1. Người quay bánh xe
Tại Tây Tạng, ‘mani’ hay bánh xe cầu nguyện là một loại bánh xe với vô
số mật chú và văn tự bí ẩn, thường được quay xung quanh một trục, cùng
chiều kim đồng hồ. Nhiều ‘mani’ nhỏ như đầu ngón tay út, có thứ to như
cả một căn phòng. Từ xưa, người Tây Tạng thường đặt bánh xe này trong
dòng nước chảy để bánh xe được quay mãi với thời gian, để công đức của
lời cầu nguyện lan tràn trong xứ sở. Tương truyền rằng, ai quay bánh xe
hay treo cờ cầu nguyện trong gió, người đó sẽ thực hiện được ước nguyện
của mình.
Tỉnh Kham tại Tây Tạng cũng được ví như miền Tây hoang dã của nước Mỹ
ngày xưa. Dân miền Kham vốn là dân kị mã và chuyên nuôi ngựa. Chỉ cách
đây khoảng trăm năm, Kham gồm có nhiều tiểu quốc biệt lập có quân đội
riêng. Ở đây người dân phải thi hành nghĩa vụ quân sự, không có thanh
niên nào được miễn.
Ngày xưa, ở miền Đông tỉnh Kham có một ông lão, người ta gọi tên ông là
‘lão quay bánh xe’, vì tay ông suốt ngày quay bánh xe cầu nguyện. Bánh
xe này mang mật chú đại bi, Án Ma Ni Bat Mê Hồng, và do ông lão tự đẽo
lấy.
Bà lão vợ ông đã chết từ lâu, sau một cuộc đời đáng quý trọng và đã tái
sinh trong một cảnh trời. Từ ngày đó, ông lão sống trong một lều đá với
đứa con trai duy nhất mà ông hết lòng thương yêu. Đứa con này có một con
ngựa tuyệt vời, và nó yêu con vật này hơn mọi thứ trên đời.
Một ngày kia, con ngựa bỗng biến đâu mất, không còn gặm cỏ trên thảo
nguyên, tìm đâu cũng không thấy. Nhiều người tốt bụng cũng đi tìm ngựa
giúp ông, cuối cùng không tìm ra, họ bắt đầu than van cho số phận hẩm
hiu của ông. Còn ông lão lại bình thường như không. Tay ông quay bánh xe
và niệm chú ‘Án Ma Ni Bat Mê Hồng’, như người Tây Tạng hay thầm đọc mật
chú đại bi này của chư Phật thương xót loài hữu tình. Ông nói với người
hàng xóm thường than thở thay ông: ‘Bạn thân mến, than thở làm gì...
Bạn biết không, cái đến, cái đi đối với tôi, tôi đều thầm cảm tạ cả. Cứ
đợi đi ta sẽ thấy’.
Chỉ vài ngày sau, con ngựa bỗng quay trở về như một phép lạ. Và cùng với
nó có hai con ngựa hoang đẹp tuyệt. Ông lão và đứa con trai bắt đầu sắm
sửa đai cương cho ngựa. Hàng xóm mừng rỡ đến vỗ vai chia vui. Ông lão
lại quay bánh xe và nói: ‘tôi hết lòng cảm tạ sự may mắn này, nhưng ai
biết đâu, đợi đấy. Ta sẽ thấy’.
Vài tuần sau, đứa con trai cưỡi ngựa hoang bị té gẫy chân. Hàng xóm mang
đứa con về, than khóc cho sự rủi ro này, đứa con không làm việc được
nữa. Ông lão ngồi im lặng thì thầm trước giường con, nhưng không hề than
thở. ‘Cảm tạ đức Quan Thế Âm, dù sao con tôi cũng còn ở bên tôi. Hãy
đợi xem’.
Không đầy một tuần trăng sau, lính tráng nhà vua đi lùng sục bắt thanh
niên nhập ngũ để chiến đấu chống quốc vương láng giềng. Chỉ đứa con nằm
liệt giường kia mới khỏi bị kêu đi. Hàng xóm vui mừng cho ông, vì ông là
người duy nhất còn có con trai bên mình. Ông lão mỉm cười, đặt bàn tay
nhăn nheo lên đốt chân gãy của đứa con, đưa mắt nhìn ba con ngựa đang
gặm cỏ ngoài đồng. Ông lão hát bài kệ tặng con:
“Cuộc đời mãi quay nhanh,
Lên xuống như bánh xe nước.
Thân này đã hiện hữu bao lần, quay tròn vô tận,
Thân này đã lấy hàng ngàn dạng hình khác nhau
Mỗi loại dạng hình lại huỷ hoại, lại hình thành
Như đất sét ướt thành hình trên bánh xe người thợ gốm
Cái thấp sẽ lên cao, cái cao lại xuống thấp,
Rồi một ngày-cứ đợi đi,
Cái tối tăm sẽ sáng tỏ; người lắm của
Sẽ mất gia sản; mọi hình thái sẽ thay đổi,
Trong trò nhảy múa vô tận của hai mặt nhị nguyên.
