Tiến trình của hiện tượng chết
Nói cho cùng, tiến trình của hiện tượng sinh ra gồm có những gì? Chúng
ta bắt đầu bằng những thành phần vi tế để đi đến các thành phần thô hơn,
qua một sự phát triển dần dà theo nhịp điệu của sự xuất hiện tuần tự
những thành phần mới. Đó là một giai đoạn phát triển, bành trướng.
Tiến trình chết chỉ là sự đi ngược lại: nó phù hợp với sự kiệt quệ dần
dần của tất cả những gì đã được hiện hình lúc sinh ra, thành phần này
sau thành phần khác, cho tới khi chúng hư hoại đến nỗi không còn có thể
đảm nhiệm các chức năng mà chúng đã đảm nhiệm trong suốt cuộc sống.
Trước hết, các thành phần thô sẽ bắt đầu phân tán (xin hiểu là: suy
nhược đi), rồi sau đó đến lượt các thành phần vi tế. Khi các thành phần
này suy tàn cho đến mức không thể nào hiện khởi được nữa thì lúc ấy, nơi
một hữu tình bình thường, dạng vi tế nhất hay là cực vi tế của tâm thức
mới có thể hiển lộ. Đó là ánh tịnh quang của sự chết.
Vì không đủ thì giờ, chúng ta buộc phải tóm gọn lại. Về tiến trình của
sự xuất sinh, chúng ta chỉ có thể nói lướt qua như vừa rồi, và chúng ta
sẽ đặc biệt quan tâm đến tiến trình của sự chết. Nhưng tôi muốn chia sẻ
với quý vị sự ngạc nhiên của tôi từ khi đến Âu châu. Rõ ràng là, cái gì
không thể xảy ra xưa kia bây giờ lại phát sinh dễ dàng, và hiện nay, các
khoa chẩn đoán và hình ảnh bằng siêu âm của tử cung đã trở nên phổ
biến. Thế mà khi ta so sánh chúng với những gì đức Phật đã thuyết giảng
thì sự phù hợp đập vào mắt chúng ta. Quý vị sẽ nói “Có gì lạ đâu?”,
nhưng đừng quên là đức Phật đã xuất hiện khoảng năm hay sáu thế kỷ trước
Công nguyên. Ngài làm gì có những dụng cụ máy móc tối tân hiện đại,
ngược lại nữa là khác. Tôi thấy khi những điều Ngài đã dạy lại trùng hợp
với những tấm ảnh rất chính xác ngày nay, thì thật là đáng kinh ngạc!
Hơn nữa, đức Phật không chỉ miêu tả một cách giản lược như “đến ngày thứ
mấy thì nơi thân thai bào sẽ có một chỗ nhô ra, hay hình dạng sẽ như
thế này, hay thế kia...” Ngài thuyết giải thêm “bởi vì lúc ấy có khí này
bắt đầu hoạt động nên hiệu quả nọ sẽ phát sinh, do đó bộ phận này sẽ
xuất hiện hay cảm quan nọ sẽ khởi động...”
Dầu sao đi nữa, riêng tôi, tôi cũng thấy thật lạ lùng. Tôi sinh ra ở Tây
Tạng và đi học ở đấy, nhưng trong nước tôi, các bài học còn không được
minh họa bằng tranh vẽ chứ đừng nói bằng hình ảnh. Tôi nhớ lại khi còn
nhỏ, như các bạn đồng học, tôi phải học thuộc các chuyên thư ấy và vừa
đọc tôi vừa phải cố gắng hình dung trong đầu những gì được miêu tả. Và
cho dầu đó là những hiện tượng vật chất tương đối thô thiển, chúng cũng
không hiện ra trước mắt ngay được. Khi đến nước Pháp, tôi được thấy
những hình ảnh siêu âm của tử cung trong các tạp chí, và càng ngạc nhiên
hơn khi nhận thấy sự tương đồng giữa những tài liệu lạ lùng kia và
những gì tôi đã tưởng tượng được từ những bài viết thuần túy giải tích.
Nói tóm lại, theo Phật giáo thì thời điểm sinh ra của một con người như
chúng ta rơi đúng vào lúc người mẹ thụ thai, vì đó là lúc mà họ xuất
hiện như một con người và cũng từ lúc đó họ mới bắt đầu phát triển. Dẫu
cho kích thước của thai bào cực kỳ bé nhỏ, nhưng nó đã là một hữu tình
rõ rệt rồi. Dần dần, khi các thành phần khác nhau bắt đầu xuất hiện, hữu
tình này phát triển và được xem là hoàn tất trọn vẹn khi 20, 24 hay 25
thành phần (con số thay đổi tùy theo góc độ nhìn) đã được sắp xếp một
cách hài hòa.
Vậy thì, với những gì đã nói ở trên, sự chết xảy ra như thế nào?
