Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử
Mặc dù
tất cả giáo pháp của Đức Phật đều có chung một mục đích, nhưng các giáo
pháp này lại vô cùng khác biệt trên phương diện đề tài cũng như sự tu
trì. Mỗi quyển kinh sẽ nhấn mạnh một điểm nào, trên một chiều hướng nào
đó. Vì đức Phật rất quan tâm việc làm sao giúp các đệ tử Thanh văn đương
thời của Ngài một cách hữu hiệu nhất, bằng cách ban cho họ những tư
liệu mà họ có thể dùng được và không nhận chìm họ với những dữ kiện dư
thừa. Ngài không hề tìm cách giảng về một đề tài từ đầu đến tận cùng rốt
ráo để rồi không bao giờ trở lại nữa. Ngài thường phân bố các điều giải
thích dần dần trong các bài Pháp, và không ngại nhắc lại nhiều lần các ý
niệm quan trọng, nếu cần thì thêm một sắc thái, một sự soi sáng hay mở
bày mới hơn.
Theo cách đó, trong quyển "Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng
lúc cận tử", một lần nữa đức Phật tuyên thuyết về các trạng thái tâm
thức mà chúng ta nên phát khởi lúc gần nhắm mắt lìa đời. Lần này có năm
tâm thức.
Có một số trong năm tâm thức này đã được đề cập trong bản kinh trước,
nhưng lại được phát biểu một cách hơi khác đi, như quý vị sẽ thấy.
Theo thông lệ, trước tiên tôi sẽ truyền dạy kinh này bằng cách đọc lên [toàn văn kinh] một lần:
"Quy mạng nhất thiết chư Phật và chư Bồ Tát.
Tôi nghe như vầy, một thời Bạc Già Phạm tại Sắc Cứu Cánh thiên cung,
thuyết Pháp cho đại chúng. Lúc ấy Hư Không Tạng Bồ Tát, vị đại anh hùng,
lễ Bạc Già Phạm và hỏi rằng:
– Bạc Già Phạm, Bồ Tát phải quán như thế nào vào lúc cận tử?
Bạc Già Phạm dạy:
– Hư Không Tạng Bồ Tát, lúc cận tử, Bồ Tát phải quán các diệu trí lúc cận tử. Thế nào là các diệu trí lúc cận tử?
1) Vì tất cả các pháp bản thể đều thanh tịnh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán về tánh Không của tất cả các pháp.
2) Vì tất cả các pháp đều có trong tâm Bồ-đề, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm đại bi.
3) Vì tất cả các pháp bản thể là quang minh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán vô nhất vật trong các pháp.
4) Vì tất cả các pháp đều vô thường, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm vô chấp.
5) Vì tâm là nhân của trí huệ bát-nhã, đừng tìm tánh Phật ở đâu khác.
Bạc Già Phạm lặp lại bằng kệ rằng:
Các Pháp vốn thanh tịnh,
Hãy quán về tánh Không.
Đầy đủ Bồ-đề tâm,
Hãy quán tâm đại bi.
Các pháp vốn quang minh,
Quán pháp vô nhất vật.
Các Pháp vốn vô thường,
Hãy quán tâm vô chấp.
Tâm sinh diệu trí huệ,
Phật tánh tìm đâu xa?
Bạc Già Phạm thuyết Pháp như thế rồi, Bồ Tát Hư Không Tạng và đại chúng vô cùng hoan hỉ tán thán.
Phật thuyết Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử."
Kinh Đại thừa này đã được tuyên thuyết trong điều kiện nào? Đó là một
ngày đức Phật có các vị đệ tử vây quanh, nhất là các vị Bồ Tát. Một
trong các vị Bồ Tát này tên là Hư Không Tạng (Tạng ngữ: Namkhai Nying
Po) đảnh lễ đức Phật và hỏi: Lúc cận tử, các vị Bồ Tát nên quán như thế
nào?
Trong lời giải đáp, đức Phật dùng chữ "diệu trí vô thượng" để nói về năm
trạng thái tâm thức mà Ngài đặc biệt sách tấn. Chúng ta đã thấy rằng
mình không bắt buộc phải áp dụng cả năm. Ngược lại, mục đích là để có sự
lựa chọn và áp dụng vào từng trường hợp riêng, tùy theo điều mà người
lâm chung có thể hay không thể tư duy: tánh Không, hoặc tâm đại bi
v.v...
