[03]
PHÉP TU SA-DI
(PABBAJITAVIDHĪ)
Sự truyền
giới xuất gia cho một thiện nam tử để trở thành một vị Sa-di (sāmaṇera),
gọi là phép tu Sa-di.
Về nghi thức cho tu Sa-di không cần đến tăng sự
tuyên ngôn (ñatti). Một vị Tỳ-kheo trưởng lão làm Thầy Tế
Ðộ của
Thiện nam tử ấy trước sự chứng minh của vài vị Tỳ-kheo hay Tăng
chúng
cũng tốt.
Trước tiên, giới tử phải tìm đủ y và bát, cạo bỏ
râu tóc, cầm y bát đến trước mặt vị thầy tế độ, sau khi đảnh lễ
Ngài ba
lạy, xong đứng lên chắp tay nghiêm trang, tác bạch như sau:
"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha
me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ
puññaṃ
mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā
pabbajjaṃ
detha me bhante".
Bạch ngài, con thành kính đảnh lễ Ngài. Bạch
ngài, xin hãy xá tội lỗi cho con: phước báu con đã làm xin Ngài
tùy hỷ,
phước báu Ngài đã tạo hãy cho đến con, lành thay! con xin tùy
hỷ. Bạch
ngài, kính xin Ngài hãy vì lòng bi mẫn mà cho con xuất gia.
Rồi ngồi xuống theo thế ngồi chòm hổm, chắp tay lên
nói tiếp:
"Ahaṃ bhante
pabbajjaṃ yācāmi; dutiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi;
tatiyampi ahaṃ
bhante pabbajjaṃ yācāmi".
Bạch ngài, con cầu xin được xuất gia; lần thứ
nhì, con cầu xin được xuất gia; lần thứ ba, con cầu xin được
xuất gia.
Kế đến giới tử cầm lấy bộ y ca-sa dâng đến tay Thầy
Tế Ðộ và tác bạch như sau:
"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya
imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhan-te anukampaṃ upādāya" (nói
ba lần).
Vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ
đau, Bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫn mà thu nhận y cà sa nầy
và cho
con xuất gia.
Giới tử lại đọc lời nầy
để xin y ca sa:
"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya
etaṃ kāsāvaṃ datvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya" (nói
ba
lần).
Vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ
đau, Bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫn mà cho lại con y cà sa
đó và cho
con xuất gia.
Khi giới tử dứt lời, Thầy Hòa Thượng hãy cho lại y
ca sa cho giới tử và dạy sơ lược về cách quán tưởng khi mặc y
phục, đồng
thời dạy về đề mục niệm thân thể trược, và giới tử phải nói theo
từng đề
mục như sau:
"Kesā, lomā, nakhā,
dantā, taco; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā".
Tóc, lông, móng, răng, da; da, răng, móng, lông tóc.
Xong rồi giới tử lui ra đến chỗ khuất mà thay đổi
tướng mạo mặc y ca sa vào nghiêm trang đúng luật, mới trở lại
trước mặc
Thầy Hòa thượng đảnh lễ ngài ba lạy, và đứng lên chắp tay tác
bạch xin
thọ qui giới, như sau:
"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha
me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ
puññaṃ
mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāṣa kāruññaṃ katvā
tisaraṇena
saha sīlāni detha me bhante."
Nghĩa như trước, đoạn cuối nghĩa là: Bạch ngài,
xin hãy bi mẫn truyền qui giới cho con.
Ðoạn ngồi chồm hổm chắp tay đọc tiếp:
"Ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ
bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ
yācāmi".
Bạch Ngài, con cầu xin thọ qui giới, lần thứ nhì
... lần thứ ba ...).
Thầy Hòa thượng phán:
"Yam-ahaṃ vadāmi taṃ
vadehi"
Ta nói lời nào ngươi hãy nói theo lời ấy.
Giới tử lãnh giáo:
"Āma bhante"
xin vâng, bạch Ngài.
Thầy Hòa Thượng niệm
Phật và giới tử cũng làm theo:
Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa.
