức tước, địa vị chẳng qua
chỉ là phù vân, hư ảo trước các giá trị tâm linh…
- Nhưng người
Âu không thể hiểu tại sao những vua chúa, học giả nổi tiếng lại có thể cúi
đầu trưóoc một người không học hết bậc trung học.
Đức Mahayasa
mỉm cười :
- Sở dĩ họ
không hiểu được, vì họ quan niệm đạo sư phải là người có bằng cấp, tốt
nghiệp những đại học nổi tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn. Quan niệm người Ấn
không như vậy. Một đạo sư không nhất thiết phải tốt nghiệp trường học
chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở những điều ngài khêu gợi,
thức tỉnh tâm thức được cho mình. Có gần ngài, mới hiểu thế nào là bình
an. Những ngày bên ngài tốt đẹp biết bao. Ngài thường đắm mình trong những
cơn thiền định sâu xa, khiến chúng tôi có cảm tưởng như tiếp xúc với một
vị thánh hơn một người phàm. Tôi xin kể cho các ông về cảm tưởng của tôi.
Tôi được giáo dục theo phương pháp Âu tây, tôi rất tự đắc được đọc nhiều
biết rộng hơn những người chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh ngữ
cho trường trung học ở Calcuttạ Đức Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar
cách đó không xạ Một hôm, tôi theo các bạn đến nghe ngài thuyết giảng,
thực ra tôi có ý muốn biện luận với một vị, được dân chúng coi là thánh
nhân, hơn là muốn nghe giảng. Nhưng một sự lạ lùng đã xảy ra, khi vừa nghe
những lời nói của ngài, tôithấy trong lòng rộn rã một cảm giác lạ lùng,
yên tĩnh. Ngài không nói bằng ngôn ngữ thông thường, sử dụng các danh từ
bóng bẩy như tôi nghĩ, mà bằng tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống
những lời giảng giản dị, chân thành như người khát nước lâu ngày, sau đó,
tuần nào tôi cũng đến nghe giảng. Một thời gian sau, tôi được ngài thu
nhận làm đệ tử, chính ngài khuyên tôi, “Xem tướng, thầy biết con sẽ trở
nên một tu sĩ (Yogi). Con hãy làm tròn công việc hàng ngày của mình với
đời. Nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ đến thượng đế.”
- Chúng tôi
nghe nói về Ramakrishna ngay từ khi còn ở Âu châu, nhưng dư luận người Anh
có lẽ không hiểu rõ về ngài, ngoại trừ việc ngài là một người không có học
thức…
Mahayasa gật
đầu mỉm cười :
- Theo sự
hiểu biết của tôi, sở dĩ ngài không thích học vì bản tính ngài thiên hẳn
về vấn đề tâm linh. Một người như thế tất nhiên không để ý đến những từ
chương , bằng cấp hay quyền quí, danh lợi. Năm ngài bắt đầu vào tuổi thanh
niên, một sự lạ xảy ra. Tuổi 16,17 là lúc đứa trẻ thường bị khủng hoảng
hoặc thay đổi tâm tính nhất là trên phương diện tình ái. Đối với người cao
thượng, đó là lúc mở màn cho một đời sống thật sự với sự phát triển các
năng khiếu tâm linh siêu việt. Sự mở màn ấy bắt đầu vói sự hoảng hốt trước
cái chết. Đa số con người ít nhiều cũng đã nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ
nghĩ một lát rồi quên ngay, ít ai chịu tìm hiểu sâu xạ Các bậc hiền triết
thì khác, họ tận lực tìm hiểu thế nào là sự chết, đức Ramakrishna cũng
phản ứng như vậy, ngài suy ngẫm, “cái gì là chết? Thể xác này chết nhưng
còn tôi, tôi có chết không ? Nếu tôi là thể xác này, tôi chết nhưng tôi có
phải là thể xác này không ? Nếu tôi không là thể xác này, tôi sẽ không
chết, nhưng làm sao tìm ra điều này? Chỉ có một cách là kinh nghiệm sự
chết”. Sau đó, ngài quyết tâm tham thiền, suy gẫm về đề tài này. Ngài
tưởng tượng thân thể ngài đã chết, không còn thở, không còn cảm xúc. Với
một ý chí mãnh liệt, ngài rút hết sinh lực ra khỏi thể xác và một ngày kia
ngài thành công. Thân thể ngài cứng đơ, bất động như người chết, nhưng
ngay lúc đó một quyền lực khôn tả phát ra từ đáy lòng và tràn ngập tâm tư
ngài. Chuyện gì xảy ra sau đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng ta có
thể đoán ra, xuyên qua lời dạy của ngài. Chúng ta có thể nghĩ rằng quyền
lực ấy là cái mà ta gọi là Ân huệ, và khi được mặc khải đó thì ta tiến sâu
vào nguồn sống để hoà hợp với đấng vô cùng. Ngài đã hợp nhất với Chân Ngã.
Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng Chân Ngã ngự sâu trong lòng nhưng ngài chưa
kinh nghiệm được một chân lý khác. Chân Ngã là sự thật duy nhất, ngoài sự
thật đó không có gì nữa cả. Khi tiến sâu vào nội tâm, ngài thấy sự bình an
nhưng khi ngài tỉnh dậy, ngài vẫn không thoa? mãn vì điều ngài mới đạt đến
chỉ là sự bình an của các vị thánh. Ngài ra tâm suy gẫm về cảm giác thiếu
thốn này, thân thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài trong nhiều tháng.
Dĩ nhiên ,những người chung quanh không hiểu, và cho rằng ngài mắc bệnh.
Ngài đắm mình trong trạng thái Vô Ngã rất lâu, không màng đến những việc
chung quanh. Chú của ngài không hiểu, nên thường trách mắng ngài lười
biếng, không chịu học hành. Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền
Dakshiniwar, danh từ này có một sức hấp dẫn lạ lùng, thế là ngài quyết
định đến đó. Đến nơi, ngài bước ngay đến trước tượng Shiva và nói, “Hỡi
cha, cha đã gọi, nay con đến với chạ” Ngay lúc đó các cảm giác nóng hực,
thiếu thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng nghiệm được một chân lý mới, cha
ta và ta là một. Từ đó ngài không cần tĩnh tâm mới có cảm giác an lạc, mà
lúc nào cũng ở trạng thái này. Ramakrishna bị rất nhiều thử thách. Bị trẻ
con chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây hấn, nhưng lòng ngài lúc nào
cũng bình thản, lặng yên, không một chút vọng động. Kinh Gita dạy rằng một
khi đã đạt đến trạng thái Vô Ngã, lòng người không còn bị xao động bởi các
sự kiện bên ngoài, dù khắc khe, đau khổ đến đâu. Một sự an lạc tràn ngập
thân ngài lôi cuốn những người chung quanh khiến họ khâm phục, kính mến và
số người này mỗi ngày một đông. Một điều cần lưu ý là ngài không học hay
đọc những sách vở gì về trạng thái Vô Ngã mà ngài đạt được lúc thanh xuân.
Cũng không ai chỉ dẫn ngài về trạng thái siêu việt này. Nhưng mỗi khi tín
đồ nhờ ngài giảng giải một đoạn kinh sách gì, ngài mới đọc và thông hiểu
nó một cách dễ dàng. Các sách vở đó rất ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc
lướt qua đã quán triệt được ngay, vì ngài đã chứng nghiệm được những điều
nói trong sách đó. Ngài dạy đạo bằng sự lặng thinh hơn là lời nói, nhiều
người đến với ngài để chất vấn, nhưng khi vừa gặp ngài thì mọi thắc mắc tự
nhiên tiêu tan như đã được phúc đáp. Nếu một câu hỏi đặt ra, ngài thường
trả lời một cách dịu dàng, vắn tắt, dễ hiểu. Ngài không viết sách như
những đạo sư khác, mà chỉ dạy đạo qua cử chỉ yên lặng hay vài câu nói giản
dị. Môn đệ của ngài đến từ khắp xứ và tùy theo căn cơ lãnh hội ít hay
nhiều. Ý kiến của họ vê ngài tuy khác nhau, nhưng ai cũng nhìn nhận ngài
là một đạo sư vào bậc nhất, và hết sức kính mến ngài. Vì đã đạt trạng thái
Vô Ngã, Ramakrishna không phân biệt giữa ngài và những người khác, giữa
người giàu, kẻ nghèo, hay nam nữ, đối với ngài, tất cả đều bình đẳng tuyệt
đối kể cả những loài cầm thú.
