24. Lòng từ bi hơn tất cả mọi thứ
Cách đây trên hai ngàn năm, trong thành phố Schravasti ở Ấn Độ có một
gia đình Bà-la-môn –ông sinh được hai người con trai. Người con cả có
trí thông minh hiếu học, còn đứa em tên là Chunda thì rất kém, không
biết đọc, biết viết, tất nhiên không thể làm tròn trách nhiệm người con
thuộc một gia đình tu sĩ.
Sau khi người cha mất, hai người con trai gặp một đệ tử của Phật Cồ-đàm
và không bao lâu sau người con lớn trở thành thành tu sĩ được theo chân
đức Phật và được gia nhập giáo hội. Trong lúc đó Chunda cũng lui tới gần
đó, nhưng chỉ biết giành ăn với chó mèo mà thôi.
Người anh lớn hỏi ý kiến A-nan, người hầu cận thân tín của Phật, rằng
liệu một kẻ có trí khôn tệ hại như Chunda được phép gia nhập tăng già
chăng. A-nan nói “đem em ngươi lại cho đại sư và trực tiếp hỏi ý kiến
của ngài”.
Lúc đầu Chunda không dám lại gặp Phật vì tự thấy không xứng đáng và quá
ngu dốt, nhưng nhờ ông anh chỉ rằng giáo pháp này lấy lòng từ bi làm
chính, nên cuối cùng Chunda mới chịu. Chunda đến gặp Phật một cách sợ
sệt, theo giờ hẹn sẵn, lúc Phật đang tiếp chuyện trong một vườn cam. Chỉ
nhìn qua Phật Cồ-đàm đã thầy ngay tính khiêm tốn và lòng nhân hậu của
con người trẻ tuổi này và cho phép A-nan thu nhận làm môn đồ.
A-nan khai thị Chunda bằng bài kệ:
“Xa lánh mọi tư tưởng xấu, cái có thể mang lại hành động xấu.
Tha thiết quên mình và sẵn lòng phụng sự,
Tránh không bám giữ nơi cái Ngã.
Thanh tịnh, tỉnh giác và trong sạch, đúng như tự nhiên,
Thì không có khổ não nào có thể xâm lấn.
Đó là đạo lý của người giác ngộ”
Ba tháng trôi qua, anh chàng Chunda tội nghiệp vẫn không thuộc nổi một
câu kinh mà bất cứ kẻ chăn trừu nào cũng thuộc được. Trong lúc đó thì
các vị tăng sỹ trẻ tuổi đã thuộc nằm lòng từng chồng kinh sách.
Chunda thất vọng hỏi ý kiến A-nan. A-nan vừa mới giải thích xong thì đã
khám phá ra Chunda không thể lĩnh hội gì cả, không có câu nói nào nằm
lại trong óc chàng. A-nan tự nhủ:”được cái gì? Người này gia nhập giáo
hội để làm gì khi không thể nhớ điều nào trong đầu?”. A-nan chỉ ban
phước cho Chunda và cho chàng nghỉ việc. Chàng thất vọng, ra ngồi khóc
vườn cam và khóc, khóc mãi cho đến khi Phật đi qua.
Phật biết ngay những gì vừa xảy ra và khuyến khích Chunda kể lại câu
chuyện. Chàng thút thít: "Không hiểu điều gì đã xảy ra cho con? Con muốn
trở thành đệ tử của Thế Tôn và được học pháp của Ngài, thế mà không nhớ
được điều đơn giản nhất. Nghiệp nào làm con không thể hiểu biết được?”.
Phật Cồ-đàm giải thích, trong kiếp cuối cùng chàng là một Bà-la-môn
thông thái và là người tự cho mình tài giỏi hơn thiên hạ, chê trách
không hết lời những quan điểm của người khác. Quá chủ quan, chàng tự cho
mình là đạo sư và truyền bá các quan điểm sai lầm làm nhiều kẻ tầm đạo
phải lạc lối. Vì sử dụng sai lạc sức mạnh của tư tưởng, Chunda phải chịu
học hỏi “mặt kia của đồng tiền” trong kiếp này và trở thành kẻ ngu dốt
để nhiều người chê bai.
Chunda đáp: "Từ hồi nhỏ thầy giáo đã chê con là người khó lĩnh hội. Làm sao thoát khỏi ách nạn này?
Phật trả lời bằng câu kệ:
"Được bậc hiền giả hướng dẫn,
tốt hơn là được kẻ khờ ca tụng.
Ai biết rằng mình còn vô minh dại dột,
kẻ ấy mới là một hiền giả đích thực.
Ai tưởng mình là một hiền giả, dù không nói ra,
Thì đích thực là một kẻ dại khờ”.