Con ơi nếu con là một đứa trẻ đặc biệt,
Người ta sẽ khám phá ra con thuộc một dòng tái sinh
Và cho con vào tu viện với các Lạt-ma.
Nếu con khôn ngoan và ăn nói trôi chảy
Người ta sẽ cho con làm việc văn phòng
Và cột mình sau cái bàn viết.
Mỗi con ngựa tặng con một đống việc phải làm,
Mỗi giàu sang chấm dứt bằng sự tranh chấp,
Ai biết được, ngày mai nghiệp nào sẽ ào tới.
Ngày hôm nay gieo gì, một kiếp nào nó sẽ chín,
Và sẽ gặt trọn vẹn, đó là điều chắc chắn.
Vì thế hãy tốt với mọi điều-vô tâm không phán đoán,
Không tham cầu điều ác xấu.
Tất cả, thêm hay bớt, được hay thua,
Đều chỉ là ảo ảnh.
Đừng hy vọng, cũng đừng sợ hãi, con ơi,
Đừng mong cầu, và vì thế cũng chẳng thất vọng.
Chấp nhận tất cả, nó đến hay nó đi,
Và sống thuận theo lưới trời lồng lộng.
Hãy thật giản dị, chẳng lo âu
Và sống thuận tính đang ở trong con,
Và yên nghỉ trong niềm vui của tự tính.
Con có thể bắn bầu trời bằng bao nhiêu mũi tên,
Bao nhiêu cũng được con à
Nhưng chúng sẽ rơi trở lại xuống đất tất cả.
2. Lời cuối cùng của Milarepa
Jetsun Milarepa(1) là một vị tăng phiêu bồng nổi tiếng nhất Tây Tạng,
đồng thời là một du ca. Ngài sống cách đây khoảng chín trăm năm trong
một hang đá ở Hi mã Lạp sơn và đặt những bài ca kệ một cách bất ngờ,
không suy nghĩ, người đời sau viết lại thành sách và ngày nay, trong thế
kỉ 20, sách này đã được in ra nhiều thứ tiếng, để lại cho chúng ta.
Tương truyền rằng, Milarepa là người đạt giác ngộ hoàn toàn chỉ trong
một đời làm người, và bằng cách tu tập thiền định trong một cuộc sống
độc cư hàng chục năm trời. Trong thời gian tu tập Ngài sống bằng một
loại rau mọc hoang, ví vậy da Ngài mang màu xanh. Vì lẽ đó mà học trò
ngài, bên cạnh những cái tên tôn quý tặng Ngài, còn gọi là ‘tu sĩ màu
xanh’.
Đạo sư của Milarepa có tên là Marpa(2), một nhà tiên tri nổi tiếng, đã
từng thiền định mười bảy năm tại Ấn Độ và là người mang giáo pháp ‘Đại
Pháp Ấn ‘ từ Ấn Độ qua Tây Tạng. Một trong những học trò giỏi nhất của
Milarepa là Gampopa(3) mà câu chuyện sau đây kể về ông.
Gampopa là một y sĩ và đã là một Lạt-ma thông thái. Một ngày kia, ông
bỗng thấy linh ảnh của một vị tăng sỹ màu xanh, tóc tai rối bù. Trong
ảnh đó, vị tăng sỹ nhìn ông cười, mắt sáng long lanh và nhổ nước bọt vào
mặt ông.
Không bao lâu sau đó, Gampopa bắt đầu du phương, đó là một điều mà các
vị Lạt-ma thỉnh thoảng vẫn làm. Trên đường đi, ông bị lạc vào một vùng
hẻo lánh của Hi mã Lạp sơn và quả nhiên gặp một người có da màu xanh,
trông rất ốm yếu. Gampopa đi từ từ đến vị tăng sĩ ở trần, chắp tay chào
hỏi, đó là người đầu tiên ông gặp sau mấy ngày đi lạc. Milarepa nhếch
mép cười khi thấy Gampopa ngần ngừ bước vào. Không nói gì cả, Milarepa
đưa cho Gampopa một cái sọ người đựng đầy tràn một loại bia và yêu cầu
Gampopa uống hết, theo cách của Mật giáo bày tỏ phép tâm truyền tâm giữa
thầy và trò. Gampopa từ chối không uống, ông không thể uống rượu vì
giới luật không cho phép. Milarepa cười lớn, giống như trong linh ảnh đã
hiện, và nói ngay rằng, theo học một vị Phật đang hiện tiền tốt hơn bám
giữ vào một giới luật. Ngay tại chỗ, Gampopa uống cạn một hơi. Sau đó
Gampopa nhìn vào mắt Milarepa và nhận ra rằng, linh ảnh đã biến thành sự
thật: vị tăng sĩ giác ngộ này xem như đã nhổ vào mặt ông và đã trao
truyền năng lực cho kẻ thông thái nhưng chưa thực sự thức tỉnh đó. Cũng
trong phút đó, Mirarepa biết đã tìm ra truyền nhân của mình.