1. Quán tánh Không
Lời dạy rất ngắn gọn này thật ra nói lên sự không có thực của vạn vật,
tức là tánh Không của chúng. Lúc lâm chung, khởi lên trong tâm trí tuệ
về tánh Không của các pháp là một điều vô cùng lợi ích. Để giảng rộng
lời kinh, "các pháp" nghĩa là các hiện tượng, "bản thể vốn hoàn toàn
thanh tịnh" nghĩa là bản thể của chúng hoàn toàn không có tự tánh hay
thực thể. Vì thế, chúng ta phải quán xét, phải phát triển hiểu biết về
sự vắng mặt của tự tánh [tự tồn] trong tất cả hiện tượng như nói trên.
Tôi nghĩ rằng quý vị nghe câu này có vẻ quen thuộc, vì chúng ta đã gặp
lại niệm tưởng thứ mười trong mười một niệm tưởng đã được nêu rõ trong
quyển kinh đề cập trước đây.
Không cần phải nói, lời khuyến dụ này không phải dành cho bất cứ ai cũng
được. Người nghe phải từng được học tập trước đó, phải có một hiểu biết
căn bản. Nhưng nếu đã có được sự hiểu biết cần thiết, việc có thể quán
xét về tánh Không trong giờ phút ấy sẽ mang đến một sự lợi ích lớn lao,
bởi rất nhiều lý do. Chúng ta đã đề cập qua, nhưng nhắc lại về khái niệm
này cũng không phải là một sự dư thừa.
Trong Phật giáo, "phàm phu" là người còn ở trong cõi Ta-bà, còn luân hồi
trong các cảnh giới hữu vi quyết định bởi nghiệp và phiền não. Cho rằng
đó là trường hợp của chúng ta, thì nguyên nhân là từ vô thủy chúng ta
đã bị đánh lừa bởi nhận thức sai lầm về cái gì là có. Thế nhưng, nếu
phân tích một cách đúng đắn thì chúng ta có thể nhận ra rằng sự vật được
nhận thức – bất cứ một hiện tượng nào – có thật đấy, nhưng chắc chắn
không phải dưới dạng thức mà nó trình hiện. Đúng vậy, cái hình tướng
trình hiện trong tâm trí chúng ta là một sự kiện được nhận thấy một cách
biệt lập với sự vật khác. Chúng ta có cảm tưởng là nó xuất hiện bằng
chính khả năng của nó, không tùy thuộc vào bất cứ sự kiện nào khác, vào
một nhân hay một duyên nào, trong khi sự thật lại khác hẳn.
Các hiện tượng có là một điều đương nhiên, nhưng chúng luôn luôn đến từ
một nhóm nhân tố, nói giản dị là từ một nhóm nhân duyên. Thế mà tâm trí
ta lại thấy ngược hẳn, và trong khi cảm nhận của chúng ta hoàn toàn sai
lầm, ta lại tin đó là chân thật đến nỗi ta chấp vào sự vật dưới cái hình
tướng chung ấy. Chúng ta tin rằng sự vật tự có, và có một cách độc lập,
ta gán cho chúng một tính cách tuyệt đối. Chính cái thấy sai lầm đó của
chúng ta đối với tất cả các sự hữu đã tạo nên cái vô minh gọi là căn
bản, vì vô minh này đã trói chặt chúng ta vào cõi Ta-bà từ vô thủy cho
đến nay.
Cho nên, hiểu theo hướng ngược lại, thấy được sự thật, nhận thức được sự
vắng mặt của tự tánh là rất có ích cho chúng ta. Nhất là nếu quán xét
được như thế ngay trước khi chết thì thật là kịp lúc.