Sau đó, Chunda được Phật Cồ-đàm đích thân chỉ dạy. Nhằm làm sáng tỏ đầu
óc của Chunda, Phật bảo chàng ngồi mỗi ngày đều quét đền và quét các
đường đi quanh đền .Trong công việc đó, chàng chỉ nên nhớ đến hai câu
duy nhất "chùi sạch bụi, chùi sạch dơ bẩn”. Ngoài ra Chunda phải chùi
sạch tất cả giày dép của các vị tăng sĩ khác.
Chunda vội bắt đầu công việc. Vừa mới cầm chổi quét, chàng quên ngay hai
câu nọ. May thay chàng gặp A-nan đang ngồi giữa sân đền và nhờ nhắc lại
hai câu đó. Sau đó một thời gian lâu, Chunda mới thuộc được hai câu
này. Vài tháng sau thì chàng thuộc lòng và lúc nào cũng lẩm bẩm câu này,
tay cứ quét, quét và quét và chùi giày từ đôi này qua đôi khác.
Phật để tâm quan sát sự cố gắng của vị tiểu tăng này và có cách làm cho
lúc nào đền cũng đày bụi và giày dép lúc nào cũng lấm bùn để Chunda có
việc làm liên tục từ sáng đến tối. Với sự cẩn trọng và tha thiết, Chunda
từ từ đi vào chiều sâu của câu nói "Thế tôn nói bụi là muốn nói bụi ở
bên ngoài hay bên trong? Mà buị ở bên trong là gì?”. Cứ thế mà chàng trở
thành người học trò chuyên sâu nhất, song song đó chàng lại đi phụng sự
cho các bạn đồng học.
Ngày nọ, Chunda tung chổi quét đền, và tâm thức đại định của chàng đã
đạt đến mức rất sâu thì một câu kệ của Phật bỗng nhiên bừng sáng, trở
thành một câu kinh đầy ý pháp, một câu chàng không biết và cũng chưa bao
giờ nghe:
“Bụi chính là sự ràng buộc, sự níu kéo, sự vướng mắc,
Không phải là bụi cõi trần;
Bậc hiền giả từ bỏ thứ bụi đó.
Dơ bẩn chính là sự giận dữ,
Không phải là sự ô uế thông thường;
Bậc hiền giả từ bỏ các lớp uế nhiễm nhiều tầng đó,
Và trở nên tự tại”.
Chunda nghe các lời kệ đó và trực nhận ra rằng cái Ta giả tạo do ba thứ
tham đắm (Tham), giận dữ(Sân) và vô minh(Si) sinh ra. Như vậy người tỉnh
dậy từ một cơn ác mộng, chàng thấy rằng lâu nay mình cứ tự động hoà
mình với cái Ta, cái đó không gì khác hơn là một lớp dơ bẩn mà chàng vừa
quét đi.
“Rõ như ban ngày, hoàn toàn rõ ràng. Cảm tạ đức Thế tôn”. Chàng đứng đó,
tay còn cầm chổi, nhưng đã đi xuyên suốt hết các tầng bụi bặm của sự ảo
giác!
Sau lần giác ngộ này, Chunda còn tu học thiền định hàng năm trời và sau
đó Phật trao nhiệm vụ cho Chunda đi từ làng này qua làng nọ để đánh thức
người tầm đạo. Kẻ “Chunda bất trị” nay đã trở thành “a-la-hán Chundaka,
người quét đường” đi vào lịch sử Phật giáo và chứng minh rằng, có hàng
ngàn con người với đầu óc giản đơn, thậm chí lòng đầy nghi ngờ và hoàn
toàn không được chuẩn bị, thế mà vẫn có thể được đưa vào các cấp bậc
giác ngộ chỉ với bằng những câu nói giản dị.
Trong các đệ tử, Phật Cồ-đàm xem kẻ quét đường Chundaka là người khôn
khéo nhất khi chuyển hoá tâm thức. Ngày nay người ta vẫn nói, những ai
muốn phát triển tâm thức nên thành tâm cầu đến trợ lực của Chundaka,
nhất là khi nghe các vị đạo sư giảng giải làm họ không hiểu cũng chẳng
nhớ. Chundaka là một thí dụ lịch sử sinh động nhằm minh chứng rằng, lòng
nhân hậu và sự tha thiết thực hành các phép tu có khi quan trọng hơn xa
một đầu óc trí thức sắc sảo.
25. Tự tính rất gần
Patrul Rinpoche, một kẻ giác ngộ phiêu bồng, không đêm nào khi trời chập
tối mà không nằm ngửa, ngắm nhìn bầu trời cao rộng. Ở đâu cũng thế, mỗi
lần như vậy là mỗi lần ngài hoà lẫn tâm thức riêng tư của mình cùng với
vũ trụ, đó là sự hoà lẫn trong thiền định, trước và sau Ngài có nhiều
người đã làm như thế.