Sau đó, Gampopa ở lại với thầy mình nhiều năm, tu tập thiền định và nghe
giảng pháp. Một ngày kia, Milarepa cho hay Gampopa đã chín, đã tới lúc
rời thầy ra đi. Tới ngày từ giã thầy và xa thầy mãi mãi, Gampopa quì
dưới chân Milarepa, để cho vị đạo sư để hai chân lên đầu mình và nhận
một luồng chân khí, nhờ đó Gampopa đạt được tâm thức đại viên cảnh chí
của Phật.
Sau buổi lễ này, Gampopa xin thầy cho một lời nhắn nhủ cuối cùng.
Milarepa nhún vai và nói: “ngồi thiền thì ngươi còn phải ngồi nhiều và
thường xuyên, còn học thì tuyệt đối không còn gì để học nữa”. Sau đó,
Milarepa không nói gì nữa. Gampopa xuống núi, vừa đi qua khởi một con
suối thì nghe phía sau Milarepa kêu réo: “ta còn một lời dạy cuối cùng”,
tiếng kêu lẫn trong tiếng suối reo. “và lời này thật sự là bí mật và
thâm sâu, riêng giành chỉ dạy cho những bậc xuất sắc nhất trong giới
thượng căn”.
Gampopa yên lặng nín thở, tim đập thình thình. Milarepa quay lưng lại,
vén váy lên và cho Gampopa thấy mông đít đã đóng thành sẹo sau nhiều năm
ngồi trên đá. “lời dạy cuối cùng của ta đây hãy nhớ”. -Milarepa kêu to.
3. Qua sông
‘Dakini’ là những năng lực giác ngộ nữ tính, có thể hiện hình với những
hình dạng bất kì và được người Tây Tạng tôn là ‘nữ thần nhảy múa’, vì
các vị đó đại diện cho sự ‘nhảy múa’ của một nữ tính cơ bản, đó là thể
tánh mà tự đó mọi hiện tượng mang tính không gian và thời gian xuất phát
và sau cái chết lại qui hoàn. Vajra Yogini, ‘Nữ thần Kim cương’ được
xem là chúa của tất cả Nữ thần.
Một ngày kia, hai vị tăng trên bước đường du phương đến bên một dòng
suối nước chảy xiết, bên bờ có một bà cụ, mang bệnh hủi chờ ai đến giúp.
Bà lão rên xiết, giơ hai bàn tay cùi hủi cầu khẩn hai vị tăng giúp qua
được bên kia suối.
Vị tăng đầu tiên quay mặt đi, tỏ vẻ kinh tởm mùi tanh hôi của thứ bệnh
truyền nhiễm này. Vị đó vén váy và lội qua bên kia dòng. Qua rồi, vị đó
đứng lại và đưa mắt tìm lại người bạn đồng hành.
Vị tăng thứ hai thấy thương thương xót bà lão và cuối cùng cõng bà lão
trên vai. Ngay giữa dòng, vị tăng hầu như không chịu nổi sức nặng và sắp
bị nước cuốn đi. Vị thứ nhất vừa muốn nói ‘Đó, anh thấy chưa!’ thì một
bài học xảy ra. Bà lão ngồi trên vai bỗng chốc biến thành Nữ thần Kim
Cương của trí huệ và hiện ra trong vẻ đẹp rực rỡ, trên đầu vị tăng thứ
hai, người đang cõng bà lão qua suối. Từ trên không trung, Nữ thần thò
tay trắng muốt đến vị tăng đang chìm, kéo lên, đi vào thế giới của năng
lực giác ngộ.
Vị tăng thứ nhất đành tiếp tục cuộc hành trình một mình và sẽ còn suy
nghĩ rất lâu về Trí huệ của lòng từ bi và về tính chất giả tạo của hiện
tượng sắc thể.
4. Chiếc răng chó mầu nhiệm
Ngày xưa có một bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán,
phải đi Ấn Độ và Tây Tạng thường xuyên. Ngày kia, đứa con trai sắp phải
lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ bảo: ‘Giác Thành’(4), (Bodh Gaya) tại Ấn
Độ là nơi đức Phật Thích Ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang về một ít
xương tro hay bùa chú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ và xem như sự hiện diện
của chính đức Phật trong nhà mình. Năm này qua năm khác, bà mẹ nhắc
nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không thực
hiện được lời mẹ dặn.
Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói: ‘Nếu lần này
con không mang gì cho mẹ từ Giác Thành về để mẹ thờ, thì mẹ sẽ tự tử
chết thôi’. Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ
không quên.
Sau vài tháng làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng
mình đã không ghé ngang Giác Thành để tìm xương tro cho mẹ. ‘Làm sao bây
giờ ?’, anh ta tự hỏi’Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho
bà’. Anh ta nhìn quanh thì thấy một con chó chết đã khô. Người con vội
vàng nhổ một cái răng chó, quấn lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa.
Về đền nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ ‘Đây chính là một chiếc răng
của Phật Cồ-đàm, bậc Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết
lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó,bà tìm được sự an
lạc nội tâm,điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm.
Cũng không bao lâu sau thì bạn bè và hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một
thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền
ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lão và
xin được tiếp một chút năng lực của chiếc răng mầu nhiệm. Tới ngày bà
lão chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và miệng bà mỉm cười
làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu rằng, bà đang trở về tự tính,
từ đó mọi vật được sinh thành.
Kể từ ngày đó người ta biết rằng, một chiếc răng chó cũng trở thành mầu
nhiệm, nhưng với điều kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp
nhận và lòng từ bi của một vị Phật kết hợp với nhau.
5. Bức tượng biết nói
Kongpo là một tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là đầy tín tâm và không mấy người có trình độ hiểu biết.
Trong số các tu viện Tây Tạng thì ‘Jokhang’ tại Lhasa là linh thiêng hơn
cả. Trong viện có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn
niên thiếu và được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quí). Tượng
Phật này được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là
phẩm vật của một công chúa kết duyên với vua Tây tạng thời đó.
Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng
vẻ đẹp của tu viện Jokhang, của tượng Phật linh thiêng nhất Tây Tạng.
Một ngày kia, Ben được lên đường đi Lhasa để tận mắt chiêm bái thánh địa
này.
Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như
người mất hồn trong các con đường của ‘thành phố chư thiên’ này… nhìn
thấy điện Potala(5), Ben thật là xúc động, đó là nơi mà Đức Quán Thế Âm
(6) đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt lai Lạt-ma.(7)
Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala!
Thật tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị
nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính
nghệ thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng trọng nhất như Sêra
và Drepung, nơi đào tạo tăng sĩ. Ben tự nhủ thầm: ‘may mắn thay cho ta,
đời ta còn có thể thấy được những nơi này’.
Sau đó Ben vào tu viện Jokhan, và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế
ngồi liên hoa, to như người thực, toả ra một cảm giác tôn quý thầm lặng
mà vĩ đại.
Ben quỳ lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào hầu như cũng mắc kẹt
với đôi ủng cũ kĩ, rồi chiếc mũ đầy bụi của Ben lại rơi xuống đất. Ben
cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng bức tượng đang mỉm cười yên lặng và nói:
‘hỡi Jowo Ripoche, hãy coi chừng giùm các thứ này để cho con yên tâm
chiêm bái tiếp’.
Ben đi chân không vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục
ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám
ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi toả sáng của Jowo Rinpoche, Ben
mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành.
Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa lớn tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc
nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất,
cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ
trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ
được Phật nhận lời.
Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng
sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật
và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben.
Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một
tiếng nói huyền bí cất lên: ‘dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu
quý ở xứ Kongpo của ta!’.
Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin
tượng tha thứ sơ xuất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một
mình trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo
cách riêng của anh ta với vị ‘Đức hạnh cao quý’.
Sau đó Ben về lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói
chuyện với chàng đã về trước, nếu có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ
nói lơ: “ôi, thời buổi này chẳng biết tin nào đúng tin nào sai’.
Người ta đồn rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben
thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò
tay vào nước vớt tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng vì tượng
nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước và
mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.
Đến ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi quanh hố đất với dấu tích
của Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Tu viện
Jokhang ở kinh đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng
vị ‘Đức hạnh cao quý’ thì ở rất gần họ.
6. Giải thoát mọi loài
Một vị Lạt ma già nọ kiếm được một tảng đá bằng phẳng bên cạnh một cái
hồ để chuyên tâm thiền định. Mỗi ngày ông đều ngồi đó. Đó là một cái hồ
đầy ếch nhái chuyên ăn côn trùng. Nhưng cứ mỗi lần bắt đầu ngồi thế liên
hoa để đạt tâm thức sâu kín của tự tính thì lại một lần ông thấy một
côn trùng giãy giụa trong nước, dường như cần đến ông giúp đỡ. Lần nào
cũng thế, vị sư già lại phải xuất thiền, lại cử động cái xương cốt đã
già, lại giải cứu thứ côn trùng tí hon này, sau đó mới lại nhập định.