Tốt hơn hết là hãy lấy một thí dụ có ý nghĩa vì gần với ta nhất, đó là
cái "tôi", cái "ta", và cách thức mà chúng ta tự nhận thức về mình. Suốt
ngày chúng ta dùng đến chữ "tôi", chữ "ta": "Tôi làm cái này, tôi làm
cái kia", "tôi đi đến chỗ đó" v.v... Khi chúng ta đang nghĩ như thế, "ta
đến, ta đi" v.v… và khả năng thực hiện điều đó tùy thuộc vào cái cấu
tạo cá nhân chúng ta, nghĩa là vào thân và tâm ta. Ấy vậy mà chúng ta
không thấy khía cạnh đó, và ta không hề nghĩ rằng mọi sự vốn diễn tiến
như thế.
Thật ra, thỉnh thoảng chúng ta nên dành một ít thì giờ để quan sát cách
ta nhận thức về chính mình khi nghĩ đến những gì ta làm, điều này khá
quan trọng. Khi chúng ta đang nghĩ đến chương trình "ta sẽ đi đến đó",
thì ta hình dung cái "ta" đó như thế nào? Phải chăng là chúng ta hình
dung nó như một cái "tôi" hoàn toàn độc lập, tự hữu, không tùy thuộc vào
bất cứ gì khác, ngay cả thân và tâm của nó? Phải chăng đó là hình ảnh
được thành lập trong trí của chúng ta?
Hình ảnh một cái "tôi" độc lập đối với tất cả, và nhất là đối với thân
và tâm, là cái mà ta gọi là "chấp ngã", biểu trưng của sự vô minh. Rõ
ràng chúng ta hiện hữu như một cá nhân, nhưng để hiện hữu, chúng ta phải
có một thân và một tâm đã chứ! Không biết chúng ta sẽ làm cách nào để
hiện hữu như một cái "tôi" nếu hoàn toàn không kể đến thân tâm và không
tùy thuộc vào chúng?
Ấy vậy mà chúng ta nào có nhận thức sự vật như thế đâu! Thật thế, khi
chúng ta nghĩ "tôi sẽ đi đến chỗ đó", ta nhận thức về cái "tôi" ấy rất
giản dị, nếu không nói là đơn giản hoá quá mức! Chúng ta hài lòng với ý
nghĩ "tôi" trong tâm, không hề đặt nghi vấn, cho đến nỗi không một chút
nghi ngờ rằng cái "tôi" ấy không hề độc lập như mình tưởng!
Để lấy một thí dụ rõ rệt hơn, hãy tưởng tượng là có người công kích hay
lăng nhục chúng ta. Thường thì chúng ta phản ứng như thế nào? Hãy thú
nhận rằng chúng ta rất phật ý và cảm thấy có chút gì tức giận. Vì chúng
ta phẫn nộ, có thể chúng ta nảy sinh ý nghĩ: "Nó dám nói thế với ta! Với
chính ta!" Và cái "ta" ấy có vẻ tự áp đặt lên chúng ta. Nó hiển hiện
như một thực tại, tự hữu, một hiện thể tuồng như độc lập. Chắc chắn
không phải trong những lúc như thế mà chúng ta có thể tự nhận ra rằng
cái tự xưng là "ta" tuyệt đối ấy hoàn toàn không hề tuyệt đối. Phải,
chúng ta hiện hữu như một cái "ta", như một "cá thể", nhưng là tùy thuộc
vào thân và tâm của mình. Không có thân và tâm, chúng ta là cái gì?
Xét trường hợp ngược lại. Lần này chẳng những người đối diện không công
kích ta mà còn đưa ta lên mây: "Tôi phục ông (hay bà) quá! Ông thật là
tài trí vẹn toàn! Ngoài sự hiểu biết uyên thâm, ông còn tỏ ra thật là
tốt đối với người khác! Đã vậy mà còn sang trọng quá!"
Trước những lời tâng bốc như thế, có người vẫn có thể giữ tâm bất động
và biết rõ mình thật sự như thế nào, nhưng phần đông sẽ cảm thấy khoái
chí, êm tai. Thay vì nhận thấy đó chỉ là những lời nói làm đẹp lòng,
thường thì họ lại dễ dàng nảy sinh ý nghĩ: "Nghĩ cho cùng, ông ta nói
đúng! Ta đây cũng khá lắm chứ!" Đồng thời, ý niệm chúng ta có về chính
mình như là một cá nhân có thật, rõ ràng hiện hữu bằng chính khả năng
của mình. Hắn có đó, hoàn toàn có đó. Chúng ta thấy như vậy và không đi
tìm xa hơn.