Một đêm nọ Patrul nằm trên một cánh đồng, nhìn ngắm bầu trời, gần đó có
vài đệ tử. Bỗng nhiên ngài gọi vị đệ tử xuất sắc nhất là Nyoshul Lungtok
lại và nói: "Ngươi có thấy Tự tính chăng, Nyoshul?”.
“Thưa không”, Nyoshul trả lời thành thực.
“Đừng lo”, Rinpoche nói,”thực tế không có gì bí ẩn cả.nhưng đừng nghĩ
ngợi gì về nó, cứ giữ tâm rộng mở”. Hai thầy trò nằm bên cạnh một lúc
lâu và cùng nhìn bầu trời. Mặt trời lặn. Xa xa có tiếng chó sủa.
“Ngươi có nghe chăng tiếng chó sủa?, Rinpoche hỏi.
“Thưa có”, Nyoshul trả lời.
“Đó, nó đó”, giọng nói vị đạo sư trầm tư lại vì xúc động.
Ông hỏi tiếp, giọng rất nhỏ: " ngươi có thấy chăng các vì sao trên bầu trời?”.
‘Thưa có, con thấy chúng’.
Patrul Rinpoche lại kêu lên: “đó, nó đó! Chính nó!Tất cả, hết thảy đều
là tâm thức tỉnh giác, đều là Phật tính ròng, nó chính là thứ nằm ngay
trong ngươi. Đừng tìm kiếm nữa, khắp nơi chính là nó”.
Ngay lúc đó, trong người học trò loé lên một tuệ giác, thứ tuệ giác nằm
ngoài sự phân biệt. Trong khoảnh khắc đó, Nyoshul không thấy sự khác
biệt gì giữa tâm thức của chính mình và cái tự tính của vạn vật. Trong
phút giây đó, không hề còn gì mà ông phải chứng đạt, vì ông đã biết
chính mình là gốc mọi thứ xưa nay, sinh ra tất cả, nhận thức tất cả, rồi
lại chứng đạt tất cả.
Nyoshul khóc. Chỉ mới đây ông còn đang lo tối nay mình lại phải mơ thấy
giấc mộng ấy. Đó là giấc mộng mà Patrul Rinpoche hiện ra, đẩy trước mặt
ông một cuộn len màu đen khổng lồ và trong cuộn len đó một tượng Phật
bằng vàng, từ đó phát ra vô số sợi len. Bấy giờ Nyoshul chợt hiểu rằng
bản thân giấc mơ đó cũng như mọi tư tưởng hay tình cảm do ông hay bất cứ
ai cảm nhận được đều xuất phát từ Phật tính nằm trong trung tâm của vạn
sự.
Con đường dẫn đến tuệ giác này dài thật, nhưng bây giờ ông đã tự mình ngộ ra về một câu kệ đầy minh triết của Mật tông:
“Trên con đường đạo nhiều giáo pháp,
Bạn sẽ hiểu rằng.
Tất cả loài hữu tình,
Đều có khả năng, một ngày kia,
Sẽ đạt giác ngộ.
Trên con đường Mật tông,
Bạn sẽ thấy rằng, tâm thức uyên nguyên,
Từ xưa đến nay đang soi sáng tâm bạn”.
Nhiều năm sau, Nyoshul Lungtok còn kể câu chuyện về lần giác ngộ này của
chính mình cho học trò nghe và chấm dứt câu chuyện bằng bài kệ của đạo
sư Longchenpa:
“Vạn sự, từ xưa đến nay:
Tính của nó là thanh tịnh-và chính là Phật tính.
Ai biết điều này, đó là người đã thức tỉnh.
Ai để sáu thức yên nghỉ trong tự tính đó,
Người đó sẽ thấy chúng
Là một sự viên mãn hoàn toàn.
Đừng tin nghe đầu óc đang xao xuyến,
Hãy yên lặng và hãy để mọi sự như là…
Như là xưa nay vẫn cứ”.
26. Tỉnh giấc khó khăn
Vào thế kỉ mười chín tại miền Đông Tây Tạng có một vị Lat-ma cao cấp tên
là Jamyang Khyentse Rinpoche(19). Nhiều đệ tử của ngài là các vị tái
sinh của các dòng Lat-ma và thường rất xuất sắc trong học tập và lĩnh
hội. Trong số đó có Neten Choling, một cậu bé mà rõ ràng là kiến thưc và
tài năng đã được hình thành từ những đời sống trước. Từ nhỏ, Neten
Choling đã thông minh và chỉ làm theo ý mình, đến nỗi cha mẹ phải đưa
đến Jamyang Khyanste để cậu bé này được một đạo sư giác ngộ hướng dẫn
học tập
Dưới sự hướng dẫn của Rinpoche quả nhiên Neten Choling sớm trở thành một
thanh niên xuất sắc, nhưng cũng như các vị tái sinh khác, chàng không
tránh khỏi lòng kiêu mạn.