Chúng ta có thể tự hỏi, tại sao lại cho rằng sự hiểu biết một cách đầy
đủ chi tiết về những chu kỳ của tiến trình sự chết là một điều quan
trọng, bởi vì dầu sao thì mục tiêu của chúng ta trước hết là giúp đỡ
những người sắp chết kia mà? Tức là để ủy lạo họ chứ không phải để quán
sát cái gì xảy đến và làm giàu cho kiến thức của mình. Nhưng việc tuần
tự “mổ xẻ” từng chu kỳ có ích lợi ở chỗ là mỗi chu kỳ đều được đánh dấu
bằng những triệu chứng, hoặc ở ngoài thân hoặc ở bên trong.
Nếu chúng ta đến với tư cách người phù trợ lâm chung (để ủy lạo người
sắp chết trong những giây phút cuối), thì hiển nhiên chúng ta không thể
thấy được những triệu chứng bên trong người ấy, vì chỉ có người đang
trải qua kinh nghiệm chết mới cảm nhận được mà thôi. Chúng ta không thể
thấy được từ bên ngoài. Ngược lại, những triệu chứng bên ngoài, mà mỗi
triệu chứng đặc trưng của một giai đoạn trong tiến trình đều có thể thấy
được (ít nhất là một cách tổng quát) từ bên ngoài.
Nhưng nhận biết chúng để làm gì? Nếu chúng ta muốn giúp đỡ người lâm
chung một cách hữu hiệu, chúng ta cần phải thích ứng những dấu hiệu này
với những gì đương sự đang kinh nghiệm hay còn có thể làm được. Thí dụ:
người ấy còn có thể thấy được không, hay còn nghe được không? Trên thực
tế, khi chúng ta ghi nhận triệu chứng nào đó biểu thị thính giác của
người lâm chung không còn hoạt động nữa thì có nói vào tai người ấy muôn
vàn lời khuyên cũng chẳng ích lợi gì. Người ấy không còn nghe thấy nữa.
Chúng ta không còn có thể giúp họ bằng lời nói nữa. Hơn nữa, như thế
cũng có nghĩa là nếu chúng ta muốn nói điều gì với họ, thì phải nói
trước thời điểm này.
Đó là lý do tại sao chúng ta cần nhận biết những triệu chứng biểu thị
rằng thị giác hay thính giác của người sắp chết còn hoạt động hay không.
Nếu thị giác còn hoạt động thì có lẽ nên đưa cho họ thấy một vài món
vật để trấn an, an ủi họ, khơi dậy lòng tin hay điều gì đó, nhưng một
khi họ không còn khả năng để thấy nữa thì làm như thế chỉ vô dụng, trong
khi còn những phương tiện khác có thể dùng được, vì trong một khoảng
thời gian ngắn họ còn có thể nghe được chẳng hạn. Phải tận dụng thời
gian ấy để nói những lời có thể giúp ích họ, vì không bao lâu nữa lời
nói cũng sẽ trở thành vô ích v.v...
Tuy nhiên, để các giai đoạn được nhận diện một cách rõ ràng như thế, và
để chúng ta có thể dựa vào đấy mà hành động thì tiến trình của sự chết
phải diễn ra một cách chậm chạp. Đó là trường hợp của những người chết
vì bệnh chẳng hạn, hay trong một vài điều kiện, chết vì tuổi già. Ngược
lại, trong trường hợp một tai nạn đột ngột và tàn khốc – đụng xe, rớt
máy bay... hay trong một cơn bạo bệnh như đột quỵ thì người ấy chết một
cách quá chớp nhoáng (hoạnh tử) nên các giai đoạn bị lướt đi mất. Chúng
ta không thể nhận biết được một triệu chứng nào nữa, mọi sự diễn ra quá
nhanh. Ngay trong trường hợp một cái chết tương đối chậm chạp, nhưng khi
người lâm chung quá đau đớn thì sẽ rất khó mà phân biệt các chu kỳ, như
thể cơn đau quá kịch liệt đã che giấu, ẩn tàng các chu kỳ này. Có một
trường hợp khác mà các chu kỳ không được rõ ràng, đó là khi người lâm
chung đã quá già nua: lúc ấy họ đã “tiêu mòn”, các cảm quan dẫu sao cũng
đã cùn nhụt nhiều rồi.
Khi một người đã đến thời kỳ cuối cùng của đời mình, dẫu vì bệnh hay vì
già, người này sẽ thể nghiệm nhiều giai đoạn gồm năm chu kỳ tan rã hay
phân hóa. Quý vị hẳn nhớ rằng, chúng ta, một con người, xuất sinh đúng
vào lúc tâm tương tục của chúng ta tiến nhập vào các tế bào vật chất đến
từ cha mẹ của kiếp sống mới, nhờ thế mà cái thân sở y vật chất mới của
chúng ta được thành hình. Cái mà chúng ta gọi là “đời sống” là quãng
thời gian mà các thành phần vật chất này còn đủ khả năng để chống đỡ cho
thần thức của chúng ta, tức là làm chỗ cho thần thức y cứ. Với thời
gian, các thành phần vật chất, vốn là thô nặng, sẽ bị hao mòn và dần dần
mất đi khả năng đảm nhiệm vai trò chống đỡ cho tâm tương tục của chúng
ta. Khi chỗ dựa vật chất không dùng được nữa và không giúp cho tâm tương
tục hoạt động hợp cách, thì đến lượt các hoạt động tâm thức sẽ từ từ
gián đoạn, nhưng là ở bình diện thô nhất của chúng. Dần dà, tâm thức sẽ
hiển lộ những bình diện vi tế hơn, cho tới khi nó lấy lại hình dạng cực
vi tế mà nó đã xả bỏ lúc phôi thai.