- Vì
Ramakrishna không hề để lại sách vở, giáo lý, nên người Âu không hiểu tại
sao ngài lại nổi tiếng như vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết một chút về
giáo lý của ngài không ?
Mahayasa mỉm
cười :
- Sau khi
ngài qua đời, nhiều đệ tử đã xuất gia để truyền bá giáo lý, riêng tôi vẫn
còn là cư sĩ, hàng ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa cõi đời, mà tôi
không còn tùy thuộc vào đời. Tôi còn nhớ rõ một lần ngài đã dạy như sau,
“chúng ta xông pha trong cuộc đời với ý niệm cho rằng ta có thể tìm hạnh
phúc trong cõi đời. Cho đến lúc gần đất, xa trời, nhiều người cũng không
buồn hỏi rằng ý niệm đó có đúng không ? Thật sự là chúng ta chả bao giờ
chịu ngừng lại để suy nghĩ, lúc nào chúng ta cũng nghĩ rằng mình gần đạt
được những điều mình mong mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào bị cuộc
đời hắt hủi, giày vò. Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên, và giải
thích bằng giấc mộng . Trong giấc mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích
thú, chúng ta vẫn mơ mộng mãi và chỉ giật mình tỉnh giấc khi gặp những
chuyện đau buồn. Một cuộc đời êm đẹp không tiện cho sự suy tư về các vấn
đề quan trọng, nhưng nếu là mộng thì chắc chắn cũng phải có lúc tỉnh.
Trong nhiều năm ròng rã, chúng ta cố tìm hạnh phúc, và nhiều lần tưởng đã
đạt được nó để hưởng một cách lâu bền. Nhưng lần nào ta cũng thất vọng.
Sau đó, ta lại tiếp tục chạy theo ảo ảnh đó như trước. Nếu biết dừng chân
suy nghĩ, ta sẽ thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng không hề biết đến
bản chất thật sự của nó , và không biết phải dùng phương tiện nào để đạt
nó. Hãy thử tìm hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng biết đặc tính của hạnh
phúc là “thường hằng”, nghĩa là nó ở mãi với ta; suốt đời ta lúc nào cũng
vui sướng, tươi tắn. Nhưng tất cả những gì cuộc đời mang lại cho ta đều là
vô thường, chỉ có những khoái cảm nhất thời, chứ có gì lâu bền đâu. Vì
khoái cảm nhiều và đến với ta như dòng nước chảy, chúng ta tưởng nó là
hạnh phúc và kết luận rằng bao giờ dòng khoái cảm đó còn tiếp tục đến với
ta, chúng ta được hưởng hạnh phúc. Suy gẫm kỹ thì khoái cảm chẳng qua chỉ
là phản ứng của lòng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng tạ Các
sự vật này khi thì tạo vui, lúc thì gây khổ. Hơn nữa cùng một sự vật mà có
thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng “Hạnh
phúc” không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta
phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ. Thật sự,
người giàu có, lắm sự vật, chưa chắc đã hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách
khác, kẻ nghèo ít của cải, chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm
lại, chúng ta thấy rõ ràng mình theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế
nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh phúc ?!!
