Những tâm hồn trĩu nặng
   	  
Trong cuộc sống, trạng thái tâm hồn chúng ta thường xuyên thay đổi, phần 
		lớn là tùy thuộc vào tính chất của những gì xảy đến với ta và cảm nhận 
		của bản thân ta đối với những sự việc ấy. Khi gặp những diễn tiến thuận 
		lợi, những cảm nhận êm ái, thích thú, tâm hồn ta thấy vui vẻ, sảng 
		khoái, và những lúc ấy ta trải qua một trạng thái tâm hồn thường là nhẹ 
		nhàng, thanh thản. Ngược lại, khi gặp phải những điều trở ngại, bất lợi, 
		những cảm nhận bực dọc, khó chịu, tâm hồn ta thường trải qua một trạng 
		thái nặng nề, trầm uất...
		Nhưng đó chỉ là nói qua một vài khía cạnh nổi bật nhất. Sự thật thì mỗi 
		người chúng ta nếu tĩnh tâm suy xét lại, tự phân tích những trạng thái 
		tâm hồn mà mình đã trải qua, đều có thể thấy được vô số những dị biệt, 
		vô số những cảm nhận khác nhau, thậm chí có thể nói là không sao kể ra 
		hết được. Đôi khi chúng ta còn có cả những trạng thái xen lẫn như nửa 
		buồn nửa vui hoặc vừa mừng vừa sợ... Nói cách khác, vấn đề vô cùng phức 
		tạp và hầu như hoàn toàn không thể phân tích theo phương pháp liệt kê 
		của toán học hay phân loại cụ thể theo khoa học...
		Tuy nhiên, trong sự rối rắm phức tạp vô cùng đó, chúng ta có thể dễ dàng 
		nhận thấy nổi bật lên hai khuynh hướng chính trái ngược nhau. Một số 
		trạng thái tâm hồn có thể được mô tả là nhẹ nhàng, thanh thản, tất nhiên 
		là với những mức độ khác nhau, và một số trạng thái ngược lại có thể mô 
		tả như là nặng nề, trầm uất, cũng với những mức độ khác nhau. Khi hai 
		khuynh hướng này đồng thời xuất hiện, chúng sẽ tác dụng theo nguyên tắc 
		“mạnh được, yếu thua”, nghĩa là khuynh hướng nào mạnh hơn sẽ đẩy tâm hồn 
		ta đi về phía tương ứng của nó, hoặc là nhẹ nhàng thanh thản, hoặc là 
		nặng nề trầm uất...
		Hai khái niệm “nhẹ” và “nặng” được dùng ở đây tất nhiên là với nghĩa 
		trừu tượng của chúng, nhưng điều đó không có nghĩa là không liên quan 
		đến nghĩa đen của từ. Nếu ta nhớ lại những trạng thái tâm hồn mà bản 
		thân mình đã từng trải qua, ta sẽ có thể thấy rằng việc sử dụng hai khái 
		niệm này để mô tả các trạng thái của tâm hồn là vô cùng chính xác.
		Khi tâm hồn ta thực sự nhẹ nhàng, thanh thản, có khi ta cảm thấy bản 
		thân mình cũng như tất cả mọi sự vật quanh ta đều nhẹ nhàng đến mức 
		dường như có thể dễ dàng bay bổng lên, nhảy múa trong niềm hân hoan hay 
		sự sảng khoái mà ta đang cảm nhận. Mỗi một hành vi, cử chỉ của ta trong 
		lúc ấy đều có thể nhẹ nhàng, linh hoạt và được thực hiện một cách dễ 
		dàng, như thể trọng lượng cơ thể ta đã thật sự “nhẹ” đi rất nhiều...
		Ngược lại, khi tâm hồn ta chìm sâu trong sự nặng nề, trầm uất, ta cảm 
		thấy bản thân mình cũng như mọi thứ chung quanh đều nặng nề, chậm chạp. 
		Trong tâm trạng đó, ta cảm thấy ngay cả những cử động thông thường như 
		nhấc tay, đưa chân... cũng đều nặng nề, khó khăn hơn, như thể là trọng 
		lượng thân thể đã “nặng” thêm rất nhiều...
