PHỤ LỤC
I. BÀI CẦU NGUYỆN BẢY DÒNG
“Ở biên giới tây bắc xứ Oddiyana,
Trên nhụy của một bông sen nở,
Đấng kỳ diệu đạt thành tựu cao,
Lừng danh tên Ngài là Liên Hoa Sanh.
Chung quanh là đoàn tùy tùng thánh nữ,
Noi gương Ngài con nguyện làm theo,
Xin Ngài đến ban phước cho con.”
II. BÀI NGUYỆN BẢY NHÁNH CHI TIẾT
Bằng thân khẩu ý, con đảnh lễ tất cả các đấng trong quá khứ, hiện tại, vị lai trên con đường giác ngộ tối thượng.
Hỡi những sư tử vương của nhân loại, cho dù các ngài có đông đảo tới đâu
trong tất cả các cõi vũ trụ này, con xin đảnh lễ mỗi một và tất cả các
ngài.
Nhờ nguyện lực của đức Phổ Hiền, tất cả các Đấng Chiến Thắng xuất hiện
trong phạm vi tri giác của con. Con đảnh lễ các ngài bằng thân thể con
nhiều như vô số vi trần trong các cõi Phật.
Trên mỗi vi trần này lại có chư Phật nhiều như vô số vi trần trong vũ
trụ, mỗi vị an tọa giữa một tập hội rộng lớn gồm những Bồ Tát, trong
cách này khi nhận ra rằng vạn pháp giai không, con khao khát thế giới
tràn đầy chư Phật như thế.
Con xin tán thán những phẩm tính siêu việt của mỗi Đấng Chiến Thắng bằng
một đại dương những bài ca tán tụng tuyệt vời, nhưng giống như một dại
dương bao la không đáy, con chưa từng khô cạn nguồn diễn bày những đức
hạnh của các Ngài.
Những bông hoa tươi thắm nhất, những chuỗi tràng quý báu nhất, những tán
lọng vương giả tuyệt hảo, những ngọn đèn rực rỡ, dầu lễ và trầm hương
quý giá. Con xin cúng dường lên các Đấng Chiến Thắng.
Những lễ phục trang trọng nhất và dầu thơm hảo hạng, một ngọn núi thực
phẩm quý giá ngang bằng núi Tu-di, tất cả được sắp xếp theo một cách thế
đặc biệt và trang nhã nhất, con tôn kính cúng dường lên các Đấng Chiến
Thắng.
Bằng niềm tin tuyệt đối vào các công hạnh của đức Phổ Hiền, con xin cúng
dường bất kỳ những vật hiện hữu vô tận và không gì sánh được lên các
Đấng Chiến Thắng. Con tôn kính cúng dường những phẩm vật này lên từng
Đấng Chiến Thắng.
Dưới ảnh hưởng của tham, sân và si con đã vi phạm những nghiệp bất thiện
về thân, khẩu, ý và giờ đây con xin sám hối mỗi một và tất cả những tội
này mà con từng mắc phải.
Con thành tâm hoan hỷ trước những đức hạnh của tất cả các Đấng Chiến
Thắng khắp mười phương, những trưởng tử của chư Phật, các vị Độc giác
Phật, những bậc A-la-hán và kể cả những ai trong giai đoạn tu học đã làm
được bất kỳ những thiện hạnh nào.
Đối với những bậc là ánh sáng của thế gian, những bậc dần dần đạt đến
giác ngộ mà không bám chấp vào Phật quả, con khẩn cầu những vị bảo hộ
này chuyển Pháp luân vô song.
Đối với những bậc đã đến lúc thị hiện nhập Niết-bàn, con chấp tay khẩn
khầu vì lợi ích và hạnh phúc của tất cả chúng sanh, xin các ngài trụ thế
nhiều kiếp như những vi trần trong các cõi Phật.
Khi kính lễ, cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức của
chúng sanh, thỉnh cầu chư Phật chuyển Pháp luân, đừng thị hiện nhập Niết
bàn. Bất kỳ những thiện hạnh nhỏ bé nào có được từ những thực hành này,
con xin hồi hướng tất cả cho sự giác ngộ tối thượng.
III. BÀI NGUYỆN CỦA ĐẠO SƯ TANGTONG GYALBO
Quy y Phật, Pháp, Tăng.
Cho đến khi con thành Chánh giác.
Nguyện các công đức con tạo được.
Như bố thí, trì giới vân vân...
Khiến con thành Phật để độ sinh.
Chúng sanh, chúng con đầy hư không.
Đảnh đầu đều có hoa sen trắng.
Và vầng trăng hiện Mật từ HRIH.
Đấng Chí tôn Thánh giả Quán Thế Âm.
Khiết bạch quang minh rực năm màu.
Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng.
Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu.
Hai tay trong bốn trên chắp lại.
Hai tay phía dưới của Ngài cầm.
Đóa hoa sen trắng chuỗi pha lê.
Lụa châu trang sức nghiêm Thánh thể.
Choàng ngực da nai, đội bảo quan.
Trên mão có Phật A-mi-đà.
Đang ngồi trong thế già phu tọa.
Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi.
Ngài là chân tính là diệu thể.
Tất cả nương về để quy y.
Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm.
Bậc Thánh hoàn toàn không khuyết vọng.
Thân báo thanh tịnh suốt một màu.
Đỉnh đầu nghiêm sức viên mãn Phật.
Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh.
Rốt ráo như thế nhất tâm cầu.
Bậc Thánh thân báu chiếu quang huy.
Tận trừ vọng tưởng và nghiệp chướng.
Ngoại cảnh biến thành Cực lạc bang.
Chúng sanh thân khẩu ý ba nghiệp.
Đều thành thân khẩu ý Quán Âm.
Thanh, sắc, pháp, trần thảy thành không.
Tất cả chỉ là vô phân biệt.