Ngày nọ, chàng Neten Choling chừng hai mươi tuổi quyết định lên đường đi
kinh đô Lhasa để tham gia một cuộc tranh luận với các luận sư của bốn
trường phái lớn của Phật giáo Tây Tạng. Lhasa là trung tâm văn hoá của
cả nước, đi bốn ngày đường mới đến, nhưng Neten Choling cho rằng đáng
công đi để cho các vị luận sư kinh đô biết đâu là chân lý.
Chàng bắt đầu chuẩn bị cuộc hành trình và báo cho thầy biết, xin phép
lên đường và xin thầy ban phép lành. Jamyang Kheyentse trả lời: "Tốt
lắm. Hãy đi Lhasa nhưng đợi vài ngày đã”.
Vài ngày sau có một buổi lễ điểm đạo, trong đó Langyang Khyentse sẽ khai
vị cho một số vị đệ tử. Tất cả học trò, kể cả các vị Lat-ma cao cấp đều
tập họp đông đủ trong chính điện. Ai cũng hồi hộp mong được thầy nói
điều gì đó cho mình. Ai cũng biết vị thầy của mình là người đắc đạo và
thường bất ngờ dùng nhiều biện pháp để khai thị cho đệ tử hoặc để giúp
tiến thêm nhiều bước tu học. Cũng vì thế mà các vị đạo sư vẫn được so
sánh như người mài kim cương, dù có khác nhau về chủ trương, trường
phái, nhưng các vị đó đều giống nhau là mỗi lần dạy học trò là như mới,
phải có cách riêng để phá bỏ những điều vô bổ, những điều che mất ánh
sáng rực rỡ tự nhiên.
Chàng Neten Choling hôm đó chẳng may bị đau bụng dữ dội, bụng đầy hơi.
Lúc Ngài Khyentse Rinpoche đi dọc một hàng Lat-ma và các vị tái sinh,
ngang đến chỗ chàng thì đứng lại và đặt bình bát bằng vàng lên đầu chàng
đồng thời ban phép lành. Vừa mới làm ngang đây, bỗng vị đạo sư đấm một
đấm mạnh vào bụng chàng đang đầy hơi, ai thấy cũng kinh hoàng.
Neten Choling phải phát ra một cú trung tiện thật lớn, không ai không
nghe. Mặt chàng đỏ như gấc, lúc đó thì Khyentse Rinpoche chỉ thẳng vào
mặt chàng, nói: "Chính nó đó!”.
Đầu óc chàng hoàn toàn tê dại. Chàng rơi lại trong tính không của Chân
Như và bỗng đạt được trạng thái tự nhiên uyên nguyên, trạng thái đó
chính là Giác Ngộ, khi con người trực nhận nó được một lúc.
Trong những năm sau đó, Choling Rinpoche vẫn còn kể câu chuyện giác ngộ
của mình không chút hổ thẹn và cho trò biết cái nhận thức thâm sâu của
nhận thức lần đó, cái thâm sâu đó đạt được là nhờ cú “sốc” mà ra và
chàng không bao giờ rời xa chiều sâu thẳm đó nữa. Chàng khâm phục lòng
sáng tạo thần thánh của Khyentse Rinpoche và nói thêm rằng sau đó không
còn chút ham muốn đi tranh luận ở kinh đô nữa. Vì chàng chẳng cần minh
chứng điều gì cả.
27. Patrul Rinpoche được cầu hôn
Trên miền cao nguyên Golok phía Đông Tây tạng, Patrul rinpoche (8) gặp
một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết với ba đứa con nhỏ, trên đường
đi Dzatschuka.
Người giác ngộ phiêu bồng này hỏi thăm người đàn bà và được biết ông
chồng đã bị gấu ăn thịt, và cả gia đình bây giờ phải kéo về phố xa để
xin ăn, nếu không cả nhà chỉ chờ chết đói.
Patrul liền cõng một đứa bé trên vai, tay dắt đứa kia và nói: "đường đi
đến Dzatschuka còn xa, vì thế tôi phải đi cùng mà giúp đỡ cho bà”.