		Và thực ra thì sự nặng, nhẹ của những trạng thái tâm hồn như thế đã thay 
		nhau chi phối cuộc sống của chúng ta. Và trong một chừng mực nào đó, 
		chúng tác động đến tình cảm, cung cách ứng xử cũng như quan điểm của ta 
		về đời sống. 
		Khi tâm hồn ta nhẹ nhàng, thanh thản, ta dễ có khuynh hướng giúp đỡ, tha 
		thứ cho những lỗi lầm của người khác, kể cả những lầm lỗi của chính bản 
		thân mình, cũng như luôn nhìn đời một cách lạc quan, tích cực. 
		Ngược lại, khi tâm hồn ta rơi vào trạng thái nặng nề, trầm uất, ta dễ có 
		khuynh hướng vị kỷ, né tránh người khác, dễ cáu gắt, bực dọc và luôn cố 
		chấp đối với những lỗi lầm của người khác cũng như của chính bản thân 
		mình. Trong tâm trạng đó, cuộc sống quanh ta thường luôn bao phủ trong 
		một lớp sương mù xám xịt, u ám và mang đầy màu sắc bi quan, ảm đạm.
		Đến đây, có lẽ bạn đọc đã có thể dễ dàng hình dung được mối tương quan 
		giữa những khái niệm trừu tượng của hai từ nặng, nhẹ khi được dùng để mô 
		tả tinh thần với nghĩa đen của chúng khi được dùng để biểu thị những 
		tính chất cụ thể của sự vật. Và câu hỏi đặt ra lúc này là: Liệu có thể 
		chỉ ra được những tâm trạng nặng nề và nguyên nhân sinh khởi của chúng 
		hay chăng? 
		Câu trả lời là có, và hầu như tất cả mọi người đều có thể đưa ra. Chỉ 
		cần có một sự xem xét khách quan những diễn biến trong nội tâm cũng như 
		một chút so sánh và suy luận là có thể thấy được ngay mối tương quan 
		giữa những gì xảy đến cho chúng ta trong cuộc sống với những tâm trạng 
		nặng nề mà ta phải gánh chịu. 
		Tuy nhiên, việc phân tích và hệ thống được tất cả các nguyên nhân làm 
		cho tâm hồn ta trở nên nặng nề lại không phải là chuyện dễ dàng, bởi 
		tính chất phức tạp và đa dạng của vấn đề. Mặc dù vậy, với trí tuệ siêu 
		việt của mình, cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Phật đã từng làm điều đó và 
		đưa ra những lời dạy rất cụ thể về các nguyên nhân này.
		Trong rất nhiều kinh điển, Phật dạy rằng có năm nhóm nguyên nhân làm cho 
		tâm hồn ta u ám, nặng nề, mất đi sự sáng suốt. Và vì chúng che mờ đi sự 
		sáng suốt của tâm trí, nên được gọi chung là ngũ cái. Chữ cái có nghĩa 
		là ngăn che, làm khuất lấp, nên ngũ cái tức là năm sự ngăn che, làm 
		khuất lấp. Và làm khuất lấp ở đây được hiểu là làm khuất lấp đi sự sáng 
		suốt của tâm hồn.
		Nhóm nguyên nhân thứ nhất được kể ra ở đây là sự tham lam. Khi trong 
		lòng ta ôm ấp sự thèm muốn, khao khát về một đối tượng nào đó, sự khao 
		khát làm cho tâm hồn ta luôn ở trong một trạng thái không thanh thản. 
		Sức mạnh của lòng tham lam buộc ta phải luôn hướng về đối tượng, chìm 
		đắm trong những ý tưởng – nhiều khi là vô nghĩa – về đối tượng đó, và 
		trí óc thì không ngừng hoạt động để tìm ra phương cách chiếm hữu, đạt 
		được đối tượng.
		Bởi vì có vô số đối tượng của lòng tham, nên cũng có vô số các trường 
		hợp khác nhau, với những mức độ chi phối khác nhau đến tâm hồn chúng ta. 