Theo Phật giáo, sự chết thật sự đúng nghĩa phát sinh vào ngay giây phút
này, khi tâm cực vi tế hiển lộ và sắp xả bỏ một chỗ dựa vật chất không
còn tác dụng nữa vì đã quá hư hao.
Xin ghi nhận rằng tâm cực vi tế ở dạng vô ký. Tâm thức cực vi tế bao giờ
cũng chỉ hiển lộ duy nhất vào lúc chết, trừ trường hợp những hành giả
tu tập các pháp môn Mật tông Tối thượng Du-già thâm sâu nhất, hay đã rèn
luyện thuần thục thiền quán và đã đạt được một trình độ rất cao những
công hạnh đặc biệt như liễu ngộ tánh Không, tức là sự vắng mặt của tự
tánh [tự hữu] nơi vạn hữu, kể cả nơi các hữu tình. Tuy nhiên, có những
trường hợp như lúc bắt đầu ngủ, chúng ta cũng trải qua các chu kỳ tương
tự với tiến trình của sự chết. Nhưng những giai đoạn này quá chớp nhoáng
nên những người không tu luyện đủ thì không thể nhận ra, nói gì đến
việc sử dụng chúng!
Sự chết kết thúc khi đương sự tiến vào bardo (cõi trung hữu). Tâm thức
vi tế của người này – chứ không còn là cực vi tế – lại gá vào một chỗ
dựa vật chất, cũng vi tế chứ không phải thô. Đây chưa phải là một sự tái
sinh thật thụ, mặc dù người ta thường nói người này “sinh” vào cõi
trung hữu.
Trạng thái trung ấm kéo dài một thời gian, có thể lâu có thể mau, nhưng
lâu nhất là 49 ngày. Khi trạng thái này chấm dứt và đương sự tiến vào
một đời sống mới thì họ chết đi trong cõi trung hữu: bình diện vi tế sẽ
ngừng hoạt động để nhường chỗ cho tâm cực vi tế, vì chỉ duy nhất tâm này
là có thể thực hiện các thời kỳ chuyển tiếp. Tâm vi tế một khi đã tiến
nhập vào tế bào của cha mẹ, các chu kỳ nói trên sẽ lại tuần tự phát
sinh, và cứ thế mà tái diễn.
Nói tóm lại, trong tiến trình luân hồi này, một con người còn sống khi
các thành phần thô của thân và tâm trong họ còn phát triển và duy trì.
Mỗi thời kỳ chuyển tiếp được đánh dấu bởi những “chu kỳ tan rã”, nghĩa
là sự suy thoái và gián đoạn của các bình diện thô rồi vi tế, để cho
bình diện cực vi tế có thể hiển lộ và đảm nhiệm thời kỳ chuyển tiếp.
Liền sau đó bình diện vi tế lại nổi lên và được thay thế ngay bằng bình
diện thô trong suốt thời gian của cuộc sống, chịu sự chi phối của già và
bệnh v.v...
Thật sự là khi ta còn ở trong cái vòng luân hồi này thì ta vẫn phải chịu
sự trấn áp của khổ đau dưới ba dạng: “khổ khổ” (những cảm thọ khó chịu
đau đớn), “hoại khổ” (cảm thọ dễ chịu bình thường nhưng ngắn hạn và kết
thúc dưới dạng thực sự khổ: nuối tiếc, thất vọng, bất mãn...) và “hành
khổ” (cảm thọ vô ký nhưng hàm chứa tất cả tiềm năng của hai loại khổ
trên).
Nếu chúng ta không làm gì [để thay đổi] thì vòng luân hồi này sẽ cứ y
như thế mà tiếp diễn. Nếu chúng ta muốn giải thoát khổ đau thì đừng mong
nó sẽ tự động chấm dứt. Chúng ta phải cố gắng tìm cách đoạn trừ nó, vì
nó sẽ không bao giờ có thể tự động chấm dứt.
Với mục đích mang lại cho hữu tình ở cuối đời một sự phù trợ thích nghi
và đúng lúc, việc rõ biết những giai đoạn tuần tự mà họ đang trải qua là
rất có ích: những chu kỳ tan rã hay phân tán mà kết cuộc là sự chết.
1. Chu kỳ tan rã thứ nhất: nhóm có liên quan với sắc uẩn
Giai đoạn đầu tiên của tiến trình sự chết được đánh dấu bởi sự ngưng
hoạt động của năm thành phần có liên quan với nhau: sắc uẩn, đại viên
cảnh trí “căn bản”, địa đại, thị giác và các sắc tướng thuộc về dòng
tương tục của đương sự.