Người đàn bà mừng rỡ và cùng đi với Patrul suốt một vùng vắng người. Bà
lo mang đứa bé mới sinh và Patrul thì vai cõng đứa này, tay dắt đứa kia
và cả nhà từ từ đi về phía Nam. Buổi tối Patrul bọc hai đứa nhỏ trong
áo ấm của mình để chúng khỏi chết cóng trong đêm lạnh. Sáng tối hai
người lớn nấu trà quanh đám củi và chia nhau ăn phần dự trữ ít ỏi của
Patrul.
Giữa đường họ gặp các người chăn trừu hay kẻ hành hương và mọi người đều
xem đây là một gia đình hết sức bình thường đi lễ thánh địa. Không ai
nghĩ ngợi gì về con người và đứa trẻ trên vai là ai, người đàn bà nọ thì
lại càng không biết. Khi cả nhóm đến một nơi khá đông người thì người
đàn bà cùng Patrul Rinpoche bắt đầu ăn xin, để mua các thứ như bột, bơ
sữa chua mà sống.
Nhóm người nhỏ bé này xem ra ngày càng bớt buồn trên đường đi vì niềm an
lạc xuất phát từ một tâm thức giác ngộ như Patrul có thể xoa dịu những
tâm hồn sôi sục. Khi họ vừa đến ngoại ô của Dzatschuka thì gia đình ăn
xin này hầu như cất được một bài ca, người đàn bà kiếm nơi ăn xin còn
Patrul đi đâu mất.
Một lúc sau Patrul về lại, mang theo nhiều thực phẩm nhưng mặt mày xem
ra có chút ưu tư. Bà quả phụ hỏi thăm lí do ưu tư thì Patrul nói: "chẳng
có gì quan trọng. Tôi định làm chút việc, nhưng ở đây, các chuyện nhảm
nhí lại được lan truyền nhanh như chớp”.
“Nhưng một người ăn xin nghèo khổ như ông lại quan tâm gì đến chuyện đó”. Người đàn bà ngạc nhiên.
“Thì…đúng như vậy, ta hãy đi tiếp”.
Một lúc sau cả nhóm đến tu viện nằm về phía Bắc của Dzatschuka. Dưới
chân ngọn đồi của tu viện, Patrul nói với người đàn bà: "Tôi phải dừng ở
đây vài bữa. Trong ba ngày nữa, bà sẽ gặp lại tôi và tất cả sẽ được
chuẩn bị chu đáo”.
Người đàn bà quá đã có kế hoạch khác. Trong quãng đường đi, người bạn
đồng hành đó đã gây niềm cảm mến. Bà thấy rằng đã vượt qua nỗi khổ đau
mất chồng, một phần nhờ một cái gì rất êm dịu phát ra từ người đó. Bà
vội nói: "đừng làm thế, suốt một thời gian dài anh đã ở với chúng tôi,
hãy ở lại. Nếu anh muốn, chúng ta sẽ thành vợ chồng, hay ít nhất cũng
cùng nhau đi suốt cuộc đời này. Đừng bỏ rơi mẹ con tôi”.
Nhưng vị đạo sư đã có một quyết định không thể dời đổi. "Tôichỉ là một
trong những người giúp đỡ bà. Hãy tin rằng mọi sự sẽ tốt lành. Ba ngày
nữa bà sẽ trở lại và sẽ gặp tôi”. Nói xong, Patrul quay người leo lên
đồi. Người đàn bà đành ở lại dưới thung lũng với các con và thực phẩm
vừa kiếm được.
Ngày hôm sau người ta bắt đầu lan truyền tin “Đạo sư giác ngộ Patrul từ
xa đến đây và giảng pháp cho chúng ta”. Mọi nguời đổ xô đến tu viện,
dựng lều trước cửa và lo lắng tổ chức buổi lễ.
Goá phụ kia nghe tin, có chút hy vọng "Sự có mặt của một đạo sư danh
tiếng như thế quả thật là một điềm tốt. Ta sẽ kiếm Ngài, dâng hiến tặng
phẩm để cầu nguyện cho ông chồng xấu số”. Nàng gom góp mọi thực phẩm xin
được, mang theo ba đứa con, tìm đường đến tu viện.
Patrul Rinpoche là người không bao giờ nhận tặng phẩm. Nhưng lần này
Ngài ra lệnh cho các vị Lạt-ma hãy giữ mọi tặng phẩm lại "Ta đợi một
người, người này sẽ được nhận các thứ”.
Các vị Lat-ma ngạc nhiên, nhưng không có gì khác hơn là nghe lời Phật(Patrul) và dồn tất cả tặng phẩm trong một phòng riêng.