Những người tìm hiểu một cách chân thành sớm muộn gì cũng thấy rằng hạnh
phúc nằm ở ngay nội tâm tạ Các khoái cảm không có tính cách tư hữu, mà chỉ
là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con
người ,bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy
máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương. Chúng ta cũng thế cứ
tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Có lẽ các ông
khó chấp nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin rằng những nỗi vui hay
buồn tùy ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận
này cũng chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc, vì có hai nỗi đe doa. : sự ham
muốn và sợ hãi. Chúng ta càng ham muốn thì càng sợ hãi, và càng sợ hãi lại
càng đau khổ. Thay vì diệt trừ những đe doa. này, chúng ta lại quỳ luỵ
chúng . Khi ham muốn lên tiếng, “hãy đạt được vật đó đi, rồi sẽ sung
sướng”, thì chúng ta tin tưởng và tìm mọi cách đạt kỳ được vật đó. Nếu
chúng ta không đạt được, thì chúng ta đau khổ, mà nếu đạt được thì ham
muốn lại thúc dục ta tìm đến một vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không
thấy mình bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng
cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng,
chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có
nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không ? Tóm lại, muốn có hạnh phúc
thật sự, phải vượt lên khỏi sợ hãi và ham muốn.
Đức Mahayasa
im lặng như đắm chìm vào một quá khứ rồi tiếp tục :
- Đến đây
chúng ta cần được một vị thầy hướng dẫn thêm. Người này phải hiểu rõ hạnh
phúc ở đâu, phải theo đường lối nào. Người này phải thắng được các đe doa.
như sợ hãi, ham muốn, và thật sự đã đạt được niềm hạnh phúc vô biên; như
vậy mới có đủ kinh nghiệm dìu dắt chúng tạ Như con bệnh phải đi tìm danh y
thì kẻ cầu đạo cần một vị thầy. Ramakrishna chính là vị thầy mà tôi gặp.
Kinh sách xưa xác nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát khỏi khổ
đau, nhưng ta không thể tìm nó bằng lý luận hay trong sách vở. Trong quá
khứ, đã có những bậc đạo sư như đức Phật, đấng Christ đã tìm được hạnh
phúc và hướng dẫn những kẻ khác. Sau khi các ngài tịch diệt, môn đệ có
trình bày giáo lý của các ngài trong kinh sách, nhưng dù sao đi nữa, kinh
sách cũng có những khiếm khuyết, ngôn ngữ làm sao diễn tả hết được, làm
sao bằng lời những vị đạo sư hãy còn sống bên cạnh chúng tạ Ramakrishna đã
dạy rằng, nguyên nhân các đau khổ đều ở trong ta chứ không phải ở bên
ngoài. Có người hỏi thế giới chúng ta đang sống có điều gì xấu xa không?
Thì ngài đã trả lời rằng nó rất tốt đẹp, có xấu xa chăng là lòng người, vì
con người đã hiểu sainó. Công việc của chúng ta hiện nay là phải đi ngược
dòng tìm cho ra sự sai lầm nguyên thuỷ để diệt trừ nó, thì mọi việc sẽ tốt
đẹp… Phát giác và trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất
cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ. Nhiều lắm là chúng giúp ta tìm ra
phương thuốc nói trên. Đó là giá trị của các tôn giáo, các nghi lễ, tiếc
thay tôn giáo hay gây sự chia rẽ, đôi khi còn làm cho tâm trí suy kém, cản
trở bước tiến của tín đồ. Có người đã hỏi tại sao con người luôn luôn đau
khổ, sợ hãi, thì ngài trả lời rằng, sự kiện đó là do lầm lạc phát sinh, từ
sự thiếu hiểu biết chính mình. Có nhiều người, họ biết mình rất rõ ràng,
hoặc lại cho rằng điều này không cần thiết, vì trong đời sống hàng ngày
đầy rẫy những phức tạp, điểu ta cần khai thác là làm gì cho có lợi, kiếm
được thật nhiều tiền. Để khai thác, con người gán cho kiến thức một giá
trị quá mức, như bắt mọi người phải đến trưòong. Từ xưa đến nay nhân loại
thu thập biết bao kiến thức nào là sử ký, địa dư, thiên văn, vật lý, triết
học và siêu hình học nữa… Nếu những kiến thức này là sự hiểu biết đứng đắn
thì nó phải đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự thật lại khác hẳn,
chúng ta học cách chế ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược luật tạo hoá,
khiến cho xã hội càng ngày càng đau khổ, bất mãn thêm. Sự chế ngự này, con
đẻ của khoa học chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số thôi. Do đó, lắm kẻ
giàu sang sung sướng nhưng vẫn không sao hạnh phúc được trước khổ đau của
đa số. Tóm lại, khoa học đã tạo cho con người nhiều khó khăn hơn là giải
quyết các điều kiện căn bản của cuộc sống.