Lần lần các vị tu tập thiền định và Lat-ma khác bắt đầu chú ý đến ông,
một người không bao giờ ngồi yên và hầu như dùng thời gian thiền định để
giải cứu côn trùng. Tuy người Tây tạng nào cũng biết cần cứu vớt loài
vật, nhưng có vài vị tăng khuyên ông nên kiếm một chỗ khác thiền định
chứ đừng ngồi bên hồ nữa. Họ nói: ‘nên chăng đi kiếm một nơi khác mà
ngồi để thiền định, không ai quấy rầy?’. Có người nói: ‘nên chăng trước
hết cần thoát khỏi mọi ảo giác? Sau đó, khi đã giác ngộ ta có thể giúp
mọi loài hữu tình, chứ không thể giúp như thế’. Một Lạt-ma trẻ tuổi khác
lại nói: ‘nên chăng khi thiền định cần nhắm mắt lại để chưyên tâm quán
tưởng vào cái chủ yếu nhất, tính vô thường của chính bản thân tâm thức
mình’.
Sau khi nghe mọi lời góp ý, vị Lạt-ma già cúi đầu cảm ơn các tăng sỹ và
nói: ‘các bạn có lí, hỡi các vị nam nữ. Nhưng một kẻ già yếu và thấp kém
như tôi, đã nguyện theo lòng từ bi của đức Quán Thế Âm, thực hiện hạnh
nguyên đó trong đời này và mọi đời sau,lại có thể ngồi yên và đọc mật
chú đại bi trong lúc loài hữu tình bất hạnh đang chết đuối trước mắt
mình?’
Không ai trả lời cả.
7. Kẻ phiêu bồng giác ngộ
Patrul Rin poche(8) được xem là bậc thầy hiệu quả nhất của phái Đại
Thành(9)(Dzogchen) trong thế kỷ 18. Đại Thành có nghĩa ‘Tri kiến trực
tiếp về tự tính thanh tịnh’. Vì vậy Đại Thành không phải chỉ là một tông
phái hay một phép tu, không chỉ là một dòng tái sinh, không phải chỉ là
trạng thái đạt đạo. Đại Thành chính là tinh yếu của giáo pháp đức Phật.
Vì lẽ đó mà Patrul Rinpoche được xem không phải chỉ là một vị đạo sư,
thi sĩ hay nhà tiên tri, Ngài cũng là một vị Phật hoàn toàn. Thực ra,
người ta xem Ngài là một trong những tái sinh của Đức Quán Âm(6) mà
người Tây Tạng gọi là ‘Chenrezig’: lòng đại bi.
Có lần trong một chuyến du hành Patrul Rinpoche gặp một nhóm Lat-ma, các
vị đó trên đường tham dự buổi lễ tại miền Đông Tây Tạng. Các vị Lạt-ma
không nhận ra Patrul, thấy ngài trong bộ quần áo nhàu nát, với thái độ
kiêm tốn, cho rằng đây cũng chỉ là một kẻ tầm đạo. Vì thế họ vui lòng
cho Patrul tham gia trong nhóm, bắt nấu trà, nhóm củi và phục vụ các vị
lớn tuổi trong đoàn.
Đoàn vừa đến vùng Kham thì có tin gần đó có một vị Lat-ma cao cấp sẽ chỉ
dẫn và khai thị cho đoàn. Nhóm Lạt-ma vội vàng lên đương để tham dự
buổi lễ
Tất cả Lat-ma và cư sĩ được đưa vào ngồi theo thứ tự chính thức, người
được ngồi trên ghế trọng vọng, kẻ phải đứng ở xa. Các vị tăng mang nón
mũ, áo quần, huy hiệu hết sức rực rỡ. Vị tăng thống ngồi trên một bệ
cao. Sau khi tiếng còi, tù và, chiêng trống dứt hẳn và phần nghi lễ đã
qua thì mọi người hiện diện lần lượt đi qua trước vị đó để nhận phép
lành và gửi nơi chân vị Tăng thống một tấm khăn trắng.
Trước hết vị Tăng thống đưa tay rờ đầu các người đi ngang. Về sau khi
thấy đoàn người quá nhiều đi không muốn hết, ngài chỉ còn rờ đầu bằng
một sợi lông công. Hàng giờ trôi qua, cuối cùng người còn lại là một kẻ
quần áo lôi thôi, vốn đi nấu trà cho một nhóm tăng sỹ không mấy quan
trọng.
Vị Tăng thống bỗng mở mắt thật lớn nhìn con người có dáng vẻ phiêu bạt
đang quì dưới chân mình. Nguời đó không ai khác hơn hính là một vị Phật
đang hiện tiền,vị đạo sư Đại Thành (dzogchen) Patrul Rinpoche độc nhất
vô nhị và người đó lại đang xin phép lành của mình.