Khi năm phần này cùng lúc mất đi hiệu lực của mình thì sự yếu đi của
chúng được biểu lộ bằng hai loại dấu hiệu, dấu hiệu bên trong và dấu
hiệu bên ngoài. Nếu chúng ta đến để phù trợ và tiễn đưa người sắp chết
thì điều mà chúng ta phải nhận biết là các dấu hiệu bên ngoài, vì dấu
hiệu bên trong thì chỉ có người đang trải qua tiến trình chết mới thể
nghiệm được mà thôi. Nhưng biết được những dấu hiệu tuần tự bên trong
này cũng không phải là dư thừa. Tuy biết như thế không giúp ích được
người khác một cách trực tiếp thật đấy, nhưng đừng quên là chúng ta rồi
cũng sẽ phải chết. Lúc ấy, dĩ nhiên là nếu có chuẩn bị thì khả năng nhận
biết các dấu hiệu bên trong sẽ cho phép chúng ta ý thức được những gì
mình đang trải qua và chủ động lợi dụng thay vì phải thụ động chịu đựng
tình thế.
Sắc uẩn:
Quý vị hẳn cũng nhớ sắc uẩn có nghĩa là thân xác, nói một cách tổng
quát. Tên gọi hơi phức tạp này có điểm lợi là nó nhấn mạnh đối tượng như
một hợp thể kết cấu bởi nhiều thành phần. Ngoài các đường nét bên ngoài
của thân hình, thân còn bao gồm tất cả các cơ quan nội tạng, bắp thịt
v.v... dưới làn da, và cho dầu không thấy được nhưng những thứ này vẫn
có đó. Hơn nữa, sắc uẩn còn bao gồm một hệ thống kinh mạch và các khí
(hay các năng lượng, nếu quý vị thích từ này hơn) luân lưu bên trong. Đó
là những yếu tố vi tế hơn các yếu tố thô vốn được gọi là “sinh lý”
trong ngôn ngữ thông thường, nhưng [thật ra] chúng thuộc về sắc pháp. Ở
đây, khi nói về sắc uẩn thì danh từ này chỉ hàm ý duy nhất là thân xác,
tức thân thể chúng ta.
Quý vị có đồng ý không? Điều này áp dụng cho tất cả mọi người, chúng ta
là người, tức là những sinh vật, có một xác thân và thịt xương tạo nên
thân của chúng ta. Điều này cũng áp dụng cho thú vật nữa. Có gì khác
biệt giữa thịt của một người và thịt của con vật mà ta dùng để ăn? Sự
khác biệt đó là hiện thời ta vẫn còn sống. Khi chúng ta còn sống thì
phần xương thịt, tức là phần chính yếu của thân chúng ta được tiêm
nhiễm, được duy trì nhờ vào nhiều loại khí khác nhau. Hơn nữa, trong đó
một số có công năng duy trì sự sống. Ngược lại, trong xương thịt của một
xác chết thì không còn luồng khí nào hoạt động nữa. Các khí đã tan rã,
biến mất. Xương thịt ấy không còn thuộc về dòng tương tục của một con
người, một sinh thể nữa.
Giản dị hơn nữa, hãy tưởng tượng chúng ta bị mổ xẻ, bị lấy ra một bắp
thịt hay bị cưa tay hay chân, xương và thịt. Cái đang là một phần thân
thể chúng ta nay bị tách rời ra. Trong trường hợp này, các khí vi tế
đang luân chuyển trước khi tay hay chân bị cưa, nay không vào trong ấy
được nữa vì các kinh mạch đã bị đứt đoạn. Vì các khí không còn có mặt
trong bắp thịt hay phần tay, chân đã bị cưa ấy, nên những hoạt động tâm
thức nội tại của chúng ta cũng bị đình chỉ. Từ nay, chân trái [bị cưa
đứt] của ta chẳng hạn, sẽ thuộc phạm vi của các hiện tượng vật chất vô
tình. Nó không còn [tính chất] gì của một sinh thể hữu tình nữa. Nó
không còn là bộ phận của một sinh vật nữa. Nó không còn thuộc về dòng
tương tục của một con người nữa.
Đó là cách mà chúng ta có thể phân biệt giữa một sinh thể và một vô sinh
thể, giữa hữu tình và vô tình. Ở đây, chúng ta định nghĩa một hiện
tượng là sinh thể hay hữu tình khi các khí chống đỡ cho tâm thức còn
luân lưu trong người họ. Nếu không, hiện tượng này phải được xếp vào
thành phần vô tình.
Vì chúng ta đang đề cập đến hiện tượng vật chất mà Tây Tạng gọi là rlung
(Phạn ngữ: vayu), xin lưu ý là chưa có một sự thỏa thuận chung nào để
dịch chữ này. Khi quý vị đọc chữ “khí” hay “phong” (gió) trong một tác
phẩm [liên quan nào đó], thì hãy nhớ đó là chữ rlung trong tiếng Tây
Tạng. Đây là một hiện tượng vật chất nên tất nhiên phải là một pháp
duyên sinh được tạo tác. Đừng nghĩ rằng đó là một cái gì đặc biệt riêng
rẽ. Đó là một loại hiện tượng tầm thường, do năm đại tạo nên, tức là
đất, nước, lửa, gió và hư không.