Kính lễ Ðức Thế Tôn, Ưng cúng, Chánh
Biến Tri
(ba lần).
Tiếp đến, Thầy Hòa
thượng truyền dạy giới tử thọ tam qui, đọc hai giọng Nam và Bắc
phạn:
- Buddhaṃ saraṇaṃ
gacchāmi (con thành kính qui y Phật).
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp).
- Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y
Tăng).
- Dutiyampi buddhaṃ
saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ nhì).
- Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành
kính
qui y Pháp, lần thứ nhì).
- Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành
kính
qui y tăng, lần thứ nhì).
- Tatiyampi
buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần
thứ ba).
- Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành
kính
qui y Pháp, lần thứ ba).
- Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành
kính
qui y Tăng, lần thứ ba).
Phải đọc lại tam qui một
lần nữa bằng giọng Bắc. Phân biệt giữa giọng Nam và giọng Bắc.
Giọng Nam
phát âm mũi (nāsikaja) như "Buddhaṃ (ṃ) saraṇaṃ
(ṃ)
gacchāmi" ...; còn giọng Bắc là phát âm môi (oṭṭhaja)
hợp với
âm mũi (nāsikaja) như "buddham (m) saraṇam (m)
gacchāmi" ... vì rằng phẩm mạo Sa-di được thành tựu hay
không do sau
lời tuyên thệ tam qui (tisaraṇagamana), nên phải phát âm
cho đúng
chuẩn tiếng phạn.
Sau phần giới tử đã thọ
tam qui, Thầy Hòa Thượng nhắc nhở:
"Tisaranaggahanaṃ
paripuṇṇaṃ" (phép thọ trì tam qui đã tròn đủ).
Sa-di lãnh giáo: "Āma
bhante".
Thầy Hòa thượng tiếp tục
truyền thọ thập giới cho sa-di:
1. Pāṇāṭipātā
veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng
sát sanh).
2. Adiṇṇādānā
veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng trộm cắp).
3. Abrahmacariyā
veramaṇī sikkhāpadaṃ sa-mādiyāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng hành dâm).
4. Musāvādā veramaṇī
sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi
thọ trì điều học kiêng nói dối).
5.
Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng uống rượu dể duôi).
6. Vikālabhojanā
veramaṇī sikkhāpadaṃ samā-diyāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng ăn phi thời).
7.
Naccagītavāditavisūkadassanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng sự ca nhạc khiêu vũ).
8.
Mālāgandhavilepanadhāranamaṇḍanavibhūsaṇaṭṭhānā veramaṇī
sikkhāpadaṃ
samādiyāmi. (tôi thọ
trì điều
học kiêng sự trang điểm đeo tràng hoa xức hương liệu).
9.
Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpa-daṃ samādiyāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng chỗ nằm ngồi cao rộng).
10.
Jātarūparajatappaṭiggahanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi.
(tôi thọ trì điều học kiêng thọ nhận vàng bạc châu báu).
Kết luận, đọc ba lần như
sau:
"Imāni dasa
sikkhāpadāni samādiyāmi" (Tôi xin thọ trì cả mười điều
nầy).
Sa-di đã được truyền thọ mười giới như vậy rồi,
đảnh lễ Thầy Hòa thượng.
*
Tiếp theo đó là làm nghi thức bái sư và xin y chỉ (nissaya).
Sa-di đứng lên trước mặt Thầy Hòa thượng, chắp tay
tác bạch như sau:
"Vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khama-tha me
bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumo-ditabbaṃ sāminā kataṃ
puññaṃ
mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā
nissayaṃ
detha me bhante."
Bạch ngài, con xin đảnh lễ ngài v.v...bạch Ngài,
xin ngài từ bi cho con y chỉ.
Phục xuống ngồi chồm hổm
chắp tay, đọc tiếp:
"Ahaṃ bhante nissayaṃ
yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ
bhante
nissayaṃ yācāmi".
"Upajjhāyo me bhante
hoti".