Nàng goá phụ và các con vào trong chính điện, nơi Patrul giảng pháp, họ
tìm được một chỗ đứng xa phía sau, không thấy mặt Patrul, chỉ nghe
tiếng. Cuối buổi giảng, sau phần cầu nguyện kết thúc, mỗi người lần lượt
đi ngang trước Patrul và được tận mắt nhìn vào mắt ngài.
Đến lượt nàng goá phụ, bấy giờ nàng mới biết ai đã đi suốt một đoạn
đường dài với mình. Nàng kêu lên một tiếng hốt hoảng, đưa tay bịt miệng.
Patrul mỉm cười hiền từ và đưa tay đặt trên đầu nàng.
“Hãy tha lỗi cho con”, nàng nói,”Con đã không nhận ra Ngài suốt một thời
gian. Trời đất! Ngài cõng con của con trên vai…và còn con thì lại đòi
cưới Ngài, một vị đạo sư tôn kính”.
Patrul cười và nói rõ lỗi tại Ngài vì Ngài chỉ muốn không ai biết mình
để có thể tự do đi lại trong xứ này như một con chim trời. Sau đó Ngài
quay lại nói với các vị Lạt-ma: "Đây là người mà ta đợi. Cũng nhờ người
này mà ta đến đây. Hãy tặng cho gia đình này tất cả tặng phẩm và hãy lo
lắng cho họ. Hãy xem họ như chính ta”.
Các vị Lạt-ma hiểu rất rõ Patrul muốn nói điều gì: Ngài nói hãy xem họ như chính ta với nghĩa thật nhất.
28. Người đan giỏ
Tại Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau khi Phật nhập diệt, có một chàng thanh
niên nguyện theo hạnh một vị tu sỹ Phật giáo và trở thành một tì kheo.
Chàng trở thành một người khất thực, nguyện diệt mọi dục vọng thế gian
và luôn luôn chế ngự tâm, hướng tâm vào bên trong.
Vị tì kheo sống độc cư trong rừng, nhưng thỉnh thoảng cũng vào làng để
nhận tặng phẩm của mọi người và cũng dùng năng lực của thiền định để hồi
hướng công đức cho dân làng.
Lần nọ, có một nàng thôn nữ, chỉ nhìn thấy vị tì kheo, thấy cách đi đứng
và cặp mắt giác ngộ, nàng liền đem lòng yêu mến tức khắc, không sao
cưỡng nổi.
Nàng đánh bạo bày tỏ tâm tình với vị tì kheo, nhưng vị này cũng nói rõ
đã theo hạnh giệt dục, và sẽ không bao giờ lập gia đình. Thời gian trôi
qua, nàng thôn nữ lẽ ra phải dần quên mối tình, nhưng thực tế lòng say
mê ngày càng sôi sục hơn. Dần dần tình cảm này càng nồng cháy đến độ
nàng không còn biết gì nữa. Bà con bạn bè tìm cách dỗ dành, ác vị trưởng
lão trong làng cũng như các vị tì kheo đều cho thấy mối tình này là vô
vọng. Tuy thế không ai có thể chữa trị nổi lòng đam mê của nàng.
Ngày nọ, vị tì kheo nghe tin nàng không còn thiết sống, muốn tự vẫn. Vị
này liền vào làng và thấy nàng quả thật trong một tình cảnh bi đát, và
không thể làm khác hơn là phải theo lời khẩn cầu của nàng và cha mẹ
nàng, tức là cưới nàng làm vợ."Ta đã nguyện diệt mọi dục vọng thế gian.
Đồng thời ta cũng đã nguyện theo hạnh Bồ-tát, tức là phải tìm cách giúp
mọi loài hữu tình theo khả năng của mình. Trong tình cảnh này phải theo
hạnh Bố-tát thôi”.
Không bao lâu sau, hai người cưới nhau. Trong buổi lễ kết hôn, chàng tự
nhủ "Đã làm cái gì thì làm cho đến nơi đến chốn”. Tì kheo đó trở thành
một người chồng gương mẫu. Chàng đọc ngay trong mắt những ước muốn của
vợ mình và cũng được trả lại bằng tình yêu đậm đà nhất. Hai vợ chồng
tiếp nối công việc đan giỏ của cha ông và dạy dỗ các con trong nghề đan
giỏ. Vị tì kheo ngày xưa thực hành các động tác nghề nghiệp cũng với sự
chăm chú của thiền định, tuy thế không hề tách biệt với người xung
quanh.
Hai vợ chồng ngày càng xây được sản nghiệp lớn lao. Tiếng đồn ngày càng
xa, giỏ của gia đình này có chất lượng vượt xa và nhất là chúng mang lại
nhiều may mắn cho người sử dụng.