Sắc tướng của con và mọi người.
Hiện là thánh thể của Quán Âm.
Tất cả âm thanh đều biến thành.
Âm điệu của chú Lục tự minh.
Tư tưởng của con và mọi người.
Hiện là trung tâm của đại trí.
Xin nguyện từ nơi công đức này.
Con được chóng thành Quán Thế Âm.
Độ khắp chúng sanh không phân biệt.
Thẳng vào cảnh giới của chân như.
IV. ĐẠI NGUYỆN CỦA BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Đạo sư của ta chính là lòng bi mẫn siêu phàm.
Ta chính là Bổn tôn hiện thân của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sanh, đối tượng của lòng bi mẫn,
Và với sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc những ai trong cảnh khốn cùng.
Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và lòng sùng mộ,
Ta sẽ rước họ tới cõi Cực Lạc, đó là đại nguyện của ta.
Nhờ năng lực lòng bi mẫn của ta, những chúng sinh trong lục đạo luân hồi
có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta với lòng
tin Chánh pháp,
Ta sẽ chăm sóc họ với lòng bi mẫn mẹ hiền, bởi ta được gọi là Đấng bi mẫn siêu phàm.
Đặc biệt những ai không có khả năng tự bảo vệ thì trong suốt đêm ngày,
ta trông chừng họ bằng đôi mắt giác tánh nguyên sơ không ngăn ngại.
Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng họ điểm nương tựa cuối cùng khi họ khổ đau tuyệt vọng.
Bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có đôi mắt thấu suốt.
Thiền định về sắc tướng của ta, niệm danh hiệu của ta, trì tụng tâm chú
của ta và cử hành nghi lễ chay tịnh của ta – những ai thực hành nỗ lực
như thế, mặc dù họ từng phạm một trong các tội ác ngũ nghịch đưa đến đoạ
lạc vào địa ngục Vô gián,
Ta sẽ dẫn họ tới cõi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng pháp vương hoàn vũ.
Bởi nguyện lực vô song của ta từ muôn kiếp trước là tiếp dẫn vãng sanh không dụng công,
Tất cả chúng sinh nào nhìn thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta,
Những thánh chúng trong cõi Cực Lạc Phương Tây của đức Phật A-mi-đà và
các Đấng Chiến Thắng đã tuyên xưng ta là Đấng giải thoát tự nhiên khỏi
luân hồi sinh tử.
Than ôi!
Trong thời mạt pháp này, mặc dù ta đã dõi mắt đến chúng sinh với lòng bi mẫn bao la,
Nhưng họ dường như vuột khỏi tầm nhìn bi mẫn của ta bởi ác hạnh ngăn che,
Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng Bắc,
Họ vuột khỏi tầm tay của ta và cả các Đấng Chiến Thắng khác.
Trong khi lòng bi mẫn của ta không định kiến và thiên vị,
Nhưng bởi tập quán ương ngạnh của họ và niệm tưởng bất chánh,
Chúng sanh cứ mãi lang thang vơ vẩn trong vực sâu tăm tối của tam đồ ác khổ.
Nhận ra rằng do họ tự gây nhân ác, lỗi lầm vô minh, ta tìm thấy họ vẫn xứng đáng với lòng bi mẫn của ta.
Thương thay!
Thời đại mạt pháp khi bệnh tật, vũ khí và nạn đói làm họ khốn khổ,
Thọ mạng ngắn dần vì ma vương bất thần mang họ đi,
Lời nói họ là vọng ngữ vì họ quá lanh lợi trong sự lọc lừa kẻ khác,
Thức ăn của họ bất tịnh vì họ dấn thân vào việc sinh nhai tà mạng,
Quan kiến của họ suy đồi vì lao vào vực thẳm hư vô và vĩnh hằng.
Mặc dù các Đấng Chiến Thắng muốn ngăn cản họ nhưng không thể dừng họ lại được,
Chắc chắn là cửa địa ngục đang chờ họ.
Đã đến lúc ta cho các con vài lời giáo huấn.
Có được thân người với mười tám tự do và cơ hội quả thật là quý hiếm như rùa mù lọt vào bọng cây,
Bây giờ chính là duyên lành trổ quả để các con thực hành Phật pháp.
Nếu buông lung và phóng dật với những tà nghiệp về thân ngữ tâm, các con
sẽ gây ra đau khổ trong tương lai ở kiếp tái sinh nơi ba đường ác,
Là nơi mà ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo cũng khó gặp.
Lưỡi hái thần chết vung lên lúc nào không biết, một khi các con đã đọa lạc vào nơi đó.
Vậy thì hãy thực hành cốt tủy Giáo pháp.
Phật Pháp không hiện hữu chỉ vì lợi ích tầm thường là nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ hãi và đáp ứng mọi ước muốn của con
Phật pháp không đơn thuần là sự giả tạo như thế, vì vậy hãy nhìn vào tâm thức phi đạo đức của các con.
Giờ đây, khi các con đã sở hữu một nền tảng quý hiếm của thân người,
Các con đã có những hạt giống tốt để tích tập công đức.
Hãy sử dụng ba điều – chánh niệm, tỉnh giác, và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh.
Hãy quán chiếu vô thường vì nó làm tăng trưởng đức hạnh.
Hãy bắt đầu sự vun trồng đức hạnh với lòng sùng mộ vô biên.
Niềm tin và sự quy ngưỡng Giáo pháp là gốc rễ của đức hạnh.
Lòng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh
Bồ-đề tâm nguyện và Bồ-đề tâm dụng là cốt lõi của đức hạnh
Sáu Ba-la-mật là những nhánh và cành của đức hạnh.
Hoan hỷ trước những đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.
Tứ nhiếp pháp để thu phục nhân tâm của chúng sanh là hoa của đức hạnh.