Bạch ngài, con cầu
xin pháp y chỉ, lần thứ nhì, lần thứ ba ... bạch ngài, xin hãy
là Thầy
tế độ của con.
Vị Hòa thượng chấp nhận
bằng lời:
" Sādhu!"
- Tốt
lắm!
Hoặc: lāhu,
paṭirūpaṃ, opāyikaṃ, pāsādikena, sampādehi ... một tiếng nào
cũng
được.
Sa-di cúi đầu bái nhận
bằng lời:
"Ukāsa sampaṭicchāmi.
Sampaṭicchāmi. Sam-paṭicchāmi".
Con xin lãnh hội, Con xin lãnh hội, Con xin lãnh hội.
Vẫn tiếp tục nói:
"Ajjatagge dāni thero
mayhaṃ bhāro, ahampi therassa bhāro" (ba lần).
Kể từ hôm nay trưởng lão là trọng trách của con, phần con cũng
là trọng
trách của trưởng lão.
Xong Sa-di đảnh lễ thầy ba lạy và ngồi xuống nơi
phải lẽ để nghe thầy dạy dỗ ... từ đây vị Sa-di nầy phải làm
tròn các
bổn phận của vị đệ tử đối với Thầy Tế độ, phải luôn luôn tinh
tấn học
tập và trau giồi phẩm hạnh Sa-di trong thời gian chưa được tu
lên bậc
trên.
DỨT PHÉP TU SA
DI
-ooOoo-
PHÉP TRUYỀN CỤ TÚC
GIỚI
(UPASAMPADĀ)
Lễ
truyền cụ túc giới là sự tế độ cho một thiện nam tử hay vị sa-di
được
đắc thành tăng tướng Tỳ-kheo.
Phép truyền cụ túc giới nhất định phải theo qui
cách luật chế định mà Ðức Thế Tôn đã ban hành từ xưa. Tăng sự
này phải
được thực hiện trải qua nhiều giai đoạn tuyên ngôn; tăng hội
chứng minh
phải có túc số tối thiểu là mười vị Tỳ-kheo, ở tại Ấn Quốc độ
bắt buộc
phải có tăng hội từ hai mươi vị mới được phép truyền cụ túc
giới; tăng
sự phải được tiến hành trong sīmā, và giới tử (người thọ
cụ túc)
phải là người nam, người công dân hợp pháp, phải sắm đủ y bát,
được cha
mẹ hoặc người bảo hộ cho phép, tuổi phải đủ trên hai mươi.
Trong tăng sự sẽ có một vị trưởng lão đức hạnh đủ
hạ lạp để làm thầy tế độ (upajjhāyo) của giới tử, phải có
một
hoặc hai vị Tỳ-kheo thông hiểu luật nghi và tiếng pàli để hướng
dẫn giới
tử và bạch trình tuyên ngôn đến tăng, vị này gọi là thầy yết-ma (Kammavācācariya)
.
Cách thức tăng sự.
Trước tiên thầy yết-ma đặt tên tạm để ám chỉ thầy
tế độ và giới tử như sau; khi thầy yết-ma hỏi hoặc nói điều gì,
giới tử
phải trả lời cho hợp lý:
Āc.
Tvaṃ nāgo nāma.
Ngươi tên là Nāga.
Nāg.
Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Tuyhaṃ upajjhāyo āyasmā
tissatthero nāma.
Thầy tế độ của ngươi là ngài trưởng
lão
Tissa.
Nāg.
Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Tiếp đến thầy yết-ma kiểm tra đầy đủ tam y và bình
bát của giới tử:
Āc. Paṭhamaṃ upajjhaṃ gāhāpetabbo
upaj-jhaṃ gāhāpetvā pattacīvaraṃ ācikkhitabbaṃ. Ayan-te patto.
Trước tiên phải cho nhận thầy tế độ,
sau khi
bái sư phải trình bày y bát. Ðây là bát của ngươi!
Nāg.
Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ saṅghāṭi
Ðây là y Tăng-già-lê.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ uttarāsaṅgo
Ðây là y uất đà la tăng.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ antaravāsako.