Nhìn tổng quát thì sắc pháp không phải là một hiện tượng đơn thuần, hiển
hiện một cách hoàn toàn thuần chất. Vả lại, chọn dùng chữ “uẩn” có mục
đích vạch rõ là ta đang nói đến một hợp thể có nhiều thành phần, kết quả
của năm đại liên kết với giới (Phạn: dhtu Tây Tạng: khams). Có lẽ điều
này rất hiển nhiên, ai cũng biết, nhưng thỉnh thoảng cũng nên nhắc lại
để mọi người ý thức được rõ ràng.
Chúng ta có thể hỏi: tại sao lại làm rắc rối vấn đề như thế, dường như
chỉ vì muốn rắc rối cho vui thôi, vì dùng chữ “sắc” cũng là đủ lắm rồi.
Tại sao lại dùng chữ dài dòng và tối nghĩa như sắc uẩn làm gì?
Thật ra, sắc hay sắc uẩn cũng đồng nghĩa, và ta có thể dùng chữ nào cũng
được. Nhưng chữ sắc uẩn dài hơn mà đức Phật thường chọn dùng là để nhấn
mạnh một sự thật, tuy hiển nhiên nhưng thường bị quên lãng.
Nếu suy nghĩ một chút thì ai cũng có thể đồng ý rằng “thân của ta”, “sắc
của ta” là một hợp thể, do một số thành phần khác nhau phối hợp theo
một số quy luật đặc biệt để tạo thành. Tuy nhiên, dầu đó là sự thật,
nhưng những lúc bình thường không phân tích tư duy thì không biết chúng
ta nhận thức thế nào mà khi nhìn hay nghĩ đến một sắc tướng thì trong
trí ta lại hiện ra, không phải một hợp thể cấu tạo bằng nhiều thành phần
khác nhau, mà một thực thể đơn thuần, có vẻ như do tự nó tạo lập ra,
không tùy thuộc vào bất cứ gì khác!
Thật ra, để có một sắc tướng [nào đó], bắt buộc phải có một số thành
phần khác biệt được sắp xếp theo một phương trình chính xác. Chỉ cần một
thành phần vắng mặt là cái sắc tướng nói trên sẽ không thể hiện hữu.
Đây là sự thật.
Vấn đề là chúng ta không hề nhận thấy sự vật [theo cách đúng] như thế.
Cái sắc tướng hiện ra trong trí chúng ta cho ta thấy đó là một thực thể
độc lập [tự tồn], xuất hiện bằng chính khả năng của nó, hoàn toàn tự
chủ. Nếu chỉ hiện ra trong trí chúng ta dưới dạng ấy cũng chẳng lấy gì
làm nguy hại. Vấn đề là chúng ta lại tin tưởng vào cái tướng bề ngoài
ấy. Thế là chúng ta nắm lấy sự việc dưới khía cạnh ấy, tức là thấy chúng
tự sinh ra và tự tồn tại. Nói cách khác, vì các sắc tướng hiển hiện
trong tâm ta một cách tự nhiên như thể chúng không tùy thuộc vào gì khác
ngoài chính mình, ta sẽ chấp lấy chúng y như thế và tin rằng đó là sự
thật. Sự lầm lạc của ta nằm ngay chỗ này, một sự lầm lạc với nhiều hậu
quả nặng nề vì nhận thức sai lầm ấy chính là cái gọi là chấp thật (Tây
Tạng: bden par dzin pa), chấp có tự tánh [tự hữu], chấp hiện hữu độc lập
(bdag dzin), và đó là căn bản, là gốc rễ của cõi Ta-bà đối với chúng
ta. Nhận thức sai lầm này đã níu giữ chúng ta lại trong vòng luân hồi
sinh tử giữa các thế giới hữu vi, trong đó chúng ta vẫn còn và sẽ tiếp
tục chịu khổ đau.
Do đó, muốn chấm dứt vòng luân hồi sinh tử thì trước hết phải chấm dứt
các vọng tưởng theo thói quen. Vì để phá bỏ những nhận thức sai lầm của
ta về chính mình nên đức Phật đã chọn dùng từ ngữ như trên. Khi nói với
chúng ta về sắc uẩn thay vì chỉ nói sắc hay thân mà thôi, Ngài muốn lôi
kéo sự chú ý của chúng ta: Phải, sắc thân có đó, nhưng sắc này không
phải là một cái gì được thành lập như quý vị vẫn nghĩ và vẫn tin tưởng.
Đó là một uẩn, nghĩa là cái mà quý vị vẫn thấy dưới dạng một sắc thân
chính là kết quả của một hợp thể gồm nhiều thành phần hội tụ với nhau.
Như vậy, nguồn gốc của cõi Ta-bà hay các thế giới tạo tác mà chúng ta
vẫn còn đang thể nghiệm chính là nhận thức [sai lầm] của ta mà Phật giáo
gọi là chấp ngã, hay chấp tuyệt đối. Đối với những ai không biết nhiều
về Phật giáo, tôi thừa nhận là các khái niệm này hơi mơ hồ. Điều này
cũng tự nhiên thôi. Cái mà chúng ta cần nhớ là, cách nhận thức bình
thường của chúng ta làm cho ta vô tình luôn sống trong vọng tưởng, nghĩa
là thấy biết các hiện tượng một cách sai lầm. Trong khi vật thể ta đang
nhìn chỉ là một hiện tượng duyên sinh thì hình tướng trong trí chúng ta
lại hiển hiện như một cái gì tuyệt đối, ngoài nhân duyên mà có!