Vài chục năm, gia đình này trở nên giàu có và người đan giỏ nọ trở thành
một người danh tiếng, nhiều người đến tìm ông xin ý kiến. Con cháu họ
tiếp tục gia nghiệp và cái làng nhỏ bé nọ trở thành nổi tiếng với nghề
làm giỏ.
Khi người đan giỏ nọ cao tuổi chết đi, người vợ chết theo không bao lâu
sau đó. Cả hai được tái sinh trong cõi cực lạc phương tây, một cõi tịnh
độ của Phật A-di-đà.
Phật A-di-đà, vị Vô lượng quang Phật, tiếp dẫn sự tái sinh và cho người
đan giỏ biết rằng, ông đã làm đúng, khi từ bỏ cuộc đời tu sỹ để cứu mạng
sống của một người khác. "Với lòng từ bi quên mình, ngươi đã thực hành
đúng nghĩa nhất: hạnh diệt dục”,Phật nói như thế,”Vì thế, ngươi và những
người liên hệ nghiệp lực chặt chẽ với ngươi sẽ được nhập Niết bàn không
bao lâu sau nữa”.
29. Tâm thức tự tại
Thời Phật còn tại thế, cách đây trên hai ngàn năm trăm năm, có một tu sỹ
Ấn Độ tên là Khenpo. Khenpo không được vui khi thấy rằng nhiều đệ tử
của mình bỗng nhiên bỏ mình để trở thành đệ tử của Phật Cồ-đàm.
Tới lúc Khenpo nghe vợ một người đệ tử quan trọng nhất cũng muốn theo
học giáo pháp mới của Cồ-đàm thì ông thấy đã tới lúc ngăn cản. Ông cho
gọi người đệ tử đến và bảo: "Pelbay thân mến, ngươi đang có mối nguy
hiểm lớn. Tên hoàng tử Tất-đạt-đa hồi trước ngày nay tự xưng là Phật
Cồ-đàm đang làm ra vẻ là tay đạt đạo. Thực tế y chỉ là một tên phù thuỷ
ích kỉ và ngày nay nếu y khuyến dụ được vợ ngươi..thì, chắc là ngươi
không yên được đâu “.
Pellbay đâm lo, vội chạy về nói với vợ nhưng nàng nhất quyết không để
mất lập trường: "Em sẽ mời Phật và tăng già đến nhà ta dùng bữa trưa,
lúc đó anh sẽ được chứng kiến sự thành tâm và trí tuệ vĩ đại của ngài”.
Pelbay kể lại cho thầy mình nghe, Khenpo liền khuyến cáo: "Ngươi sẽ
thấy, nếu ngươi cho vợ ngươi theo tên đạo sư tân thời này, điều gì sẽ
xảy ra. Chỉ toàn là chuyện khốn khổ! tên Cồ-đàm này cho mọi người biết
rằng y là một nhà tiên tri, đại từ, đại trí! Nhung ta có thể đối trị
điều này rất dễ, Pelbay. Cứ để cho vợ ngươi mời tên Phật đó đến. Ta sẽ
thử thách cái tiên tri đại trí của y trước mắt mọi người”.
Sau đó Pelbay nghe lời thầy cho đào một cái hố trước cửa nhà để cho tên
phù thuỷ mặc áo vàng này rơi vào đó làm trò cười cho thiên hạ. Mặt khác
Peibay cho tẩm thuốc độc vào thức ăn và nhốt vợ trong nhà kho để nàng
khỏi báo trước cho đức Phật.
Phật nhận lời đến dùng bữa trưa và vợ Pelbay quả nhiên bị nhốt. Trước
khi lên đường đến nhà Pelbay, Phật họp các tì kheo lại và dặn đừng ai
vào cửa trước ngài cả. Ngoài ra Ngài không nói gì thêm.
Pelbay đứng đợi sẵn sau cánh cửa lúc đoàn tùy tùng của Phật vừa đến.
Phật đi trước và bước lên tấm thảm đó không hề lún xuống mà lại biến
thành một hồ sen và Phật đi trên đó. Sau cánh cửa, không gian như biến
thành vô tận và bao bọc thân Phật đầy ánh sáng cùng đoàn tuỳ tùng.
Thấy thế Pelbay quì xuống và kêu lớn: "Hãy tha thứ, bạch Thế Tôn. Con đã
gây tội lỗi không thể tha được”. Phật nghe lời sám hối của Pelbay và
trả lời bằng bài kệ:
“Tâm giác ngộ đã vượt lên
Mọi nhị nguyên.
Làm sao mà Thiện hay Ác còn đụng đến nó được nữa.
Tâm tỉnh giác xa lìa moị dục ái
Của ba độc(tham, sân, si)
Làm sao cái khổ còn đụng đến nó được nữa.”