Ðây là y an-đà-hội.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Gaccha amumhi okāse tiṭṭhāhi.
Hãy đi ra đứng chỗ kia.
Thầy yết-ma bảo giới tử lui ra đứng chỗ phía ngoài
tăng hội rồi trở vào giữa tăng tuyên ngôn trình tăng xin được
chỉ dạy
giới tử:
"Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa
upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ ahaṃ nāgaṃ
anusāseyyaṃ.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, nàga là đệ
tử của Ngài Tissa, muốn thọ cụ túc giới. Nếu đã hợp thời với
tăng, tôi
xin được chỉ dạy Nāga.
Thầy yết-ma bước ra ngoài đến chỗ giới tử đứng mà
dạy bảo các điều cần thiết như sau:
Suṇāsi nāga ayan te saccakālo bhūtakālo yaṃ
jātaṃ taṃ saṅghamajjhe pucchante santaṃ atthī' ti vattabbaṃ
asantaṃ
natthī' ti vattabbaṃ. Mā kho viṭṭhāsi mā kho maṅku ahosi.
Evantaṃ
pucchissanti santi te evarūpā ābādhā:
Nầy Nāga, nay là lúc
ngươi phải thành thật, trung thực, điều nào ngươi được hỏi giữa
tăng, có
thì phải nói là có, không có, phải nói không có. Ngươi đừng giấu
giếm,
đừng thẹn thùng. Ta sẽ hỏi ngươi những chứng bệnh như vầy ngươi
có
không?
Āc. Kuṭṭhaṃ?
Bệnh cùi?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Gaṇḍo?
Bệnh ung nhọt?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Kilāso?
Bệnh da liểu?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc.
Soso?
Bệnh lao?
Nāg.
Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Apamāro?
Bệnh phong điên?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Manusso si?
Ngươi là loài người phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Puriso' si?
Ngươi là nam nhân phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Bhujisso' si?
Ngươi là người tự do phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Anaṇo' si?
Ngươi là người vô nợ phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Na' si rājabhaṭo?
Ngươi không bị quân dịch phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Anuññāto' si mātāpitūhi?
Ngươi có được mẹ cha cho phép chăng?
Nāg. Āma bhante!
Có, thưa ngài.
Āc. Paripuṇṇavīsati vasso' si
Ngươi đủ 20 tuổi chăng?
Nāg.
Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Y và bát của ngươi có đủ chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Kinnāmo' si?
Ngươi tên là gì?
Nāg. Ahaṃ bhante nāgo nāma.
Thưa ngài, con tên là Nāga.
Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Thầy tế độ của ngươi là ai?
Nāg.
Upajjhāyo me bhante āyasmā Tissatthe-ro nāma.
Bạch Ngài, Thầy tế độ của con là Ngài trưởng lão Tissa.
Chỉ dạy giới tử xong rồi, Thầy yết-ma trở vào trình
tăng để cho gọi giới tử, tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa
upasampadāpekkho anusiṭṭho so mayā yadi saṅghassa pattakallaṃ
nāgo
āgaccheyya āgacchāhī' ti vattabbo. Āgacchāhi!
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga đệ tử
của Ngài Tissa, là người muốn thọ cụ túc giới, người ấy đã được
tôi chỉ
dạy xong. Nếu đã hợp thời với Tăng, phải cho Nāga đi vào. Nên
nói "
Người đi vào". Hãy đi vào!
*
Phần giới tử khi được gọi nên bước vào giữa Tăng
chúng, đảnh lễ Tăng và tác bạch xin thọ cụ túc giới, như sau:
Saṅghaṃ bhante upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ
bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Dutiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi.
Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Tatiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi.
Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Bạch đại đức Tăng, con cầu xin thọ giới cụ túc
nơi Tăng. Mong đại đức Tăng vì lòng bi mẫn mà tế độ con.
Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...