Đức Mahayasa
nhìn mọi người trong phái đoàn, rồi tiếp tục :
- Đã có một
giáo sư đại học hỏi Ramakrishna về bức tường vô minh mà khoa học không sao
vượt qua được. Họ biết các vật vi tế như nguyên tử, điện tử nhưng đó cũng
chỉ qua sự ức đoán mà thôi, không phải biết một cách trực tiếp. Họ cũng
biết các vật vĩ đại như các dãy thiên hà nhưng cũng chỉ ngưng ở đây thôi.
Ngài đã trả lời rằng, ngoại cảnh chỉ đưa con người tới chỗ vô minh mà
thôi. Theo ngài, nếu nhân loại cố tìm tòi những gì káhc hơn là bản chất
con người thì những kiến thức ấy không phải sự hiểu biết thật sự. Lời nói
này có vẻ làm giảm giá trị của khoa học, nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta thấy
ngài rất có lý. Sự hiểu biết về khoa học hiện nay còn nhiều điểm đáng nghị
Các khoa học gia vẫn còn bất đồng ý kiến về một chuyện gì, thì quần chúng
đã lên tiếng ủng hộ, do đó những người bất đồng ý kiến cũng phải im, dù có
thể họ rất có lý và số đông đã sai. Trong phạm vi khoa học, cũng như triết
học và tôn giáo, ý kiến thưòong sai biệt ít nhiều, tùy tâm trí nhà bác
học. Sự tìm hiểu chân lý bắt buộc một học giả phải có những đức tính cao
quý vì tâm trí học giả có một ảnh hưởng to lớn trong sự tìm hiểu và sự
hiểu biết chỉ cóthể xem như một chánh keí6n, khi người tìm kiếm có đủ tư
cách. Vì thế khoa học đã vấp nhiều lỗi lầm khó sửa. Sự thất bại của khoa
học phát sinh từ một lầm lỗi nguyên thuỷ là các bác học tưởng mình đã
biết, không cần sự tự biết mình. Trong cả hai trường hợp, họ bắt đầu cuộc
đi tìm với những thành kiến sai lầm về bản chất của họ. Do đó, những điều
họ tìm ra dù có giá trị vẫn bắt đầu từ những sai lầm căn bản, hậu quả là
khoa học ngày nay đã đưa nhân loại đến những hố thẳm, thay vì chân trời
sáng lạng. Một hôm có tín đồ đến hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà họ
không thích. Họ muốn ngài chấp nhận ý kiến của họ là không nên thờ thượng
đế dưới hình thức thần tượng.
Một người hỏi
ngài :
- Thượng đế
có sắc tướng không?.
Ngài đáp:
- “Ai nói
rằng thượng đế có sắc tướng.
- “Nếu thượng
đế không có sắc tướng thì tại sao lại thờ ngài trong các hình tượng làm gì
?
- Chúng ta
hãy để thượng đế sang một bên, và xin anh cho tôi biết anh có sắc tướng
không ?
- Dĩ nhiên là
có chứ, hãy nhìn thân thể này…
- Nhưng anh
có phải cái xác thân đen xám, râu tóc xồm xoàm này không?
- Dĩ nhiên
tôi là xác thân này chứ còn gì nữa.
- Trong lúc
ngủ say, không mơ mộng, anh có phải là nó không?
- Có chứ, vì
khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi gì.
- Và rồi khi
anh chết.
- Thì tôi
cũng còn là nó.