Vị Tăng thống nhảy ào từ trên cao xuống, nằm mọp dưới chân kẻ áo quần
rách rưới. Đám đông hoảng hốt kêu lên sợ hãi, vị tăng thống ngồi dậy,
dúi vào tay Patrul Rinpoche sợi lông công rồi lại quỳ xuống. Patrul
khoát tay từ chối, sau đó đưa tay nâng vị tăng thống lên, không để cho
vị này cứ quì lạy mình mãi.
8. Tu tập hạnh nhẫn nhục
Cách đây khoảng một thế kỷ, vào thời đại sư phái Đại Thành là Patrul Rin
poche chuyên độc hành mọi nơi, với một chiếc áo lông cừu cũ nát, không
mấy người hay biết. Trên bước đường rong ruỗi, Ngài có nghe nói đến một
vị ẩn cư cả chục năm nay trong một hang động tối yăm, chuyên tâm thiền
định và đã đạt được thần thông đáng kể.
Patrul lên đường tìm gặp vị tu sĩ này và xem mình có thể giúp được gì
cho người này không. Patrul đột ngột đi thẳng vào hang động đó, ngồi bên
cạnh và cười thân thiện. Người tu sĩ nọ hỏi: ‘ngươi là ai, từ đâu đến
và đi về đâu trong cái xứ trơ trụi này?’. Patrul đáp: ‘tôi đến từ sau
lưng tôi và đi về phía trước”. Kẻ độc cư hỏi: ‘thế ngươi sinh ở đâu?’.
‘Ở trên trái đất’. Tu sĩ bắt đầu mất kiên nhẫn: ‘hãy nói tên ngươi ta
nghe’. “vô tích sự”-Patrul đáp. Sau khi trả lời, Patrul hỏi tại sao tu
sĩ lại ẩn cư trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Kẻ ẩn cư này hầu như chỉ
đợi câu hỏi đó, trả lời một cách hãnh diện: ‘ta ngồi đây đã hai mươi năm
để thiền quán và tu tập hạnh nhẫn nhục’.
‘Đáng khâm phục’, người khách trả lời và lè lưỡi tỏ vẻ nể trọng. Sau đó
Patrul kề môi nơi tai người tu sỹ: ‘nhưng hai kẻ già đời như chúng ta
đều biết thừa rằng chẳng bao giờ đạt được cái đó, phải không nào?’.
Người tu sĩ nhảy dựng ra khỏi thế ngồi liên hoa: ‘Ngươi muốn gì mà quấy
rầy ta một cách thô bỉ thế? Ngươi là ai mà lại dám không kính nể ta?’
Patrul trả lời: ‘vâng, chúng ta là gì, là ai, bạn và tôi, và… hạnh nhẫn
nhục của bạn đâu rồi?’
9. “Con chó thân mến”
Thời còn trẻ, Patrul Rin poche là học trò của nhiều đại sư nổi tiếng vào
thế kỷ 19. Vị thượng tọa Gyaway Nyugu vừa chỉ dạy cho Patrul về Phật
tính ẩn náu bên trong thì Patrul gặp đại sư Doe Khyentse(10). Đây là một
vị sư có tính tình kì cục và lần đó đã chận cửa không cho Patrul vào
thăm một người bạn.
‘Ê, hộ pháp vĩ đại kia, ngươi biết ta là ai không?, Doe Khyentse châm
chọc. Patrul đã nghe danh ông sư kỳ quái này rồi. Ông đã từng xách súng
qua làng qua xóm, hăm doạ nhiều người, làm người ta giật mình sợ hãi,
với mục đích là đánh thức giấc ngủ tâm linh triền miên của con người.
“Ngươi hãy tới gần đây, nếu ngươi có gan!”, Doe Khyentse hăm. Patrul tới
gần ông sư đáng sợ đó. Doe chụp tóc thắt bím của Patrul, quật ngã sóng
soài. “Hơi thở của Doe Khyentse có mùi bia. Ông ta đang say, ta không
chấp”, Patrul nghĩ thầm. Nhưng Doe Khyentse là người đọc được ý nghĩ của
người khác. “ngươi là kẻ dùng trí, kẻ học rộng biết nhiều, là kẻ ưa
thích phân biệt”, ông hét. ‘bộ ngươi không biết rằng tất cả đều thanh
tịnh, tất cả đều hoàn hảo ư, con chó thân mến!’. Ông giơ ngón tay út
lên, đối với người Tây Tạng, đó là cử chỉ khinh bỉ nhất, nhổ vào mặt
Patrul rồi đi mất.
Ngay lúc đó học trò Patrul bỗng đạt một bước giác ngộ. Trong một tia
chớp của tuệ giác, Patrul nhận ra rằng, tâm thức phân biệt của mình vốn
không hề rời tâm giác ngộ rực sáng của Phật, vô thuỷ vô chung là một với
thể tánh đó, từ thể tánh đó mà phát ra thiên hình vạn trạng sự vật.