		Tuy nhiên, khuynh hướng chung là sự tham lam luôn làm cho tâm hồn ta trở 
		nên nặng nề, mất đi sự sáng suốt và không một lúc nào được nghỉ ngơi 
		thanh thản. Vì thế, người ta thường so sánh tác hại của lòng tham lam 
		như một ngọn lửa vô hình, thiêu đốt tâm hồn chúng ta ngay từ lúc bắt đầu 
		sinh khởi, và sẽ không bao giờ dừng lại cho đến khi nào ta có thể nhận 
		ra và diệt trừ được nó.
		Nói chung, lòng tham lam ở mức độ nhỏ nhoi, tầm thường sẽ gây ra những 
		tác hại nhỏ nhoi, tầm thường. Chẳng hạn như khi ta mong muốn có được một 
		đôi dép mới, một cái cà-vạt hay một chiếc nón hợp thời trang... Có thể 
		bạn thấy ngại khi dùng cụm từ “lòng tham” trong những trường hợp này, 
		bởi có vẻ như đây là những sự việc quá nhỏ nhoi, tầm thường, và bạn khó 
		lòng nhận ra được cái gọi là “tác hại” của chúng. Tuy nhiên, nếu phân 
		tích kỹ bạn sẽ thấy rằng sự mong muốn đó của bạn quả thật không phải gì 
		khác hơn là một mức độ thấp của lòng tham lam, và do đó mà không thể 
		không có những tác hại nhất định cho tâm hồn bạn. Những tác hại ấy được 
		biểu hiện ở việc chúng chiếm chỗ thường xuyên trong ý nghĩ của bạn, thôi 
		thúc bạn hành động theo hướng để đạt được sự mong muốn đó, và cuối cùng, 
		nếu như một hoàn cảnh không thuận lợi nào đó xảy ra làm cho bạn không 
		thể thỏa mãn sự mong muốn – dù là nhỏ nhoi – đó, bạn sẽ thấy trong lòng 
		không vui, thậm chí có thể là bực dọc.
		Mặt khác, giá trị vật chất của đối tượng đôi khi cũng không phải là yếu 
		tố duy nhất quyết định lòng tham lam của bạn là “lớn” hay “nhỏ”. Đôi khi 
		người ta có thể theo đuổi những sự vật rất tầm thường với một niềm khao 
		khát mãnh liệt, và đôi khi sự mong muốn đối với những giá trị vật chất 
		lớn lao lại cũng có thể chỉ ở mức bình thường. Vì thế, tác hại của lòng 
		tham đến mức độ nào là do nơi cường độ của nó trong tâm hồn chúng ta, 
		chứ không thể đánh giá qua giá trị vật chất của đối tượng được theo 
		đuổi.
		Một giải thưởng văn chương với trị giá chỉ bằng một vài tháng lương, 
		nhưng có thể là mục tiêu theo đuổi của bạn trong nhiều năm. Bởi vì kèm 
		theo cái giá trị vật chất nhỏ nhoi đó lại là một danh vọng lớn lao mà 
		bạn khao khát, và bạn luôn nghĩ rằng những nỗ lực, cố gắng của bản thân 
		có thể giúp bạn đạt được điều đó. Mỗi khi giải thưởng được công bố và 
		bạn không có tên trong danh sách đoạt giải, một nỗi buồn lớn lao có thể 
		xâm chiếm tâm hồn bạn suốt nhiều ngày sau đó.
		Ngược lại, sự mong muốn đối với một giải trúng khuyến mãi hàng trăm 
		triệu đồng khi bạn mua một món hàng lại là rất nhỏ nhoi, và bạn có thể 
		dễ dàng quên đi ngay sau khi mở gói hàng và thấy rằng mình là người 
		không trúng giải... 
		Có thể nói tóm lại một điều là, lòng tham lam là một trong các nguyên 
		nhân gây khổ não cho tâm hồn bạn. Lòng tham càng mãnh liệt thì khổ não 
		càng lớn lao, bạn càng bị nhấn chìm vào những tâm trạng nặng nề hơn 
		trong cuộc sống. Trong thực tế, bạn có thể nhận biết quanh mình không ít 
		những con người đang bị lửa tham thiêu đốt và có những hành vi ứng xử 
		hoàn toàn thiếu sáng suốt. Sự thực là những người ấy luôn sống trong 
		những tâm trạng nặng nề, u uất và không ai có thể cứu thoát họ ra khỏi 
		đó ngoài những nỗ lực hướng thiện của chính họ.