Một thí dụ khác rất thông thường. Cho là chúng ta có một ngôi nhà. Nhưng
mái nhà bị thủng và chúng ta phát hiện có nước dột. Là một tay thợ gan
dạ, chúng ta quyết định tự sửa lấy. Vì chỗ dột nằm ngay bên cạnh máng
nước, chúng ta bèn mạo hiểm trèo lên gần mé. Thình lình chân ta trượt
trên mái nhà, chúng ta hoảng hồn, sợ điếng người. Thật ra chúng ta chưa
ngã, chỉ bị trượt chân thôi, nhưng lập tức chúng ta hãi hùng nghĩ rằng
"Tôi ngã!" Và dĩ nhiên, cái "tôi" đó rất thật có đối với chúng ta. Chúng
ta thấy đó là một cái gì hoàn toàn tự nó hiện hữu, chứ không hề nghĩ
rằng cái "tôi" ấy, nghĩa là cá nhân của chính ta đây, là một hiện tượng
hoàn toàn tương đối và giả danh. Trong giai đoạn hiện thời, chúng ta
không có khả năng nghĩ như thế!
Khi ở bờ mé của mái nhà hay của một hố thẳm chúng ta hoảng hốt kêu lên
"tôi ngã", hay trước mặt mọi người, sung sướng với những lời tâng bốc
quá khích chúng ta tự bảo "nghĩ cho cùng, ta cũng khá lắm chứ!", cái
khái niệm "tôi" hình thành trong trí chúng ta [theo cách đó] có phải là
một sự "chấp thật có" không? Không, chưa hề. Bề ngoài nó có vẻ như thật
một cách tuyệt đối, nhưng chúng ta chưa nảy sinh tâm chấp trước vốn đi
đôi với sự thật sai lầm ấy. Tuy nhiên, một nhận thức về một sự việc mà
tướng trạng chung có vẻ như hiện hữu độc lập theo lý thuyết lại thường
kéo theo một tâm chấp trước đối với tướng trạng chung ấy. Thế là chúng
ta tin rằng cá nhân thật sự hiện hữu dưới bề ngoài ta nhìn thấy được,
hay nói cách khác, đúng như tướng trạng chung mà họ trình hiện. Vậy thì,
sự chấp thật tức là sự tin tưởng rằng đối tượng được nhận thức – ở đây
là cái cá nhân dưới dạng cái "tôi" – tự nó hiện hữu, không tùy thuộc vào
bất cứ gì khác.
Để miêu tả từ đầu đến cuối tiến trình này, trong trường hợp một kẻ phàm
phu, thì người này hình dung bất cứ đối tượng nhận thức nào của mình, và
đặc biệt là cái "tôi", hoàn toàn biệt lập với tất cả mọi nhân duyên.
Trên căn bản của những sắc tướng bên ngoài như thế, họ bèn "chấp" mọi
vật dưới dạng ấy: Họ tin chắc rằng mọi sự vật, và đặc biệt là chính con
người của họ, hiện hữu thật sự dưới hình tướng mà họ nhận thấy. Đó là
cái mà Phật giáo gọi là "chấp ngã", hay nói cách khác là "chấp thật".