Và tánh Không với lòng bi mẫn siêu phàm là quả của đức hạnh.
Nếu cây đức hạnh được vun trồng theo cách này,
Nó sẽ đem lại những quả trái nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và mãi mãi;
Đó là tính tương thuộc bất biến của tánh Không.
Không có các phương tiện bảo vệ loài cây cao quý của đức hạnh đã tích tập được,
Những đức hạnh này sẽ liên tục bị phí phạm trong bardo.
Này các con!
Phủ nhận luật nhân quả, từ bỏ Giáo pháp, làm hư hỏng giới luật tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.
Sự gây hấn, sân hận, thù địch, và ganh tị,
Là trận mưa đá hung bạo làm hư thối quả của đức hạnh.
Bám víu vào thanh danh lợi dưỡng và liên tục bị đời sống gia chủ lôi kéo,
Là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.
Báng bổ hay bêu xấu các Đạo sư và Bồ Tát bởi sự kiêu căng, tự phụ và ngạo mạn thái quá,
Là một cơn hạn hán dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập của các con.
Hậu quả không tránh khỏi là khổ đau mãi dai dẳng bên con ngày càng nhiều.
Các pháp đối trị với nó là ba loại trí tuệ siêu việt, niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính cao cả.
Sự hoan hỷ trước thành công của người khác, xả ly, quán chiếu vô thường và nhàm chán luân hồi sinh tử.
Kềm chế kiêu ngạo, thấu triệt quan kiến trung đạo,
Đây là những lá chắn bảo vệ bền vững.
Hãy giữ giới luật Bát quan trai,
Từ bỏ những phóng dật của thân khẩu ý,
Bất kỳ những gì xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, là đấng hợp nhất tất cả các Đấng Chiến Thắng;
Âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu âm;
Sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ-đề tâm.
Đừng bao giờ lìa xa ba điểm trọng yếu này
Hãy liên tục trì tụng thần chú Lục tự đại minh, chỉ một điều đó thôi là đủ.
Hãy sử dụng tất cả những công đức mà bản thân và tất cả chúng sanh đã
tích lũy được trong ba thời - quá khứ, hiện tại và vị lai, để giúp tất
cả chúng sanh nhanh chóng thành tựu Phật quả.
Hãy hồi hướng công đức cho tận pháp giới quá hiện vị lai của vô số chúng sanh trong lục đạo luân hồi.
Chủ đề hợp nhất này như một dây cương dẫn dắt một con ngựa.
Hãy nói với những ai được gặp những điều sau đây:
Đừng bám chấp vào đời này, nó giống như một giấc mộng dễ chịu.
Tránh xa cám dỗ của cái xấu, điều ác không có sự chấm dứt.
Đừng củng cố bởi tám ngọn gió thế gian, các con chỉ lừa gạt chính mình.
Đừng lập ra kế hoạch, nhớ rằng các con có thể chết vào ngày mai.
Hãy kiên trì tận hiến thân ngữ tâm cho Giáo pháp.
Hãy khuyến khích mọi người thực hành theo trong bất kỳ cách nào các con có thể.
Vào lúc lâm chung, ta sẽ tiếp dẫn các con tới cõi Cực Lạc thuần tịnh.
Om mani padme hum!
V. BA MƯƠI BẢY PHÁP HÀNH BỒ TÁT ĐẠO
(Bản văn của Thánh tăng Ngulchu Thogme Zangpo)
Đã được thân người quý hiếm với đầy đủ tự do và thuận lợi, vậy hãy
chuyên cần lắng nghe, suy gẫm và thực hành giáo pháp bất kể ngày đêm để
giải thoát cho mình và chúng sanh khỏi biển khổ luân hồi. Đó là pháp
hành Bồ Tát đạo.
Vì quyến luyến người khác, tâm ta bị khuấy động như sóng nước. Vì hận
ghét kẻ thù, tâm ta bị thiêu đốt như lửa cháy. Bởi vậy, trong bóng đêm
của vô minh, ta hãy gắng học hỏi những gì nên làm và không nên làm. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Tránh xa những đối tượng xấu, phiền não sẽ dần giảm thiểu. Gìn giữ không
để thất niệm, các thiện hạnh sẽ tự nhiên tăng trưởng. Với tín tâm thuần
khiết, giáo lý sẽ phát khởi. Hãy tu tập nơi thanh vắng. Đó là pháp hành
Bồ Tát đạo.
Thân bằng quyến thuộc lâu năm rồi sẽ phải chia tay. Tài sản tạo dựng
bằng mồ hôi nước mắt rồi cũng phải bỏ lại. Thần thức là khách trọ trong
căn nhà thân xác rồi sẽ phải ra đi. Đừng bám víu vào kiếp sống này. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Liên hệ với ác tri thức sẽ làm tam độc gia tăng trong khi ta đang học
hỏi, suy tư và tu tập. Và họ sẽ làm tâm từ của chúng ta thối thất. Hãy
tránh xa bạn xấu. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nương cậy nơi thiện tri thức thì lỗi lầm của ta sẽ dần tiêu trừ và đức
hạnh của ta sẽ hoàn thiện. Hãy quý trọng các vị đạo sư hơn cả thân mạng
của mình. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Bị trói buộc trong ngục tù sanh tử luân hồi, làm sao những vị trời phàm
tục có thể hộ trì cho ta? Bởi vậy, hãy quy y nơi Tam Bảo, nơi nương tựa
chân thật. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Đấng Điều ngự Trượng phu từng nói tất cả những nỗi thống khổ trong ba
đường ác đều là hậu quả của ác nghiệp. Bởi vậy, dù có mất mạng ta cũng
quyết không làm việc ác. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Như giọt sương trên đầu ngọn cỏ, lạc thú trong Ba cõi chỉ trong thoáng
chốc rồi tan biến. Hãy phấn đấu đạt đến giải thoát tối thượng. Đó là
pháp hành Bồ Tát đạo.