		Nhóm nguyên nhân thứ hai làm cho tâm hồn ta trĩu nặng chính là sự sân 
		hận. Nói theo một cách dễ hiểu hơn, đó là sự tức giận đối với những điều 
		không vừa ý. Và ở mức độ nặng nề hơn thì sự tức giận đó trở thành sự oán 
		hận, căm ghét đối tượng.
		Vì sao chúng ta tức giận? Có vô số nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể 
		nói một cách khái quát nhất là vì chúng ta không được hài lòng, vì sự 
		việc đã không diễn ra theo ý chúng ta, hoặc khi ai đó không làm đúng 
		theo như ta mong muốn. 
		Như vậy, nói một cách khác thì sân hận là kết quả gây ra do sự trái ý. 
		Nếu mọi sự việc đều diễn ra theo ý chúng ta, nếu mọi người đều làm theo 
		đúng ý ta, ta sẽ không tức giận. Và vì không tức giận nên cũng không thể 
		có sự oán hận hay căm ghét.
		Nhưng một cuộc sống mà trong đó không có bất cứ điều gì trái ý chúng ta, 
		không có bất cứ ai làm trái ý ta, lại là điều mà chúng ta không sao có 
		thể hình dung ra được!
		Vì thế, sự thật là hầu hết chúng ta đều đã từng trải qua trạng thái tức 
		giận ở những mức độ khác nhau. Tùy theo mức độ của sự trái ý mà chúng ta 
		có thể nổi giận với những “cường độ” khác nhau. Và cũng giống như lửa 
		tham, ngọn lửa sân hận cũng sẽ không ngừng thiêu đốt chúng ta ngay từ 
		khi nó vừa sinh khởi.
		Vì nguyên nhân của sân hận là sự trái ý, nên vấn đề “hợp lý” hay “bất 
		hợp lý” thường ít khi được nhắc đến. Khi một người nổi giận, chúng ta 
		rất hiếm khi có thể thành công trong việc thuyết phục anh ta về những gì 
		là hợp lý hay không hợp lý trong sự nổi giận của anh ta. Điều duy nhất 
		có thể làm được thường là phải chờ cho cơn giận qua đi, trước khi anh ta 
		có thể chấp nhận lắng nghe người khác hoặc tự mình nhận ra những sai 
		trái.
		Một học sinh tốt nghiệp phổ thông và chọn thi vào ngành y, không có gì 
		sai trái và không thể bị buộc tội vì quyết định của mình. Nhưng quyết 
		định đó của em lại có thể là nguyên nhân gây ra cơn giận khủng khiếp ở 
		người cha, chỉ vì từ lâu ông ta luôn mong muốn rằng em sẽ học để trở 
		thành một thầy giáo! Người cha có thể hoàn toàn vô lý trong việc này, 
		nhưng sự vô lý đó sẽ không bao giờ có thể được nhận ra khi ông ta đang 
		giận! Và sự thật là khi sự trái ý của đứa con làm cho ông ta nổi giận, 
		thì đối với ông ta, việc nổi giận đó lại chính là phản ứng “hợp lý” 
		nhất. Khi một đứa con làm trái ý mình, nếu người cha không nổi giận, đó 
		mới là chuyện hoàn toàn “vô lý”!
		Vì chúng ta thường xuyên gặp phải những điều trái ý trong cuộc sống, nên 
		khả năng “nổi giận” là rất thường gặp. Nếu mức độ “trái ý” là nhỏ nhặt, 
		chúng ta thường chỉ khởi lên sự bực tức hay khó chịu ở mức độ khó nhận 
		ra. Tuy nhiên, vì những bực tức hay khó chịu này là hoàn toàn có thật, 
		nên chúng vẫn gây ra cho tâm hồn ta những tác hại nhất định. Điều này dễ 
		dàng nhận ra nhất là khi chúng được tích lũy lại ở một mức độ “đậm đặc” 
		đủ để làm thay đổi tâm trạng của chúng ta. Bạn đã từng trải qua một 
		trường hợp tương tự như vậy hay chưa? Đó là khi mà trong cùng một ngày 
		bạn liên tiếp gặp phải những chuyện “trái ý” nhỏ nhặt. Mỗi sự việc ấy 
		không đủ để làm cho bạn nổi giận, nhưng vì có quá nhiều sự việc như thế, 
		nên sự bực tức của bạn sẽ tích lũy và dồn nén lại cho đến khi bộc phát 
		ra – có thể là vào cuối ngày – bởi một nguyên nhân cuối cùng nào đó. Vì 
		thế, nếu chỉ xét riêng nguyên nhân cuối cùng này, chúng ta sẽ thấy rằng 
		“cơn giận” ấy là hoàn toàn vô lý.