Sự chấp ngã ban cho đối tượng bị chấp (cái sở chấp) một quyền lực rất
lớn, chấp ngã càng nặng bao nhiêu thì quyền lực càng lớn bấy nhiêu: cái
cá nhân có vẻ như thật có (với nghĩa là biệt lập với mọi nhân duyên)
được thành lập như một cái gì tuyệt đối và có một tầm quan trọng tối cao
đối với người chấp ngã (năng chấp). Khái niệm về "tôi" càng chắc chắn
bao nhiêu thì khái niệm về "người khác" cũng đồng thời chắc chắn và rõ
rệt bấy nhiêu. Sự ngăn cách giữa "tôi" và "người khác" trở nên rất rõ
ràng và triệt để, và không hề có một mối tương quan hay một nhịp cầu nào
giữa hai bên. Kết quả là, một cách rất tự nhiên và không thể tránh
được, ta cảm thấy đắm luyến mãnh liệt đối với cái "tôi" mà ta cho là tối
thượng, cùng với tất cả những gì mà ta nghĩ là đứng về phe ta. Và cũng
không tránh được, điều đó làm khởi sinh ác cảm với "kẻ kia" và những gì
dính dấp tới hắn. Từ đó – sự đắm luyến đối với chính mình cùng những gì
thuộc về mình, và ác cảm đối với kẻ khác lẫn những gì thuộc về họ – nảy
sinh tất cả mọi phiền não của tâm thức. Và mỗi lần các phiền não khởi
sinh, dầu là vì đắm trước hay vì ác cảm, chúng sẽ tác động lên ba bình
diện (thân, khẩu và ý) và kéo theo sự tích lũy trong tâm những chủng tử
tương đương. Sau đó, các chủng tử ấy sẽ biến thành nghiệp báo đưa chúng
ta đi vào những kiếp tái sinh mới trong cõi Ta-bà.
Đó là cách phàm phu cứ thế mà xoay vần trong thế giới Ta-bà, do phiền
não và nghiệp thức đưa đẩy đi từ cõi hữu vi này đến cõi tạo tác khác.
Khi ta tự bảo là nên, hay nói cách khác là phải, cấp bách thoát khỏi cái
vòng lẩn quẩn ấy, cái vòng luân hồi vô tận đưa ta đến những kiếp tái
sinh đồng loại ấy, thì chỉ có một cách duy nhất là chấm dứt ngay những
yếu tố nuôi dưỡng nó. Phải trừ diệt vô minh, và chính xác hơn là cái vô
minh ngã chấp. Đó là lý do vì sao trong bản kinh này đức Phật đã nhấn
mạnh ngay từ đầu là người hấp hối mà tư duy được, tức là hiểu được "vạn
pháp đều không", với nghĩa là chúng không "có" một cách biệt lập và có
thật tánh – thì thật là tốt cho người ấy.
Một người phàm phu chắc chắn có chấp ngã, nhưng điều đó không có nghĩa
là sự chấp ngã lúc nào cũng hiện diện trong tâm thức họ. Điều đó không
phải lúc nào cũng rõ ràng minh bạch. Chỉ trong những trường hợp như vừa
đề cập trên thì nó mới xuất hiện một cách rất rõ nét. Vậy thì chính
những kinh nghiệm hơi tế nhị, tốt hay xấu, khởi động niệm tưởng về ngã
khiến cho sự chấp ngã công khai phát xuất. Nếu không, dĩ nhiên là sự
chấp ngã hiện hữu nơi mỗi người, nhưng rất thường xuyên một cách tiềm
tàng.
Tại sao tư duy về tánh Không, về sự vắng mặt của tự tánh vào lúc cận tử lại là điều đáng làm và phải lúc?
Vì là phàm phu, nên từ vô thủy chúng ta đã quen chấp ngã, tức là cái
vọng tưởng chấp lấy mọi sự vật và ngay cả chính mình, như những thực thể
tuyệt đối. Lúc giờ chết gần kề, sự chấp ngã trở nên mãnh liệt bội phần.
Nó sẽ nổi lên với một sức mạnh vô song, một là do thói quen cố hữu, hai
là vì cái giờ phút tế nhị đang trải qua. Thế nhưng, sự chấp ngã tăng
cường sẽ củng cố tất cả những gì mà nó phát sinh.
Với thời gian, chúng ta đã chấp trước khá nhiều vào chính chúng ta và
thân tâm của mình. Trong những giây phút quá đặc biệt này, sự chấp trước
tăng lên rất mạnh vì chúng ta biết rõ rằng mình sẽ không còn ở lâu
trong cõi đời này nữa. Thân xác chúng ta sẽ không còn nữa. Chúng ta sẽ
phải bỏ nó lại phía sau vì nó sẽ bị tiêu diệt, tan biến. Một người phàm
phu, trong viễn cảnh ấy gần như không thể nào không bị chìm đắm trong
một sự chấp trước vào thân thể của mình mãnh liệt hơn lúc trước rất
nhiều. Càng thấy mình sắp mất nó, mình càng bám chặt vào nó. Sự khát ái
và tham luyến đối với thân thể sẽ làm cho một chủng tử nghiệp trở nên
thành thục, đó là nghiệp đưa ta đi tái sinh, vì chính nghiệp này sẽ
phóng ta vào một kiếp sống mới trong cõi Ta-bà.