Khi những bà mẹ từng yêu thương ta từ vô thủy đang chịu khổ đau thì
hạnh phúc riêng mình có lợi ích gì? Bởi vậy, muốn cứu độ vô lượng chúng
sanh thì phải đào luyện chí hướng vị tha. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Tất cả khổ đau đều do sự ước muốn hạnh phúc cho bản thân, trong khi chư
Phật toàn giác xuất phát từ tâm vị tha. Bởi vậy, hãy đánh đổi hạnh phúc
của ta lấy sự khổ đau của chúng sanh. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ vì lòng tham không đáy thúc đẩy hắn trộm cướp hoặc bảo kẻ
khác tước đạt tài sản của ta, hãy dâng hiến cho hắn mọi thứ, kể cả công
đức mà ta đã góp nhặt trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó là pháp hành
Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ muốn chặt đầu ta trong khi ta không hề làm điều gì sai
trái. Hãy phát tâm từ bi thọ nhận hết tội ác của họ. Đó là pháp hành Bồ
Tát đạo.
Mặc dù có kẻ tuyên cáo cho cả ngàn thế giới những chuyện xấu về ta, hãy
lấy tâm từ bi hoàn trả lại bằng cách tuyên dương những đức tính của họ.
Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù có kẻ phỉ báng chế nhạo ta trước đám đông, hãy cúi lạy và tôn
kính họ, xem họ như một vị đạo sư. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mặc dù kẻ mà ta chăm sóc thương yêu như con lại xem ta như kẻ thù. Hãy
đối xử với họ như một bà mẹ hiền yêu thương đứa con bệnh hoạn. Đó là
pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu có kẻ chỉ vì kiêu mạn lại đi gièm pha ta, hãy đặt họ lên đỉnh đầu
với sự tôn kính như ta làm đối với vị Bổn sư. Đó là pháp hành Bồ Tát
đạo.
Mặc dù sống trong nghèo khó và bị khinh miệt, mắc phải bệnh tật hiểm
nghèo và bị tà ma quấy rối, nhưng ta không chút sờn lòng. Hãy gánh nhận
những khổ đau và tội ác của chúng sinh. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Dù ta có nổi tiếng và được mọi người trọng vọng, hoặc giàu có như
Tỳ-sa-môn thiên vương, hãy nhận rõ sự phù phiếm của danh lợi, chẳng có
gì đáng để tự mãn. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Khi sự sân hận là kẻ thù chính chưa khống chế được, thì dù có khuất phục
được những kẻ thù bên ngoài cũng chỉ làm cho chúng tăng thêm mà thôi.
Bởi vậy, ta phải điều phục tâm mình bằng hai đoàn quân Từ và Bi. Đó là
pháp hành Bồ Tát đạo.
Dục lạc cũng như nước muối, càng uống càng thêm khát. Hãy buông bỏ ngay những gì gây ra tham ái. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Vạn pháp đều do tâm tạo. Từ khởi thủy, bản tánh tâm không hề bị chấp
trước trong các biên kiến. Hãy nhận thức như thế và đừng để tâm mình bị
lôi cuốn vào vòng nhị nguyên đối đãi. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Khi đối diện với các đối tượng hấp dẫn, dù thấy chúng đẹp đẽ như cầu
vồng giữa mùa hạ, hãy biết rằng chúng không có tự tánh và hãy xả bỏ
luyến ái chấp thủ. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Mọi hình thức khổ đau đều như mộng ảo. Chấp các huyễn ảnh có thực sẽ làm
nhọc tâm ta. Bởi vậy khi gặp nghịch cảnh, hãy xem chúng như ảo huyễn.
Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Người tầm cầu giác ngộ có khi phải thí bỏ cả thân mạng, vậy cần gì phải
để ý đến vật chất bên ngoài. Hãy bố thí mà không cầu mong sự đền đáp. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu không giữ giới, ta không thể gặt hái được thành quả gì, đừng nói chi
đến ước muốn làm lợi lạc cho chúng sanh, điều này thật đáng buồn cười.
Bởi vậy, hãy trì giới mà không có sự mong cầu của thế gian. Đó là pháp
hành Bồ Tát đạo.
Đối với những vị Bồ Tát muốn vun bồi công đức thì những kẻ hãm hại họ
lại là những bảo vật quý báu. Bởi vậy, hãy tập nhẫn nhục với tâm vô hận
thù. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Ngay cả hàng Thanh văn và Độc giác chỉ mong cầu tự giác, cũng gắng công
tu tập miên mật như đang khẩn trương dập tắt lửa cháy trên đầu. Bởi vậy,
nỗ lực tinh tấn để lợi lạc cho chúng sanh là căn nguyên của mọi thiện
căn. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nên biết rằng các phiền não đều bị tiêu trừ bởi thiền chỉ và thiền quán.
Hãy luyện tập chú tâm để siêu việt bốn Vô sắc định. Đó là pháp hành Bồ
Tát đạo.
Có năm ba-la-mật mà thiếu Trí huệ Ba-la-mật thì không thể dẫn đến đạo
quả. Bởi vậy, hãy kết hợp các phương tiện thiện xảo cùng với trí tuệ để
khỏi lạc vào Ba cõi. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu không tự quán xét lỗi lầm tức là ta chỉ mang danh hành giả mà không
có thực hành. Bởi vậy, hãy luôn luôn quán xét và loại trừ lỗi lầm của
mình. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Nếu vì sự thôi thúc của phiền não mà ta vạch lỗi lầm của một vị Bồ Tát,
thì chính ta tự hại mình. Bởi vậy, đừng phô bày lỗi lầm của những hành
giả Đại thừa. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Danh lợi chỉ gây ra sự tranh chấp và làm cho việc học hỏi, suy tư, tu
tập suy thoái. Bởi vậy, hãy từ bỏ và đừng dính mắc đến thân bằng quyến
thuộc, những mối tương quan thí chủ... Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Ác khẩu làm xáo động tâm trí kẻ khác và làm hư hoại Bồ Tát hạnh. Bởi
vậy, hãy tránh những lời lẽ khắc nghiệt gây ra sự bất an cho kẻ khác. Đó
là pháp hành Bồ Tát đạo.