Sau khi giới tử đã tác bạch xin thọ cụ túc giới nơi
tăng, vị yết-ma bạch trình Tăng cho phép sát hạch giới tử những
điều
nguyên tắc, tuyên ngôn trình Tăng như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ Nāgo āyas-mato
tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ nāgaṃ
antarāyike dhamme puccheyyaṃ.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, đây là
Nàga, người muốn thọ cụ túc giới, đệ tử của Tôn giả Tissa. Nếu
đã hợp
thời với Tăng, tôi xin được hỏi Nàga về các điều chướng ngại.
Rồi xoay qua giới tử, thầy yết-ma bắt đầu hạch hỏi:
Suṇāsi nāga ayante saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ
taṃ pucchāmi santaṃ atthī' ti vattabbaṃ asantaṃ natthī' ti
vattabbaṃ.
Santi te evarūpā ābādhā.
Nầy Nāga, hãy nghe đây, nay là lúc ngươi phải
thành thật trung thực; điều nào ta hỏi có thì nên nói là có,
không có
thì nói là không có. Những chứng bệnh như vầy người có không.
Āc. Kuṭṭhaṃ?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Gaṇḍo?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Kilāso?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Soso?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Apamāro?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Manusso' si
Nāg. Āma bhante!
Āc. Puriso' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Bhujisso' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Anaṇo' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Na' si rājabhaṭo?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Anuññāto' si mātāpitūhi?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Paripuṇṇavīsativasso' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Kinnāmo' si?
Nāg. Ahaṃ bhante Nāgo nāma.
Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā
tissat-thero nāma.
(Nghĩa: Lời vấn đáp,
toàn bộ đều như trước).
*
Hoàn tất nghi thức hướng
dẫn giới tử, thẩm vấn luật lệ xong, vị yết-ma chính thức tác
pháp yết-ma
trình tăng truyền giới cụ túc, bằng tứ bạch tuyên ngôn
(ñatticatutthakammavācā), như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato
tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi
paripuṇṇassa
pattacīvaraṃ. Nā-go saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tissena
upajjhāyena. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho nāgaṃ
upasampādeyya
āyasmatā tissena upajjhā-yena. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato
tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi
paripuṇṇassa
pattacīvaraṃ. Nāgo saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tis-sena
upajjhāyena. Saṅgho nāgaṃ upasampādeti āyasmatā tissena
upajjhāyena.
Yass'āyasmato kha-mati nāgassa upasampadā āyasmatā tissena
upaj-jhāyena
so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ
vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya.
Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya.
Upasampanno saṅghena nāgo āyasmatā tissena upajjhāyena. khamati
saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là
người muốn thọ cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh
các pháp
chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi
tăng, có
thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng nên
truyền
giới cụ túc cho Nāga có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Ðó là lời
bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là
người muốn thọ giới cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh
tịnh các
pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc
nơi
tăng, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Tăng truyền cụ túc cho
Nāga, có
thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Sự truyền cụ túc cho Nāga, có thầy
tế độ là
Tôn giả Tissa nếu vị nào chấp nhận thì im lặng, như vĩ nào không
chấp
nhận phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ hai.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi .. nt ...
phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ ba.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi ... nt ...
phải nói ra. Nāga đã được Tăng truyền giới cụ túc, có Tôn giả
Tissa là
thầy tế độ. Tăng chấp nhận nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc
đó như
vậy.
Khi dứt tứ bạch tuyên ngôn ngay lúc nào thì
Thiện nam tử ấy thành tựu phẩm mạo Tỳ-kheo (bhikkhu) ngay khi
ấy.
*
Phận sự của thầy tế độ tiếp theo đó phải làm đối
với tân Tỳ-kheo đệ tử của mình, là phải đo bóng thời gian, tính
ra ngày,
tháng, năm tu của đệ tử, và đếm số tăng hội chứng minh truyền cụ
túc
giới hôm đó, sau nữa là chỉ dạy tân Tỳ-kheo về những điều phạm
hạnh cơ
bản, gồm có bốn y pháp (nissaya: pháp nương trong đời
sống) và
bốn bất tác pháp (akaranīya: điều không nên làm).