Một người lâm chung sẽ ở trong trạng thái tâm thức nào? Họ thường tự
nhủ: "Ta sẽ biến mất! Ta sẽ bị tiêu diệt!" Thật ra, cái sẽ biến mất là
thân xác của họ, nhưng họ lại không thấy như thế. Họ sẽ không thể phân
tích như thế nếu họ không đã từng miên mật huân tập từ trước. Phản ứng
tự nhiên sẽ là "Tôi đang biến mất" chứ chắc chắn không phải là "chỉ có
thân thể tôi đang bị hủy diệt chứ không phải tôi".
Người lâm chung tự đồng hóa một cách rất tự nhiên với thân thể, và đó là
bởi vì quá chấp chặt vào thân thể của họ. Sự chấp trước vào thân thể
của họ mạnh đến nỗi họ thấy mình với nó là một. Họ không thể làm khác
hơn được. Đó là những phản xạ tự nhiên. Vào cuối đời, sự đắm trước đối
với chính họ sẽ bùng lên một cách tự động, trừ những trường hợp ngoại
lệ.
Thật thế, điều gì xảy ra cho những người đã nhờ thiền định mà trực tiếp
hiểu được tánh Không, sự vắng mặt của một cái ngã tự hữu và tuyệt đối?
Những vị đã chứng đắc điều này được gọi là bậc thánh (arya), nhưng các
ngài không có cùng chung một trình độ. Có nhiều cấp bậc khác nhau. Hai
cấp bậc đầu bao gồm các vị thánh còn phải sinh vào Dục giới, tức là cõi
mà chúng ta đang sống. Thuật ngữ Phật giáo gọi là "nhập lưu" và "nhất
lai" (tức là các bậc thánh Thanh văn chỉ còn mỗi một kiếp tái sinh nơi
Dục giới).
Mặc dầu thật chứng được tánh Không, nhưng ngay cả những vị này cũng còn
nảy lên một niệm chấp ngã trong tâm lúc cận tử. Sự khác biệt với phàm
phu – những người chưa chứng được tánh Không – nằm ở chỗ là nhờ ý thức
được sự vắng mặt của tự tánh nơi vạn pháp và nhất là nơi con người, các
vị thánh này không nhượng bộ tâm chấp trước. Trong tâm họ nảy sinh niệm
chấp ngã, nhưng họ không để cho niệm này trói buộc. Họ không bị niệm
chấp trước khống chế, vì họ không tin vào nó. Họ hiểu rất rõ rằng những
điều hiện ra trong trí họ toàn là những vọng tưởng tai hại, hoàn toàn
sai lầm.
Những vị thánh đã đạt đến một trình độ cao hơn, tức là những vị không
bao giờ còn phải tái sinh trong Dục giới, đã vượt qua sự chấp trước cho
đến mức, dẫu trong phút lâm chung, niệm ấy cũng không còn có thể nảy
sinh trong tâm họ.
Như vậy, khi chưa đạt đến trình độ cao của quả vị thánh, chắc chắn là
lúc cận tử tâm của chúng ta bị xâm chiếm bởi sự ái luyến bản thân. Một
trong các hậu quả là niệm chấp ngã rất mãnh liệt trong tâm người lâm
chung. Vì thế mà đức Phật đã khuyên rằng, nếu được thì lúc ấy nên tư duy
về tánh Không, và quán "sự vắng mặt" – hiểu theo nghĩa đen – của mọi
hiện tượng, tức là [tính chất] "Không, vô tự tánh" của mọi hiện tượng,
dẫu chỉ trong khoảnh khắc.
Mục đích là để đối trị tâm chấp ngã, chấp trước vào bản thân, và để hạn chế những tai hại về sau của các tâm ấy.