Phiền não khi đã được huân tập thì thật khó ngăn chặn bằng các pháp đối
trị. Hãy trang bị bằng các vệ binh chánh niệm và tỉnh giác để diệt trừ
những phiền não. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Tựu trung, bất luận đang làm gì, ta phải tự hỏi: “Tâm ta đang ở trạng
thái nào?” Hãy luôn giữ chánh niệm và tỉnh giác để lợi lạc cho chúng
sanh. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
Giải trừ nỗi thống khổ của vô lượng chúng sanh, thấu suốt sự bất toàn
của Ba cõi. Hãy dùng công đức của những nỗ lực này để hồi hướng đến giác
ngộ. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo.
VI. THUẬT NGỮ VÀ DANH XƯNG
Akong Tulku Rinpoche: Ngài sinh vào ngày 25 tháng 12 năm 1939 ở tỉnh
Kham, miền Đông Tây Tạng, một miền giáp ranh với Trung Hoa. Ngài được
công nhận là một hiện thân tái sinh – tulku – của một vị trụ trì trước
của tu viện Drolma Lhakhang, đã được xem là “Akong thứ nhất” - Akong
Tulku (1883- 1938). Trụ xứ của ngài hiện ở tu viện Samye-Ling,
Eskdalemuir, Dumfriesshire – Scotland.
A-la-hán: dịch nghĩa là Sát Tặc tức là diệt hết bọn giặc phiền não, ô
nhiễm; cũng có nghĩa là Ứng Cúng là người đáng được cúng dường; là Bất
Sinh hoặc là người đã đạt Niết-bàn, đoạn diệt sinh tử. A-la-hán là danh
từ chỉ một Thánh nhân, một người đã đạt cấp “vô học” của Thánh đạo,
không bị ô nhiễm và phiền não chi phối.
Atisa: Đạo sư và học giả vĩ đại người Đông Ấn (982 - 1054), đã đóng góp
rất nhiều trong việc truyền Phật giáo sang Tây Tạng. Ngài chuyên nghiên
cứu các phương pháp phát triển tâm Bồ-đề và là một trong những vị thầy
chính ở tu viện nổi tiếng Siêu Giới (Vikramashila). Ngài được mời qua
Tây Tạng năm 1042 và sống tại đây 12 năm cuối đời mình. Ngài là người
sáng lập trường phái Ca-đường (Kadampa), gây ảnh hưởng rất lớn cho nền
Phật giáo Tây Tạng, nhất là dòng Cách-lỗ (Gelugpa) của Đại sư Tông Khách
Ba (Tsong-kha-pa). Đệ tử quan trọng nhất của Ngài là Chủng-đôn-ba
(Dromtonpa, 1003- 1064).
Chagdud Tulku (Đại sư): sinh năm 1930 tại Kham, một tỉnh miền Đông Tây
Tạng. Thân phụ của Ngài là Sera Kharpo một Đạo sư của dòng phái Gelugpa,
thân mẫu của Ngài là Nữ đạo sư Dawa Drolma, một hóa thân tôn quý của
đức Tara trắng. Ngài là bậc đại sư Tây Tạng nổi tiếng tại Tây phương,
được công nhận là tái sanh lần thứ 14 của Đại Sư Chagdud. Đại sư Chagdud
Tulku hoằng pháp khắp các nước Tây phương, từ châu Âu sang châu Mỹ cho
đến khi ngài viên tịch năm 2002. Rinpoche đã có nhiều hóa hiện, cả bình
an và phẫn nộ, nhưng tận thâm sâu là lòng kiên nhẫn gần như vô bờ đối
với chúng sinh.
Dudjom Rinpoche (Đạo sư): Đức Kyabje Dudjom Rinpoche (1904-1987) là một
vị thánh và Vidyadhara (Trì Minh Vương) vĩ đại của Phái Nyingma của Phật
Giáo Tây Tạng, và được cộng đồng Tây Tạng coi là vị đại diện trực tiếp
của Đạo sư Liên Hoa Sanh, vị Phật thứ hai của thời đại chúng ta. Như
vậy, theo “Vòng Hoa Những Viên Ngọc Pha lê: Lời Cầu nguyện những Hóa
Thân Thần kỳ của Đức Kyabje Dudjom Rinpoche” thì trên thực tế, Kyabje
Rinpoche là vị thứ mười tám trong một loạt các Hóa thân bao gồm những
Đạo sư Phật Giáo vĩ đại nhất của Ấn Độ và Tây Tạng. Đức Dudjom Rinpoche
đã dâng hiến nhiều đời sống cho việc thực hiện Phật sự.