Việc chỉ giáo (anusāsana) nầy là phận sự của
thầy tế độ (upajjhāyo), nhưng nếu Ngài già yếu không đảm
trách
nổi, thì giao phó việc ấy cho vị yết-ma giáo thọ đảm nhận cũng
được.
PĀLI LỜI
CHỈ
GIÁO (ANUSĀSANA)
Tāvadeva chāyā metabbā utuppamānaṃ
ācik-khitabbaṃ divasabhāgo ācikkhitabbo saṅgīti ācikkhi-tabbā
cattāro
nissayā ācikkhitabbā cattāri ca akara-ṇīyāni ācikkhitabbāni.
Phải đo bóng thời
gian, kể mùa tiết, kể ngày giờ, đếm số tăng hội, trình bày bốn y
chỉ, và
chỉ dạy bốn bất tác.
Dạy bốn y chỉ (nissaya):
1."Piṇḍiyalopabhojanaṃ nissāya pabbajjā. Tattha
te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho saṅghabhattaṃ
uddesabhattaṃ
nimantanaṃ saḷāka-bhattaṃ pakkhikaṃ uposathikaṃ pātipadikaṃ"
"Āma
bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương đồ ăn khất thực.
Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc
ngoại lệ
cũng được, như là Tăng thí thức, chỉ định thực, biệt thỉnh thực,
trù phù
thực, bán nguyệt kỳ thực, trai kỳ thực, sơ nhựt thực".
Tân Tỳ-kheo nói: "Thưa vâng".
2." Paṃsukūlacīvaraṃ nissāya pabbajjā. Tat-tha
te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho kho-maṃ kappāsikaṃ
koseyyaṃkambakaṃ sānaṃ bhaṅ-gaṃ" "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương y phấn tảo. Ðiều đó
ngươi phải trọn đời siêng năng hành theo. Có lợi lộc ngoại lệ
cũng được,
như là y vải bố, y vải bông, y vải tơ tằm, y vải len, y vải lụa,
y vải
hổn hợp chất".
Tân tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
3. Rukkhamūlasenāsanaṃ nissāya pabbajjā. Tattha
te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho vihāro aḍḍhayogo
pāsādo
hammiyaṃ guhā - "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương sàng tọa gốc cây.
Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc
ngoại lệ
cũng được, như là tịnh xá, mái che, lâu đài, dinh thự, thạch
động".
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
4. "Pūtimuttabhesajjaṃ nissāya pabbajjā. Tat-tha
te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho sap-pi navanītaṃ
telaṃ madhu
phāṇitaṃ" - "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương dược phẩm là nước
tiểu thú. Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có
lợi lộc
ngoại lệ cũng được, như là bơ, sữa, dầu mè, mật ong, đường mía."
Tân tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
Dạy bốn pháp bất tác
(akaraṇīya):
1. "Upasampannena bhikkhunā methuno dhammo na
paṭisevitabbo antamaso tiracchānaga-tāyapi. Yo bhikkhu methunaṃ
dhammaṃ
paṭisevati assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma pu-riso
sīsacchinno abhabbo tena sarīrabandhanena jīvi-tuṃ evameva
bhikkhu
methunaṃ dhammaṃ paṭi-sevitvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante
yāva-jīvaṃ akaraṇīyaṃ". "Āma bhante! "
"Một Tỳ-kheo đã thọ
cụ túc giới, không nên hành pháp dâm dục, cho dù với con thú
cái. Vị
Tỳ-kheo nào hành điều dâm dục vị ấy là phi sa môn phi Thích tử.
Ví như
một người bị chém đứt đầu, nó không thể sống với thân không đầu
ấy; cũng
như thế, vị Tỳ-kheo khi đã hành pháp dâm dục sẽ thành phi sa môn
phi
Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm."
Tân Tỳ-kheo nói:
"Thưa vâng."