Một niềm an lạc vô biên tràn ngập trong lòng Patrul. Patrul ngồi yên
trong bụi cát, nơi mà Doe đã ném huỵch ông xuống đất, để cho mặt trời
chiếu rực trên đầu và không cần để ý người qua kẻ lại.
Ngày sau, khi Patrul được tôn thành Rinpoche (cao quý), Ngài vẫn thường
nhằc lại phương tiện giáo hoá của thầy mình và nói: ‘nhờ tính bất ngờ vô
song và lòng từ bi của đức Khyentes mà một trong những danh hiệu của ta
là “con chó thân mến”. Với lòng sở cầu và tâm vô phân biệt, ta đi khắp
xứ sở. Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ”.
10. Ba người trên cây
Tu viện Katok được phương trượng tên là Dampa Deshek thành lập trong thế
kỉ 12. thời đó Dampa Deshek được xem là một vị đại sư nổi tiếng, nhiều
người xa gần đều đến khi nghe tin đại sư giảng pháp và cử hành nghi lễ
Mật Tông.
Trong các dịp đó, đại sư Deshek thường ngồi trên bực của, một bao lơn,
các vị Lat-ma cao cấp đứng hai bên tả hữu. Sân tu viện thường đầy chặt
người nghe, có kẻ phải leo lên nóc nhà, không bao giờ có dư một chỗ
đứng.
Lần nọ, khi Dampa Deshek đã bắt đầu cử hành nghi lễ thì có ba vị tăng
khất thực xin vào nghe giảng nhưng không được trật tự viên cho vào vì
không còn một chỗ nào còn trống, dù là một góc nhỏ xa chính điện nhất.
Ba vị đó là những người đi bộ từ vùng núi non hẻo lánh Gayrong đến, áo
quần xốc xếch, mình đầy bụi bặm và mệt mỏi. Cả ba đành đi vòng quanh tu
viện, cuối cùng họ tìm được một cây cao, từ trên cây nhìn xuống có thể
thấy đại sư Deshek, nhưng xa quá nên không nghe được tiếng nào.
Cả ba tìm dây trèo lên cây, ngồi vắt vẻo trên cành để nhìn vào chính
điện. Nông dân gần đó thấy ba người hình dạng tả tơi, nhướng cổ ngồi
trên cây, họ bảo nhau: ‘xem kìa, ba con kên kên trên cây kìa, không biết
đi từ đâu xa đến mà không được gì cả.’
Nhưng người nông dân đó đã lầm. Trong khi cử hành nghi lễ, Dampa Deshek
có một cảm giác không thể nhầm lẫn rằng có ba người đang theo dõi hình
ảnh của mình một cách chăm chú. Ngài liền tập trung năng lực mình lên ba
người đó, đám đông không hề hay biết. Và ba vị tăng khất thực trên cây
bỗng hiểu rõ ràng ý nghĩa từng cử chỉ ấn quyết của đại sư mà không cần
nghe một tiếng nào.
Cuối nghi lễ thì huệ nhãn của ba vị tăng được mở, tức là ba vị đã đạt
thêm một quả vị nhất định. Vui mừng trước thành quả đó, Dampa Deshek đọc
bài kệ:
“Emaho! Dạng hình sắc thể của các loài
Thật thiên hình vạn trạng và chỉ là ảo ảnh.
Hôm nay, ba con chim lạc bước đến đây
Và trong số những người đạt đạo ngồi quanh,
Họ đã đạt chính giác…
Ngoài đó bên kia vách tường của tu viện,
Ngồi trên đỉnh ngọn cây,
Cổ vươn dài, Emaho!"
11. Geshé Ben, kẻ cắp
Thời còn trẻ, Geshé Ben là một tăng sĩ khất thực tại Tây Tạng và kiên
trì giữ giới luật Đại thừa. Ben sống vào thế kỉ 11 và là một người tu
tập nghiêm túc cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn.
Theo truyền thống Tây Tạng, một ngày nọ, Ben được một gia đình mời thọ
thực. Trong lúc cả gia đình đang dọn bàn cho chú tiểu tăng đang đói bụng
thì Ben lại vào trong bếp. Bỗng nhiên, Ben khám phá ra chính bàn tay
mình đang thò vào một bao bố đựng đầy trà thơm ngát. Hoảng sợ, Ben kêu
to: ăn trộm, ăn trộm’ và tự đánh vào bàn tay tham lam của mình. Cả gia
đình chạy vào bếp:’tên ăn trộm đâu?’, người cha gầm lên và cầm sẵn cây
gậy để bảo vệ cho gia đình. ‘Đây, đây’, Geshé Ben mặt đỏ hồng hổ
thẹn’tôi vừa tự bắt gặp chính mình đang lợi dụng lòng tốt của quý ngài’.