		Nói tóm lại, lòng sân hận là nguyên nhân thứ hai trong các nhóm nguyên 
		nhân gây ra trạng thái nặng nề, trầm uất cho tâm hồn chúng ta. Với mức 
		độ nặng nề, những cơn giận có thể đốt cháy hoàn toàn mọi khả năng phán 
		xét của lý trí cũng như sự nhẹ nhàng thanh thản của tâm hồn. Vì thế, 
		chúng góp phần trong việc giam hãm, trói buộc tâm hồn chúng ta, và chính 
		bằng cách này, chúng tạo ra những tâm trạng nặng nề, trầm uất.
		Nhóm nguyên nhân thứ ba được đề cập đến ở đây là trạng thái mê ngủ hay 
		mỏi mệt của cơ thể. Bởi vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác là 
		không phủ nhận được, nên một khi thể xác rơi vào tình trạng nặng nề, uể 
		oải thì tất yếu tinh thần cũng sẽ nặng nề, trầm uất. Ngược lại, một thân 
		thể khỏe mạnh, linh hoạt chắc chắn dễ dàng hơn trong việc tạo ra một 
		trạng thái sảng khoái, hưng phấn cho tâm hồn.
		Vấn đề cần nói thêm ở đây là, chúng ta rơi vào trạng thái mê ngủ hay mỏi 
		mệt không phải bao giờ cũng do sự hoạt động quá sức của cơ thể. Những 
		trường hợp thiếu sự nghỉ ngơi thỏa đáng để dẫn đến trạng thái này chỉ là 
		tạm thời, vì bạn sẽ thay đổi theo hướng tốt hơn ngay sau khi được nghỉ 
		ngơi đầy đủ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nguy hiểm hơn, trạng 
		thái mê ngủ hoặc uể oải, kém năng động lại là dấu hiệu của sự lười nhác, 
		ít hoạt động. Và đây mới chính là điều mà chúng ta cần quan tâm phân 
		tích.
		Nếu bạn sống một nếp sống thụ động, không có những mục tiêu phấn đấu cụ 
		thể để vươn tới, và thiếu một sự rèn luyện nghiêm túc về tinh thần cũng 
		như thể lực, bạn sẽ có rất nhiều nguy cơ rơi vào tình trạng vừa nói 
		trên. Trong trường hợp đó, bạn sẽ thường xuyên bị cảm giác mệt mỏi, uể 
		oải chi phối, lúc nào cũng muốn rơi vào giấc ngủ, ngay cả khi bạn không 
		làm gì quá sức và cũng đã được ngủ nghỉ rất nhiều. Một con người như thế 
		sẽ sống trong tâm trạng nặng nề, trầm uất gần như thường xuyên, và sự 
		nghỉ ngơi không bao giờ có thể là giải pháp để cứu họ ra khỏi trạng thái 
		ấy!
		Ngược lại, giải pháp cho vấn đề phải là một sự nỗ lực thay đổi nếp sống. 
		Chúng ta cần có những mục tiêu phấn đấu cụ thể trong cuộc sống để kích 
		thích năng lực làm việc, và cần hoạt động trí óc nhiều hơn để vượt qua 
		chứng bệnh “mê ngủ” đang mắc phải.
		Nói tóm lại, trạng thái mê ngủ hay mệt mỏi, uể oải là nhóm nguyên nhân 
		thứ ba gây ra sự nặng nề, trầm uất cho tâm hồn chúng ta. Trạng thái này 
		có thể là tạm thời, do sự làm việc quá sức và thiếu nghỉ ngơi, nhưng 
		cũng có thể là một kiểu “bệnh tật” do nếp sống không lành mạnh mang lại. 