Gampopa: 1079–1153 Đức Gampopa còn có tên là Dagpo Lharje hay Sonam
Rinchen, là đệ tử thượng thủ và là người truyền thừa chính của Jetsun
Milarepa. Ngài được ví như mặt trời, so với Rechung người viết lại tiểu
sử của Milarepa, được ví như mặt trăng. Đức Gampopa là người cha của
truyền thống Kagyu, cội gốc và nền tảng của phái này. Hoạt động của Ngài
về đạo pháp bắt đầu trong một đời trước, khi Ngài là một Bồ Tát có tên
là Chandra Prabha Kumara hay “Ánh Trăng Trẻ Trung”, là một đệ tử của Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật đã nói trong Kinh Định Vương
(Samadhiraja Sutra) rằng vào thời mạt pháp, hậu thân của Ánh Trăng Trẻ
Trung sẽ truyền bá những giáo lý của kinh này, nó chính là thực nghĩa,
là Đại Ấn (Mahamudra). Qua nguyện vọng Bồ Tát của mình và những ban
phước gia bị của Phật Thích-ca, Ánh Trăng Trẻ Trung đã tái sanh ở Tây
Tạng là đức Gampopa và sáng lập ra dòng Kagyu. Tên Gampopa của Ngài còn
ám chỉ Ngài như là sự tái sanh của vua Srong-Tsan-Gampo, vị vua Phật
giáo đầu tiên của Tây Tạng, mất vào năm 650. Gampopa sanh ở miền trung
Tây Tạng, là một y sĩ. Khi gia đình Ngài bị sụp đổ vì một nạn dịch, Ngài
đã hứa với vợ mình trước khi chết rằng Ngài sẽ xuất gia và hiến đời
mình cho Phật pháp. Được thọ giới năm 26 tuổi với pháp danh là Sonam
Rinchen, Ngài bắt đầu tu hành trong truyền thống Kadampa của Atisha. Về
sau Ngài gặp đại thiền giả Milarepa, người nối dòng từ Tilopa qua
Naropa, đến Thầy Milarepa là Marpa, Đại dịch giả và ngài là đệ tử thứ
nhất nối pháp của Jetsun Milarepa. Về già ngài có nhiều đệ tử và xây
ngôi chùa ở Gampo Dar làm trung tâm cho dòng Kagyu. Trong những đệ tử
truyền dòng, đặc biệt có Karmapa đệ nhất, Dusum Khyenpa là đệ tử của
Ngài, là người sáng lập dòng Karma Kagyu, tu viện chính là Tsurphu và
nay đã đến đời Karmapa thứ 17. Ngài đã viết các luận văn về Đại Ấn và
những giáo lý Kagyu. Ngoài tác phẩm Vòng Hoa Quý Báu của Con Đường Tối
Thượng, những tác phẩm chính khác là Sự Trang Hoàng Bằng Ngọc của Giải
Thoát và Bốn Pháp của Gampopa. Trong những tác phẩm của ngài, Gampopa
nói rằng những người đời sau có niềm tin mãnh liệt vào ngài, nghiên cứu
những bản văn trên cũng như được những lời dạy trực tiếp từ ngài. Ngài
nói, dầu những đệ tử tương lai không có dịp may gặp chính bản thân ngài,
nhưng nếu có, ngài cũng sẽ không trao cho họ cái gì hơn những điều được
nói trong các bản văn đó.
giác ngộ: danh từ được dịch nghĩa từ chữ bodhi (bồ-đề) của Phạn ngữ chỉ
trạng thái tỉnh thức, lúc con người trực nhận tính Không (nyata), bản
thân nó là Không cũng như toàn thể vũ trụ cũng là Không. Chỉ với sự trực
nhận đó con người mới thấu hiểu được thể tính mọi hiện tượng. Tính
Không hiểu ở đây không phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể
tính vô biên không thể dùng suy nghĩ, cảm nhận để đo lường, nằm ngoài
cặp đối đãi có-không. Tính Không này không phải là một đối tượng để một
chủ thể tiếp cận đến vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Vì vậy, giác
ngộ là một kinh nghiệm không thể giải bày.
Guendune: Ngài sinh năm 1918 nơi miền Đông Tây Tạng, là một thiền giả
lớn và là tu sĩ đã thọ cụ túc giới. Ngài đã nhập thất một mình, một số
lần, hơn ba mươi năm ở Tây Tạng, rồi ở Ấn Độ. Ngài được Đức Gyalwang
Karmapa 16 chọn đi Châu Âu để hoằng pháp. Từ năm 1975, Ngài hoạt động
không quản mệt nhọc cho sự hoằng truyền Phật pháp, tạo lập những tu
viện, những trung tâm nghiên cứu Phật pháp và những trung tâm nhập thất
ba năm theo truyền thống Áo vải (Kagyupa) của Phật giáo Tây Tạng.
Gyalwang Drukpa XII: Người đứng đầu, sáng lập dòng truyền thừa Drukpa,
Ngài là vị hóa thân đời thứ 12 của dòng phái Gyalwang Drukpa. Ngài đản
sinh vào buổi bình minh ngày mùng mười tháng giêng năm Quý Mão thuộc
cung thứ 16 theo lịch Tây Tạng, tức năm 1963. Ngài được biết đến như là
hóa thân của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm với sứ mệnh thiêng liêng truyền dạy
Mật Thừa, hướng đạo, dìu dắt chúng sinh. Pháp danh của Ngài là Jigme
Pema Wangchen, ngoài ra Ngài còn có pháp danh Jigme Mingyur Wangyi Dorje
Tinley Kunkhyab Pel Zangpo. (xem thêm thông tin trên trang web:
www.drukpavietnam.org).
Khetsun Sangpo Rinpoche: đạo sư dòng Ninh-mã (Nyingma) đã được đức Đạt-lai Lạt-ma giao trọng trách hoằng pháp tại Nhật Bản.
Liên Hoa Sanh: Đại sư Ấn Độ, cùng thời vua Tây Tạng Trisong Duesten (755
- 797). Ngài truyền Phật giáo sang Tây Tạng và sáng lập tông Ninh-mã
(Nyingma) một trong bốn tông phái lớn của Phật giáo Tây Tạng, Ngài được
các đệ tử gọi là “Đức Phật thứ hai”, là bậc “Đạo sư quý báu”. Tiểu sử
sáng chói, vi diệu của Ngài được ghi chép cẩn thận trong các quyển sách
như: “Tạng thư đại giải thoát”, “Giáo lý Dakini”, “Vũ điệu Dakini”...