Các hiện tượng có mặt thật đấy, nhưng sự có mặt của chúng cần có sự kết
hợp của các nhân duyên, vì thế nên mới gọi là kết quả của duyên sinh.
Nhưng ta không hề nhận biết điều này ngay, ngược lại là khác. Vì cái
hình tướng trong trí ta hoàn toàn tương phản với cách phát sinh [thật
sự] của vạn hữu, tất nhiên là nhận thức của ta về hình tướng này sẽ hoàn
toàn có tính cách lừa dối.
Khi phân tích các hiện tượng, nhất là các hiện tượng thuộc sắc tướng,
Phật giáo đã tìm cách đi từ bình diện thô nhất đến bình diện vi tế nhất.
Đi từ các hình tướng thô (tức là có thể nhận thấy bằng mắt), Phật giáo
thấy rằng các hình tướng này được kết hợp bởi các thành phần, và các
thành phần này được kết hợp bởi các nguyên tử. Cứ tiếp tục phân tích thì
sẽ đến các phần tử [nhỏ hơn] hay vi trần, rồi cực vi trần.
Các triết gia Phật giáo đã tranh luận nhiều về các phần tử hay vi trần
này. Họ tự hỏi, các vi trần nhỏ nhất tìm ra được có phương hướng hay
không, v.v... Cho dù bất đồng ý kiến trên vài điểm, nhưng họ hoàn toàn
đồng ý với nhau rằng ngay cả các cực vi trần cũng do năm đại tạo thành,
nghĩa là vẫn còn có thể được phân ly, chia chẻ ra.
Các triết gia Phật giáo đã lý luận như thế nào? Bằng cách phân tích, họ
đi tìm vi trần nào nhỏ nhất có thể hiện hữu. Khi tìm được một cực vi
trần, họ nhận ra rằng không thể tìm ra [hình thức] nhỏ hơn. Họ bèn tìm
cách cô lập cực vi trần ấy rồi để nó trước mặt. Họ lặp lại thao tác ấy
bốn lần nữa, cho đến khi cô lập được bốn cực vi trần khác cùng loại. Sau
đó, họ sắp xếp bốn cực vi trần mới này xung quanh cái đầu tiên. Theo lý
thuyết, lúc này họ có một cực vi trần ở giữa cùng với một ở hướng nam,
một ở hướng đông, một ở hướng bắc và một ở hướng tây. Rồi họ sẽ đi đến
kết luận nào?
Cực vi trần ở phía đông có xúc chạm với cực vi trần ở phía tây hay
không? Nếu đưa ra giả thuyết rằng trong mạn đồ này, cực vi trần phía tây
có thể xúc chạm với cực vi trần phía đông, và kết quả là vừa đặt cái
này bên cạnh cái kia, các cực vi trần sẽ hợp nhất với nhau, thì sẽ đi
đến kết luận không thể chấp nhận là không còn nhiều cực vi trần khác
biệt được đặt cạnh nhau nữa, mà chỉ còn mỗi một vi trần duy nhất.
Vì giả thuyết trên dẫn đến những ngụ ý vô lý như có đặt bao nhiêu cực vi
trần bên cạnh nhau cuối cùng ta vẫn chỉ còn lại có mỗi một vi trần, nên
chúng ta có thể suy luận ra rằng khi một cực vi trần được đặt gần những
cực vi trần khác, chúng sẽ ở cạnh nhau riêng rẽ chứ không thể hợp làm
một với nhau. Mỗi cực vi trần hiển bày nhiều phương hướng, vì thế chúng
vẫn còn chia chẻ được. Cho nên, tuy là cực vi nhưng chúng vẫn là một hợp
thể.
Đó là quá trình phân tích của các triết gia Phật giáo để đi đến kết luận
là một cực vi trần phải là một hiện tượng duyên sinh vì nó là một phần
tử hiển bày nhiều phương hướng, hay là phương phần. Để hiện hữu, nó phải
tùy thuộc vào các thành phần của nó. Nhận định như thế rồi, các triết
gia nói trên suy ra rằng sẽ không bao giờ tìm thấy một cực vi trần nào
nhỏ đến mức không thể chia chẻ được.
Dầu sao đi nữa, họ còn nói thêm, nếu có ai nói ngược lại những suy
nghiệm của họ và xác định rằng đã tìm ra một cực vi trần không thể chia
chẻ được, thì cực vi trần được cho là không chia chẻ được này vẫn là một
pháp duyên sinh, vì không bao giờ nó có thể là một thực thể độc lập và
đứng ngoài nhân duyên. Vì sao? Vì giả định rằng đó là một cực vi trần
không phương phần, nó vẫn phải cần một sự nhận thức rằng nó là một cực
vi trần không phương phần và vẫn phải có một tên gọi. Vậy thì một cực vi
trần không phương phần vẫn tùy thuộc vào một “năng chấp” (người nhận
thức) và một cái “danh” (tên gọi).