- Vậy thì tại
sao khi người ta hoa? thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi, và muốn ở
lại nhà ?
Khi người này
ý thức rằng mình đã sai và đáp rằng :
- Tôi không
phải là thể xác này, mà là sự sống trong nó.
- Anh hãy suy
gẫm kỹ về điều này. Hồi nãy anh nói rằng anh là thể xác này. Bây giờ anh
lại nói rằng không phải. Cho mình là xác thân này là một lỗi lầm nguyên
thuỷ. Bao giờ sự sai lầm này còn, dù anh nói thượng đế có sắc tướng hay
không cũng không ăn thua gì . Khi sự sai lầm này được đánh tan thì mọi
việc sẽ sáng tỏ.
Tóm lại, theo
Ramakrishna thì nguyên nhân của sợ hãi, dục vọng, ham muốn là do sai lầm
đầu tiên, tự cho mình là xác thân này, vì sợ hãi hay ham muốn đều bắt đầu
từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ý như thế , và tin
rằng con người không phải là thể xác mà là một sự sống trường cửu. Sách vở
cũng nói như thế rất nhiều. Nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm gì
khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu thập, hiểu biết các chân
lý cao siêu họ sẽ khác người thường. Nhưng tại sao họ vẫn hành động y như
họ là thể xác này vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng mình bé nhỏ.
Nếu xác thân họ to lớn, đẹp đẽ, họ cho rằng mình lớn đẹp. Nếu xác thân họ
Ốm đau, họ cho rang mình bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng
mình thông minh….Tóm lại, sự sợ hãi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại
còn gia tăng hơn vì họ hãnh diện về sự hiểu biết của mình hơn xưa. Nói một
cách khác, sở dĩ họ làm thế, vì chưa chứng nghiệm được con người thật của
mình, sự sai lầm nguyên thuỷ vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức
của họ chưa tạo được một sự biến chuyển thật sự….
Ramakrishna
đã dạy rằng, kiến thức về tâm linh thu thập qua sách vở thường tai hại hơn
là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn quảng bác, lịch
thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ, lại còn ngạo mạn, họ cho rằng
mình biết nhiều, hiểu nhiều, và không chịu tìm hiểu, thực hành đào sâu vào
thêm nữa. Đó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở, chứ đâu phải là một
chứng nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la-bàn hướng dẫn, chứ đâu phải minh
triết thật sự. Sự thu thập kiến thức kiểu này, tạo nên tình trạng hỗn độn
trong triết lý và thần học. Các triết gia và nhà thần học đã thảo luận
không ngừng về những vấn đề khó khăn, như nguyên nhân đầu tiên, sự thật
cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh con người, tự do, giải thoát,
v..v… và chả đạt đến một kết quả nào. Các bậc hiền triết đứng bên ngoài
cuộc thảo luận đó, vì họ có lối giải quyết riêng , trái với các giải pháp
trí thức. Thay vì thảo luận, họ cố khám phá lấy sự thật, và khi tìm ra sự
thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết.
Nói đến đây,
đức Mahayasa lặng yên chìm đắm trong một không khí êm đềm nào đó.
Giáo sư
Evans-Wentz cố gắng :
- Nhưng con
người không thể sốgn bằng đức tin, mà còn phải thoa? mãn lý trí nữa, đối
với những người thiên về lý trí, không biết ngài nghĩ sao ?
Mahayasa mỉm
cười :
- Nếu thầy
tôi Ramakrishna còn sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện.
- Tại sao như
vậy ?
- Cầu nguyện
là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào lý luận tỏ ra bất lực thì
sự cầu nguyện sẽ bổ sung , phù trì, cứu độ…
- Nhưng nếu
tôi không thể cầu nguyện thì phải làm sao ?
Đức Mahayasa
nhìn giáo sư Wentz, ánh mắt ngài long lanh một niềm ưu ái :
- Ông nên
tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn tâm hồn ông lên cõi
thiêng liêng, và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của ông. Có lẻ
ông cần một vị thầy