Lục Ba-la-mật: Sáu công hạnh của một vị Bồ Tát, gồm Bố thí Ba-la-mật,
Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định
Ba-la-mật và Trí tuệ Ba-la-mật.
Milarepa: 1052-1135, có nghĩa là “Mila, người mặc áo vải khổ hạnh”, Ngài
là một trong những thánh nhân nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Ngài là đệ
tử của Đại dịch giả Marpa và đã chịu sự thử thách rất khắc nghiệt của vị
thầy. Cuối cùng Ngài được truyền pháp và sáng lập tông phái Kagyu (Áo
vải). Ngày nay, Phật giáo Tây Tạng và toàn thế giới vẫn còn nhắc nhở lại
cuộc đời kỳ diệu và những bài thánh ca vĩ đại của Ngài. Đạo sư Milarepa
sinh tại Tây Tạng, gần biên giới Nepal. Lúc lên bảy, cha mất, gia sản
bị chiếm đoạt, gia đình Ngài bị đối xử tàn tệ. Nhằm trả thù nhà,
Thoga-Pa (Milarepa lúc bấy giờ) đi học huyền thuật, dùng phép hô phong
hoán vũ giết hại nhiều người. Ăn năn về hành động đó, ông tìm gặp một vị
Đạo sư của tông Nyingma là Rong-ton xin học, nhưng vị này khuyên nên
gặp Marpa. Ngài trở thành môn đệ của Đạo sư Marpa lúc 38 tuổi, nhưng
suốt sáu năm chỉ được xem là kẻ hầu, và Marpa thử thách khắc nghiệt làm
Milarepa hầu như kiệt sức và gần muốn tự vận. Với thời gian đó, ác
nghiệp của Milarepa đã được tiêu trừ, Marpa bắt đầu dạy pháp cho ông
bằng cách sống viễn li cô tịch, truyền cho giáo pháp của Naropa và đặc
biệt chú trọng phép phát triển Tu-mô Nội nhiệt. Chỉ với một chiếc áo vải
mỏng manh, Milarepa sống năm này qua năm khác trong cái lạnh của
Hi-mã-lạp sơn, chỉ chuyên tâm thiền định trong các hang động. Sau chín
năm độc ẩn, ông bắt đầu thu nhận môn đệ, trong đó có vị y sĩ Gampopa là
người quan trọng nhất. Milarepa để lại nhiều bài ca bất hủ cho đời sau
và những bài ca này được ghi lại trong một tập dưới tên “100.000 bài hát
của Milarepa”.
Đạt-lai Lạt-Ma XIV: Ngài sinh ngày 07 tháng 6 năm 1935, là lãnh tụ tinh
thần của Phật giáo Tây Tạng nói riêng và toàn thể Phật tử trên thế giới
nói chung. Ngài được công nhận là hóa thân tôn quý của Đức Quán Thế Âm.
Ngài đã dành trọn đời mình để phục vụ chúng sanh, trụ xứ hiện tại của
Ngài ở Dharamshala, Ấn Độ.
ngọc như ý: hay còn có tên gọi “ngọc ước”, người sở hữu được vật này
thời có thể có được mọi thứ mình ước muốn, ngoại trừ Giác ngộ giải
thoát.
Pabongka Dechen Nyingpo (Đạo sư): Ngài còn có Pháp danh là Jampa Tenzin
Trinlay Gyatso (1878 – 1941), là đạo sư trứ danh của Phật giáo Tây Tạng,
dòng Gelugpa. Ngài sinh ở miền Bắc Lhasa vào năm 1878. Thân phụ ngài là
một quan chức nhỏ nhưng gia đình ngài không giàu lắm. Lúc ngài chào
đời, có ánh sáng chiếu khắp phòng, mặc dù đang đêm tối mịt, và bên
ngoài, người ta trông thấy một vị thần hộ mạng đứng trên mái nhà.
Pabongka Rinpoche là một hóa thân của học giả vĩ đại Jangkya Rolpao
Dorje (1717-1786), trong khi trước đấy ngài là tái sinh của một vị geshe
(tiến sĩ Phật học) uyên bác ở tu viện Sera-mae. Ngài nhập viện vào năm
lên bảy, theo học chương trình thông thường của tu sĩ, lấy bằng geshe và
theo học hai năm ở Đại học Mật giáo Gyutoe. Bổn sư của ngài là Dagpo
Lama Rinpoche Jampeal Lhuendrub Gyatso ở Lhoka, ngài hẳn là một vị Bồ
Tát hóa thân, và Pabongka Rinpoche là đệ tử đầu của ngài. Pabongka
Rinpoche sống trong một hang động ở Pasang và việc hành trì chính yếu
của ngài là Bồ-đề tâm; thần hộ mạng của ngài là Quán Tự Tại
(Avalokiteshvara). Ngài thường niệm câu thần chú Om mani padme hum mỗi
đêm năm vạn lần. Pabongka Rinpoche có bốn đại đệ tử là Kyabje Ling
Rinpoche, Kyabje Trijang Rinpoche, Khangsar Rinpoche và Tathag
Ringpoche, một vị nhiếp chính của Tây Tạng. Vị này là thầy giáo đạo
chính của đức Đạt-lai Lạt-ma XIV khi ngài còn thơ ấu và là người đã thế
phát quy y cho ngài.
Phổ Hiền: “Bậc mãi mãi toàn hảo”. 1. Phật Pháp thân nguyên thuỷ; 2. Đại
Bồ tát Phổ Hiền, là gương tiêu biểu cho sự thành tựu một sự cúng dường
triển khai đến vô hạn.