		Dù là trong trường hợp nào, thì việc ngăn không để thể xác rơi vào sự mê 
		ngủ và mệt mỏi, uể oải cũng đều sẽ giúp chúng ta tránh được sự nặng nề, 
		trầm uất cho tâm hồn.
		Nhóm nguyên nhân thứ tư là tâm trạng bất an và hối tiếc. Chúng ta thường 
		rơi vào những tâm trạng như thế này sau khi thực hiện một sự việc nào đó 
		và rồi không hài lòng với sự việc ấy. Hai tâm trạng bất an và hối tiếc 
		thường xuất hiện đồng thời, bởi vì khi chúng ta không hài lòng với cách 
		thực hiện công việc của chính mình thì kèm theo đó chúng ta cũng sẽ có 
		sự lo lắng về một kết quả không hay mà việc làm đó rất có thể mang đến.
		Một ví dụ cụ thể sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn vấn đề này. Chẳng hạn như, 
		trong một lúc bực tức bạn đã quá lời xúc phạm cấp trên của mình. Sau đó, 
		bạn suy nghĩ lại và nhận ra được sai lầm, vì thế mà bạn cảm thấy hối 
		tiếc về việc đã làm. Nhưng cũng đồng thời với sự hối tiếc này, bạn sẽ 
		nảy sinh một tâm trạng bất an khi nghĩ đến những hậu quả có thể có do 
		việc làm sai trái đó. Cả hai tâm trạng này – sự hối tiếc và bất an – sẽ 
		kết hợp với nhau để cùng lúc gây tác hại, nhấn chìm bạn vào một trạng 
		thái tâm hồn nặng nề, trầm uất.
		Nhóm nguyên nhân cuối cùng được đề cập đến ở đây là tâm trạng nghi ngờ, 
		phân vân không quyết định. Đó là khi bạn phải đối mặt với hai hay nhiều 
		khả năng chọn lựa và không đủ phán đoán để đưa ra một quyết định dứt 
		khoát. Vì tâm trí bị giằng co giữa hai hay nhiều chiều hướng khác nhau 
		nên bạn không thể có được sự thanh thản, nhẹ nhàng, mà ngược lại sẽ rơi 
		vào trạng thái nặng nề, trầm uất. 
		Sự nghi ngờ thường phát sinh khi bạn không có đủ hiểu biết hoặc niềm tin 
		vào đối tượng. Nhưng mặt khác, đây cũng là một biểu hiện của thói quen 
		do dự, thiếu tự quyết, thường xuyên ỷ lại vào người khác. 
		Nếu như sự cân nhắc nhiều khả năng khác nhau của vấn đề trước khi đi đến 
		quyết định cuối cùng là điều rất cần thiết để hạn chế sai lầm, thì sự do 
		dự không quyết định vào đúng thời điểm cần thiết lại là một trong các 
		nguyên nhân dẫn đến thất bại. Hơn thế nữa, nếu điều này đã lặp lại nhiều 
		lần đủ để hình thành một thói quen nơi bạn, nó sẽ trở thành một trong 
		những nguyên nhân làm cho tâm hồn bạn trĩu nặng, rơi vào những trạng 
		thái thiếu sáng suốt, nặng nề, trầm uất.
		Năm nhóm nguyên nhân vừa kể trên có thể nói là bao quát hết thảy những 
		nguyên nhân gây ra tâm trạng nặng nề cho tâm hồn chúng ta. Nếu có thể 
		trừ bỏ được hết thảy các nguyên nhân này, điều tất nhiên là chúng ta sẽ 
		có được một tâm hồn luôn nhẹ nhàng, thanh thản và sáng suốt. Vì thế, sự 
		sáng suốt của tâm hồn chúng ta thực ra không phải là yếu tố có được từ 
		bên ngoài, mà chỉ cần loại trừ được tất cả những yếu tố ngăn che, bao 
		phủ thì sự sáng suốt ấy sẽ tự nhiên hiển lộ.