Kết luận của những chứng minh trên là tất cả các sự vật hiện hữu nói
chung, và nhất là tất cả các sắc tướng đều là có, không thể chối cãi
được, nhưng lại do nhân duyên mà có. Chúng bắt buộc phải tùy thuộc vào
các sự vật hiện hữu khác làm nhân hay làm duyên cho chúng, tối thiểu là
vào một “năng chấp” và một cái “danh”. Tóm lại, cái gì có đều luôn luôn
là duyên sinh. Điều này có thể thấy rõ hơn khi đó là một sắc pháp thô
như một thân người, v.v...
Tuy nhiên, trong khi pháp duyên khởi giải thích sự thành lập của các
hiện tượng như thế thì chính pháp này cũng ngụ ý tiến trình ngược lại.
Khi đã có một sự xuất hiện vào một thời điểm nào đó thì phải có một sự
biến mất vào một thời điểm khác. Ngay khi một số nhân duyên hội tụ vào
một thời điểm để một sắc tướng thô có thể thành hình thì rất tự nhiên là
sau đó chính các nhân duyên ấy sẽ phân tán, đưa đến sự tan rã, sự diệt
mất của sắc tướng thô đã được thành lập nói trên.
Trở lại tiến trình chết đúng nghĩa thì giai đoạn thứ nhất gọi là chu kỳ
tan rã của sắc uẩn. Nói một cách chính xác hơn là “nhóm sắc uẩn”, vì quý
vị hẳn còn nhớ là có năm thành phần cùng lúc mất khả năng hoạt động.
Hãy thận trọng về ý nghĩa của từ ngữ đang dùng. Ở đây, sự “tan rã” hay
“phân tán của sắc uẩn” không có nghĩa là cái uẩn nói trên, tức là sắc
thân, sẽ hoàn toàn tiêu tan. Không hề có chuyện đó. Vào lúc này thì sắc
thân vẫn còn đó, vẫn đang sống. Thật ra câu trên chỉ có nghĩa là chu kỳ
thứ nhất của sự chết trùng hợp với sự suy nhược của các khí đã duy trì
sắc thân và cho phép nó hoạt động cho đến giờ này. Một khi các khí ấy
suy suyển hay mất đi công năng thì ta nói “sắc uẩn tan rã”.
Các triệu chứng
Các triệu chứng tiêu biểu cho chu kỳ tan rã thứ nhất là gì?
Chúng ta hãy lưu tâm đến các triệu chứng bên ngoài, vì khi đến phù trợ
lâm chung thì đó là những dấu hiệu mà chúng ta có thể nhận biết được.
Về mặt sinh lý, sẽ có một sự suy thoái toàn diện, nhưng đừng lẫn lộn với
sự suy thoái bình thường của tuổi già. Một trong các triệu chứng là
người lâm chung không còn điều khiển được tay hay chân gầy guộc của
mình. Ta thấy rõ điểm này khi quan sát bàn tay họ. Người này không thể
cầm nắm một vật gì nữa. Họ có thể phác một cử chỉ để lấy một cái gì đó,
nhưng không nắm lấy được. Ngược lại, nếu họ có cái gì trong tay thì họ
không thể buông ra được vì các ngón tay bị co quắp cứng lại.
Đại viên cảnh trí: Trí giống như mặt gương
Cụm từ phải thừa nhận là hơi tối nghĩa này chỉ cho nhãn thức. Tại sao
lại so sánh nhãn thức với một tấm gương? Bất cứ vật gì cũng được phản
chiếu khi đặt trước một tấm gương. Cũng thế, trong suốt cuộc đời ta, dĩ
nhiên với điều kiện là mắt và thị giác của ta hoàn hảo, thì chúng giữ
vai trò tấm gương cho ta, vì chúng phản chiếu tất cả những hình tướng
khác nhau trong tầm mắt để ta có thể nhận biết được.
Trong chu kỳ tan rã thứ nhất, cái khí sở y cho thị giác suy yếu rồi nên
mắt bị lòa đi, cái thấy lu mờ đi. Tấm gương không còn làm tròn chức vụ
của nó. Sự phản chiếu sáng rõ qua một tấm gương lành lặn trong sáng
không còn nữa. Nhãn thức mất đi khả năng nhận biết qua cái thấy, vì cái
khí chống đỡ cho nó đã bị suy suyển.
Qua tiến trình của hiện tượng xuất sinh mà chúng ta đã nói lược qua,
chúng ta biết sau năm loại khí chính căn bản, mỗi tháng có một loại khí
phụ xuất hiện, và mỗi loại khí này sẽ giúp cho một loại quan năng hoạt
động, trong đó có một loại khí phụ có công năng giúp cho mắt thấy được.
Khi khí này mất đi hiệu lực thì nhãn thức y cứ vào nó cũng không thể
tiếp tục [tồn tại] nữa.