Sau đó Geshé Ben nguyện lớn rằng, sẽ tự chặt tay nếu còn tái phạm.
Gia đình tín đồ nọ mỉm cười vui vẻ và khoát tay bỏ qua nhưng họ biết
rằng vị đại sư nội tâm của chú tiểu tăng này đã lên tiếng và họ đang
chứng kiến một biến cố quan trọng. Họ nghiêng mình kính cẩn trước người
khất thực trẻ tuổi này như trước một vị Lat-ma cao cấp và cám ơn đã nhận
được một sự biểu lộ khó quên của Trí huệ cao tột.
12. Phẩm vật cúng dường cao quý nhất
Geshé Ben sống nhiều năm trong một hang động núi non ở Hi mã Lạp sơn.
Bao nhiêu thế hệ các vị tu sĩ ngày trước đã từng sống ngay trong hang
động đó và ngày nay còn lại một cánh cửa đá, một bàn thờ đá và một nơi
nhóm lửa.
Sau một thời gian dài chuyên tâm thiền định và độc cư, nhờ phép truyền
tâm, Geshé Ben biết rằng một nhóm dân làng sắp mang lại thức ăn và phẩm
vật cho mình và hy vọng ông sẽ ban phước lành. Mọi người Tây Tạng đều
biết rằng, được một vị bồ tát hay tu sĩ đích thực độ trì sẽ mang lại sức
mạnh to lớn.
Geshé Ben bắt đầu lau chùi hang động sạch sẽ, sửa soạn các đồ đạc và bày
biện bàn thờ, cố gắng làm tốt nhất trong điều kiện một nơi hẻo lánh
của Hi mã lạp sơn. Sau đó, Geshé Ben ngắm nghiá một cách hài lòng.
Chỉ chốc lát sau, ông bỗng thấy ý nghĩa những gì mình làm, tự nhủ ‘đồ
ngốc nghếch’. Sau đó ông ra ngoài cửa động hốt một nắm bụi và rác rưởi,
ném lên bàn thờ vừa chùi dọn sạch sẽ. “Ta sống ra sao thì cứ để mọi
người thấy như vậy”. Ben nói ‘phẩm vật cúng dường đâu phải để lấy lòng
mua chuộc ai, mà để dâng cúng Phật tính đang hiện tiền’. Ben tự nhủ và
nói tiếp: xong rồi, các bạn có thể đến đây!’.
Nhiều năm sau đó, có một vị tăng đắc đaọ từ Ấn Độ qua thăm Tây Tạng và
nghe câu chuyện này. Trước mặt các vị Lat-ma cao cấp và các vị Tulku
(dòng tái sinh các Lạt-ma),đạo sư Padampa Sanjay nói: hay, nắm bụi đó là
phẩm vật cúng dường cao quí nhất từ xưa đến nay trong cả xứ này”. Geshé
Ben đã cúng dường lên lên bàn thờ trong động tự ngã của chính mình.
13. Geshé Ben và lương tâm
Có lần Geshé Ben được mời thọ thực với các vị tăng sĩ cao cấp trong
phái. Chủ nhà là các vị tu sĩ giàu có, sống trong các cung điện vùng
Penyul, miền Nam Tây Tạng. Trong điện, họ trang hoàng phòng cầu nguyện
một cách lộng lẫy và mời các vị tăng sĩ an toạ: các vị trưởng lão ngồi
trên cao, các vị trẻ tuổi ngồi dưới thấp. Theo tuổi tác Geshé Ben ngồi
khoảng giữa và đợi thức ăn đem đến.
Theo truyền thống Tây Tạng thì bát ăn và chén uống của các vị Lat-ma lúc
nào cũng phải đầy, vì thức ăn được xem là phẩm vật cúng dường lên tâm
giác ngộ, mà các vị Lạt-ma là hiện thân của tâm thức đó.
Chủ nhà và những người hầu cận vừa bắt đầu dọn sữa cho các vị trưởng lão
thì Geshé Ben bắt đầu nóng ruột. Chỉ nhìn qua Ben đã thấy bình sữa xem
ra hơi nhỏ và đến phiên mình chắc đã cạn sạch.
Vừa nghĩ đến đó, Geshé Ben tự nói to: "ôi tham lam". Ben xoay mặt không
nhìn bát gỗ để trước mặt mình và im lặng trước cái nhìn khó hiểu của các
bạn đồng tu. Sau đó, người ta đem thêm sữa vào và sắp sửa cho vào bát
của Geshé Ben thì ông chận tay lại nói: "không cám ơn, ý nghĩ tham lam
của tôi đã ăn hết phần của tôi rồi".
Theo phương cách này, người tu hành quan sát nghiêm túc những ý nghĩ và
cảm nhận chớm nảy sinh trong lòng mình và biến chúng thành những bước
tiến bộ trên con đường đạo.