Phật Cồ-đàm cho phép mọi tu sĩ được thọ thực. Sau đó, ngài nhờ Pelbay
thả vợ ra và đưa đến bàn ăn. Pelbay làm theo lời Phật rồi quì xuống đấm
ngực: "Bạch Thế tôn, xin Ngài cùng đoàn đừng ăn xin đợi chúng con nấu
món khác. Con biết Ngài là một đấng tiên tri và đã nhìn suốt con người
của con. Lòng từ bi của Ngài là vô hạn, nhưng con sẽ không bao giờ được
yên nếu Ngài hay bất cứ ai trong đoàn bị ngộ độc”.
Đức Thế Tôn lại trả lời bằng một bài kệ:
“Tâm giác ngộ là xa lìa
Mọi điều Phải hay Trái.
Làm sao mà nó còn quan tâm đến Đúng hay Sai.
Tâm tỉnh giác vượt lên mọi tác hại của ba độc
Làm sao chất độc thường tình còn đụng đến nó.”
Thế rồi đức Phật cùng đoàn bắt đầu thọ thực, Pelbay sợ hãi kêu gào. Sau
khi cám ơn lòng hiếu khách của gia chủ, Phật rời nhà và cũng là người
bước lên tấm thảm trước và tấm thảm lại biến thành hồ sen. Còn Khenpo
tuyệt vọng ngồi suốt buổi phía sau, ông ta đã nhìn thấy tất cả, trốn ra
cửa nhà bằng cửa sau và không bao giờ xuất hiện nữa.
30. Tên trộm qui y dưới chân cầu
Ngày xưa có một vị Lạt-ma sống bên dòng sông Dzachu tại miền Đông tây
Tạng và suốt đời thực hành thiền định. Phật tử dâng cúng tặng phẩm mỗi
ngày nhưng vị Lat-ma chỉ lấy thực phẩm, còn các thứ khác nằm ngổn ngang
không ai để ý.
Có một tên trộm thấy vậy liền nghĩ: Vị Lạt-ma này làm công việc của ta
khoẻ thật! . Y mò tới và nhặt vài tặng vật nghệ thuật mà các tín đồ đặt
lên bàn thờ của vị Lat-ma. Lúc đó vị Lat-ma đang thiền định, mặt quay về
hướng sông. Tuy thế Ngài vẫn có cảm giác về một năng lực đen tối sau
lưng mình và một tâm hồn đang gây ác nghiệp.
Ngài đứng dậy, chụp cổ tên trộm. Vị Lạt-ma nhìn sơ qua tên trộm biết
ngay người này tuy đang bị những năng lực đen tối chi phối nhưng vẫn
chưa bị cái ác chiếm đoạt hoàn toàn.
Nhanh như chớp, vị Lạt-ma chụp một cuốn kinh, đập lên đầu tên trộm và
đọc nhiều lần: "Con xin quy y Phật, con xin quy y Pháp, con xin quy y
Tăng, con xin quy y Tam bảo”. Sau đó Ngài thả tên trộm ra đi, không nói
lời gì cả.
Sau đó tên trộm nằm nhoài dưới chân cầu, còn vị Lạt-ma thì tập trung tâm
thức của Ngài lên hình ảnh, tâm tên trộm sẽ sáng lên một mức và bớt bị
những ác nghiệp chi phối.
Nửa đêm thì tên trộm tỉnh dậy từ cơn mê ngủ và thấy xung quanh ma quỉ
đen tối đứng bao vây mình. Sợ hãi, tên trộm định la lên nhưng y chột nhớ
những câu mà vị Lat-ma mới đọc cách đây có mấy tiếng. Y thầm đọc quy y
Tam Bảo, quy y Pháp, Phật, Tăng. Ngay trong lúc đọc, y đã thấy các linh
hồn ma quỉ tự ý rút lui, vì chúng không thấy tên trộm còn là bạn bè với
chúng nữa.
Trong những ngày và tuần lễ sau đó, lúc nào tên trộm cũng đọc quy y và
tới một lúc nọ, y thu hết can đảm tìm gặp lại vị Lạt-ma và xin Ngài cho y
làm đệ tử.
Như tất cả mọi người đều biết, quy y Tam bảo là bước đầu của cuộc hành
trình trên con đường đạo, trên đó các cánh cửa của tri kiến thánh đạo sẽ
mở được ra. Ai kiên trì luyện quy y một cách thành tâm, người đó sẽ
thoát khỏi sự chi phối của những năng lực xấu ác và được thanh lọc. Đó
là trường hợp của tên trộm quy y dưới chân cầu và sau bản thân vị đó
cũng có nhiều học trò. Nhờ niệm quy y mà các đệ tử đó đều được giải
thoát khỏi ảo giác của mình.