2. "Upasampannena bhikkhunā adinnaṃ
theyyasaṅkhātaṃ na ādātabbaṃ antamaso tiṇasa-lākaṃ upādāya. Yo
bhikkhu
pādaṃ vā pādārahaṃ vā atirekapādaṃ vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ
ādiyati
assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma paṇ-ḍupalāso
bandhanā
pamutto abhabbo haritattāya evameva bhikkhu pādaṃ vā pādārahaṃ
vā
atire-kapādaṃ vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyitvā as-samaṇo hoti
asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ akara-ṇīyaṃ" - "Āma bhante! ".
"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên
lấy vật chưa được cho với ý trộm cắp, cho dù là một cọng cỏ. Vị
Tỳ-kheo
nào lấy trộm vật chưa được cho trị giá 1
pāda
[1]
hoặc tương đương hoặc cao hơn, vị ấy là phi sa môn phi
Thích tử. Ví như
lá vàng lìa cành không còn xanh tươi nữa; cũng như thế, vị
Tỳ-kheo khi
đã lấy trộm vật chưa cho trị giá 1
pāda
hoặc tương đương hoặc cao hơn, sẽ
thành phi sa-môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên
làm".
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
3. "Upasampannena bhikkhunā sañcicca pāṇo jīvitā
na voropetabbo antamaso kunthakipillikaṃ upādāya. Yo bhikkhu
sañcicca
manussaviggahaṃ jīvi-tā voropeti antamaso gabbhapātanaṃ upādāya
assa-maṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma puthusilā dvidhā
bhinnā
appaṭisandhikā hoti evameva bhikkhu sañciccamanussaviggahaṃ
jīvitā
voropetvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ
akaraṇīyaṃ" -"Āma
bhante! "
"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên cố
ý đoạt mạng sống chúng sanh, thậm chí là con mối con kiến. Vị
Tỳ-kheo
nào cố ý giết người cho dù chỉ trục phá thai nhi, vị ấy là phi
sa môn
phi Thích tử. Ví như tảng đá bị bể làm đôi không còn dính lại
nữa; cũng
như thế, vị Tỳ-kheo đã cố ý giết người sẽ thành phi sa-môn phi
Thích tử.
Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm."
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
4. "Upasampannena bhikkhunā
uttari-manus-sadhammo na ullapitabbo antamaso suññagāre
abhi-ramāmī' ti.
Yo bhikkhu pāpiccho icchāpakato asan-taṃ abhūtaṃ
uttarimanussadhammaṃ
ullapati jhā-naṃ vā vimokkhaṃ vā samādhiṃ vā samāpattiṃ vā
maggaṃ vā
phalaṃ vā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma tālo
matthakacchinno abhabbo pu-na viruḷhiyā evameva bhikkhu pāpiccho
icchāpakato asantaṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapitvā
assamaṇo hoti
asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ aka-raṇīyaṃ" - "Āma bhante! "
"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên
kheo khoang pháp thượng nhân, thậm chí nói rằng: tôi thỏa thích
ngôi nhà
trống. Vị Tỳ-kheo nào ác dục tham vọng khoa trương pháp thượng
nhân
không có không thật chứng về thiền, hoặc giải thoát, hoặc định,
hoặc
nhập định, hoặc đạo, hay quả, vị ấy là phi sa-môn phi Thích tử.
Ví như
cây thốt nốt bị đứt đọt không thể phát triển nữa; cũng như thế,
vị
Tỳ-kheo ác dục tham vọng đã khoa trương pháp thượng nhân không
có không
thật chứng sẽ thành phi sa môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều
ấy
không nên làm".
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng" .
Ðến đây đã trình bày tóm
tắt luật nghi truyền giới cụ túc.
-ooOoo-
[1] Ðơn vị tiền tệ ngày
xưa của
xứ Ấn. 1 pāda bằng 5
māsaka, khó xác định là
trị giá
bao nhiêu tiền Việt Nam, chỉ biết là vật ấy giá trị có thể bị
đưa tòa hình xét
xử và bị tuyên án với tội danh trộm cắp tài sản, bị tước nhân
phẩm.
-ooOoo-