Ribur Rinpoche (Đại sư): sinh tại miền đông Tây Tạng vào năm 1923. Lúc
lên năm, Ngài được đức Dalai Lama 13 công nhận ra là hóa thân thứ sáu
của Lama Kunga Osel. Ngài vào Đại học tu viện Sera ở Lhasa, Tây Tạng năm
14 tuổi, đỗ tiến sĩ Phật học năm 24 tuổi. Ngài thiền định, giảng dạy
cho đến năm 1959. Năm 1980 Ngài được phép hoạt động tôn giáo và đã giúp
xây một tháp mới để thờ Pabongka Rinpoche tại Sera, vì ngôi tháp đầu
tiên đã bị phá hủy. Sau đó Ngài sang Ấn sống ở tu viện Namgyal tại
Dharamsala.
Rinpoche: danh hiệu tôn xưng, dịch nghĩa là Bậc tôn quý.
Tenzin Palmo: Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây
Tạng của cô là Tenzin Palmo) là vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư
thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 3.750 mét trên dãy Hy Mã
Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy
tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong
động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua
những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão
tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ
rộng chỉ khoảng 1/3 mét vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ
đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giờ ngủ nằm.
Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
Sanh vào năm 1943, Tenzin Palmo lớn lên ở trung tâm khu East End của
thành phố London, Anh quốc. Cô là con gái một người bán cá. Khi còn bé,
Tenzin Palmo đã thích sống lặng lẽ một mình. Cô đã tìm hiểu nghiên cứu
các tôn giáo phương Đông và khát khao được giác ngộ chân lý. Năm 20
tuổi, theo tiếng gọi tâm linh, Tenzin Palmo đã bỏ việc làm tại thư viện
và đáp tàu đi Ấn Độ. Năm 1964, sau ba tuần lễ diện kiến và học hỏi với
một vị đạo sư, Tenzin Palmo đã trở thành vị ni cô Tây phương đầu tiên
xuất gia tại Ấn Độ. Cô sống trong một tu viện Phật giáo Tây Tạng và cũng
là người phụ nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ. Do đó, cô đã kinh
nghiệm sự đối xử cách biệt đối với hàng nữ tu. Cô đơn và đau khổ, cô đã
thề nguyện sẽ chứng đạo trong hình tướng một người nữ, dù phải trải qua
vô lượng kiếp. Với tư tưởng đó, năm 1970, cô bắt đầu cuộc sống độc cư
tại một nơi tĩnh mịch vắng vẻ; và 3 năm sau, cô tìm đến một động tuyết
cao chót vót trên dãy Hy Mã Lạp Sơn để ẩn cư thiền định. Năm 1988, cô
rời khỏi động Tuyết Sơn với ý định sẽ thành lập một nữ tu viện ở miền
Bắc Ấn để giúp cho các phụ nữ khác đạt tới cảnh giới giác ngộ. Từ lúc
bắt đầu sống đời ẩn sĩ chỉ với 80 Anh kim một năm, Tenzin Palmo đã trở
thành một người nổi tiếng với những cuộc du thuyết toàn cầu; và tổ chức
quyên góp xây nữ tu viện của cô càng lúc càng hoạt động sôi nổi. Tenzin
Palmo đã đến với cuộc đời này, rời bỏ nó, và rồi lại trở về một lần nữa
để giúp đỡ mọi người. (Xem thêm: Trong động Tuyết Sơn)
Thogme Zangpo (Đạo sư) (1295-1369) - Một đạo sư vĩ đại của truyền thống
Nyingma và Sakya; tác giả của luận giải nổi tiếng “Ba mươi bảy pháp hành
Bồ Tát đạo”. Ngài còn có danh hiệu là Gyalse Rinpoche, nghĩa đen là:
Nam tử quý báu của các Đấng Chiến Thắng.
Thubten Yeshe (Lạt-ma): ngài ra đời ở Tolung gần Lhasa, Tây Tạng vào năm
1935, sáu tuổi đã vào tu viện Sera, ở đấy ngài được hấp thụ một nền
giáo dục rộng rãi về thế học và Phật học. Sau năm 1959, ngài hoàn tất
việc học ở trại tị nạn Buxaduar, đông nam Ấn Độ, và đi định cư gần tháp
Boudhanath, ngoại biên Kathmandu, Nepal. Ở đây ngài khởi sự tiếp xúc
nhiều người Tây phương. Năm 1971 ngài cùng Lama Zopa sáng lập Trung tâm
Tu viện Đại thừa trên đỉnh đồi Kopan, tổ chức những khóa giảng hằng năm
lôi cuốn học viên ngày càng đông. Những học viên này về sau đã mở thêm
hơn ba mươi trung tâm tu học. Trong mười năm cuối đời, Lama Yeshe thường
lui tới những trung tâm này để diễn giảng, tổ chức các khóa huấn luyện
lãnh đạo, và quan trọng hơn cả, gây cảm hứng cho mọi người, làm tấm
gương thân giáo về hạnh lợi tha không mỏi mệt. Cuối cùng, vào ngày 3
tháng 3 năm 1984, tại bệnh viện Cedars Sinai ở Los Angeles, vào sáng sớm
đầu năm âm lịch, ngài viên tịch vì chứng suy tim trầm trọng đã trên 12
năm đe dọa mạng sống ngài.
Vajrasattva: tiếng Tây Tạng là Dorje Sempa, là một hiện tướng của chư
Phật có mục đích để tịnh hóa và trừ bỏ khổ đau, bệnh tật và nghiệp xấu
đã tạo. Ngài xuất hiện dưới nhiều hình tướng, an bình hay phẫn nộ, một
mình hay với vị phối ngẫu.
Yeshe Tsogyal (Đức Bà): Nữ đại đệ tử vĩ đại và là phối ngẫu huyền nhiệm
của Đạo sư Liên Hoa Sanh. Bà đã phụng sự Ngài thật hoàn hảo và giúp Ngài
truyền bá giáo lý, đặc biệt là cất giấu những kho tàng tâm linh để sau
này được khám phá vì sự lợi lạc của chúng sanh trong tương lai.