Giữa chúng ta đây, có rất nhiều người làm việc trong các cơ quan y tế,
và qua nghề nghiệp của mình thường tiếp xúc với những người ở đoạn cuối
của cuộc đời. Tôi tin chắc rằng họ đã nhận thấy những loại triệu chứng
này rất thường xuyên. Hơn nữa, tất cả những ai đã từng ở bên tử sàng của
một người lâm chung đều có thể ghi nhận rằng bắt đầu từ một lúc nào đó,
người lâm chung mất đi khả năng thấy. Điều này không có nghĩa là họ
không thấy gì nữa cả, chúng ta chưa nói đến giai đoạn này, nhưng mắt họ
lòa đi. Khi ta chỉ cho họ một vật gì thì họ không phân biệt vật ấy nữa,
và nếu họ thử gọi tên vật ấy, họ thường gọi sai. Họ lẫn lộn vì dường như
đối với họ, mọi sự trở nên càng lúc càng lờ mờ, không rõ nữa.
Như thế có phải chăng là vào lúc này ai cũng có khuynh hướng nhắm kín
mắt lại? Không. Một số người có thể có phản ứng đó, nhưng ngược lại rất
nhiều người lại mở căng mắt ra nhìn chòng chọc. Nhưng ví như ta quơ tay
trước mắt họ, họ cũng sẽ không còn phản ứng vì không phân biệt được gì
nhiều nữa. Trong họ, đại viên cảnh trí [căn bản] đã mất hiệu lực rồi.
Địa đại
Đồng thời với sắc uẩn và đại viên cảnh trí, địa đại cũng tan rã trong
chu kỳ thứ nhất, làm cho nhiều tác dụng phát sinh. Thân của người lâm
chung trở nên mềm rũ, vô lực và tay chân yếu ớt. Họ không cử động chân
tay được nữa.
Sự tan rã của địa đại làm cho họ có cảm giác bị lún xuống đất, đó là một
dấu hiệu ta không thấy được từ bên ngoài, nhưng vì lý do ấy mà nhiều
người lâm chung thường xin được nâng lên trên gối.
Một lần nữa, xin đừng hiểu lầm. Dầu ta dùng chữ “địa đại tan rã”, nhưng
không có nghĩa là địa đại hoàn toàn bị hủy diệt hoặc bay biến đi mất.
Như trước kia, điều xảy ra là cái khí chống đỡ loại đại này đã quá yếu
để làm tròn chức vụ của mình. Nói tan rã, có nghĩa là cái khí sở y của
địa đại trong suốt cả một đời nay đã hư hoại rất nhiều. Một vài chuyên
luận nói là địa đại tan rã trong thủy đại. Nhưng đừng tưởng tượng là địa
đại sẽ hòa tan trong thủy đại. Quý vị cần nhớ rằng “địa đại tan rã” chỉ
có nghĩa là cái khí chống đỡ cho địa đại đã suy suyển đi và đã ngừng
hoạt động.
Thị giác
Trong suốt cuộc đời, nhờ thị giác mà ta thấy và ý thức được các sự vật.
Nay trong chu kỳ tan rã thứ nhất, người lâm chung không thể mở hay nhắm
mắt theo ý mình. Họ không còn điều khiển được mí mắt.
Sắc tướng trong dòng tương tục
Sắc tướng bên ngoài của người lâm chung cũng “tan rã”, nghĩa là cũng mất
đi khả năng tự duy trì và hoạt động của mình. Dấu hiệu thấy được từ bên
ngoài là màu da người sắp chết biến đổi, mất đi vẻ tươi nhuận mà trở
nên tái nhợt dần như xác chết. Rõ ràng là họ không còn sức lực nữa. Tuy
nhiên, trừ một vài trường hợp đặc biệt, [thường thì lúc này] người sắp
chết vẫn còn đủ sức nghe và hiểu.
Tóm lại, chu kỳ thứ nhất của sự chết bao gồm sự tan rã các thành phần
liên quan đến sắc uẩn. Trong giai đoạn này, sắc uẩn, đại viên cảnh trí,
địa đại, thị giác và các sắc tướng thuộc dòng tương tục của đương sự đều
đồng thời tan rã. Khi liệt kê, ta bắt buộc phải nói từ điểm này sang
điểm khác, nhưng trong thực tế thì cả năm thành phần nói trên đều cùng
lúc mất hiệu lực.
Triệu chứng bên trong:
Chúng ta đã nói đến năm triệu chứng bên ngoài mà người ngoại cuộc có thể
nhìn thấy. Những gì không thấy được từ bên ngoài mà người lâm chung cảm
nhận được là triệu chứng bên trong. Trong chu kỳ thứ nhất này, người
lâm chung có những ảo tượng, đây không phải là những gì thấy được qua
cảm quan, qua con mắt, mà là một sự cảm nhận nội tại.
Những gì người lâm chung cảm nhận có thể so sánh với điều chúng ta thấy
khi đứng giữa một bãi cát [mênh mông] hay trên một con đường tráng nhựa
khi trời rất nóng. Do nhiệt độ cao và ánh phản xạ của mặt trời, đôi khi
ta có ảo giác thấy nước ở đằng xa, nhưng sự thật thì không có.