Trong các tự viện, hình tượng
đức Phật và Bồ tát được các sư thầy bố trí thờ tự khắp nơi. Tuy nhiên
rất ít người biết được tên gọi chính xác, lịch sử và ý nghĩa của mỗi pho
tượng được thờ, cũng như tại sao lại để ở vị trí như vậy.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Ðức Phật Thích Ca, trước khi thành Phật tên gọi là
Sĩ Ðạt Ta là con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia, ở thành Ca Tỳ La
(Kapilavatsu).
|
Đức Phật Thích Ca |
Ngài sinh vào ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Ðộ (nhằm ngày rằm tháng
tư âm lịch Trung Hoa, năm 624). Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài mồ côi
mẹ, nhờ Dì mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành.
Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia
tầm thầy học đạo, đã tu tập với nhiều vị đạo sư và 6 năm tu khổ hạnh
nhưng rốt cuộc Ngài thầy không đem lại sự giải thoát. Ngài trở lại lối
sống bình thường, vận dụng tâm trí quan sát tướng chân thật của vũ trụ.
Sau 49 ngày ngồi thiền định ở dưới cội Bồ đề, Ngài
bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả
năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Sau khi chứng đạo, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45
năm. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Năm 80 tuổi, nơi rừng
Ta la song thọ ngoài thành Câu Thi, sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài
nhập Niết bàn (mất - PV).
Đức Phật A Di Đà
Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Cực-lạc phương tây A Di Đà.
|
Đức Phật A Di Đà |
Thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca nghe
Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ-kheo hiệu là Pháp
Tạng. Một hôm, Ngài đảnh lễ Phật cầu xin chứng minh cho Ngài phát 48 lời
nguyện.
Do nguyện lực ấy, sau này Ngài thành Phật hiệu A Di
Đà ở cõi Cực-lạc. Đức Phật A Di Đà thường thờ có hai tượng: Tượng ngồi
kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tự tượng Thích Ca.
Tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên
dưới là bể cả sóng dậy, mắt Ngài nhìn xuống, tay mặt đưa lên ngang vai,
tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những người đang trầm
mịch. Tượng ấy gọi là tượng Di Đà phóng quang.
Đức Phật Di Lặc (hay còn gọi là Phật tương lai)
|
Bồ tát Di Lặc |
Bồ-tát Di Lặc là người Nam Ấn Độ, sinh ra trong gia đình Bà-la-môn.
Sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo và truyền bá chánh pháp (pháp môn
Phật giáo - PV), Ngài đã xuất gia tu hành.
Đến khi Phật Thích Ca nhập Niết bàn, Bồ tát Di Lặc
cũng mất và sinh về cung trời Đâu Suất, đợi ngày xuống trần gian thành
Phật, hiệu là Di Lặc.
Tượng Ngài thờ theo lối Tam Thế Phật cũng tương tự
tượng Phật Thích Ca. Chỉ đáng chú ý nhất bức tượng hình một vị Hòa
thượng mập mạp, miệng cười toe toét, mặc áo phơi ngực, bày cái bụng to
tướng, chung quanh có 6 đứa bé quấy nhiễu, đứa chọc tay vào mũi, đứa móc
miệng, đứa chìa vào hông..., Ngài vẫn cười tự nhiên.
Ngoài ra tượng Bồ-tát Di Lặc cũng được làm theo điển tích của Bố Đại Hòa thượng - Hòa thượng mang đãi lớn mà tô tượng.
Bố Đại Hòa thượng xuất hiện vào đời nhà Lương ở
Trung Hoa, Ngài ăn mặc xốc xếch, đi đâu thường mang cái bị lớn, gặp ai
có món gì xin món ấy dồn vào bị, gặp những bọn trẻ con đem ra phân phát
cho chúng. Bọn trẻ con thích Ngài lắm.
Hình tượng Bồ tát Đại Thế Chí
|
Bồ tát Đại Thế Chí |
Ngài đứng bên phải đức Phật A Di Đà, tướng người cư sĩ cổ đeo chuỗi
anh lạc, tay cầm hoa sen xanh. Đây là lối thờ Di Đà tam tông: Đức Phật
Di Đà ở giữa, bên tả Bồ-tát Quán Thế Âm, bên hữu Bồ-tát Đại Thế Chí.
Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm
Thuở đức Phật Bảo Tạng, Ngài là thái tử con vua Vô
Tránh Niệm. Ngài theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật
cùng Tăng chúng về cung cúng dường.
|
Bồ tát Quán Thế Âm |
Do công đức ấy, được Phật thọ ký (chứng nhận - PV)
sau này làm Bồ-tát hiệu là Quán Thế Âm, phụ tá đức Phật A Di Đà giáo hóa
chúng sinh và sau nữa sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn
Vương (kinh Bi Hoa quyển ba, phẩm Chư Bồ-tát bổn thọ ký).
Về hình tượng của Bồ tát Quán Thế Âm, được dân gian
tạo ra với các dạng như Quán Âm Hài Nhi (thể theo cốt truyện Quán Âm
Thị Kính), Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc...
Ngoài ra phái Mật tông cũng có hình tượng Bồ tát
Quán Thế Âm với đủ hình dáng như: Quán Âm Mã Đầu, Quán Âm Thiên Thủ
Thiên Nhãn, Quán Âm Cữu Diện...
Có một pho tượng thường được thấy thờ trong các nhà dân nhất là Quán Âm thanh tịnh bình thùy dương liễu.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi
Ngài là con thứ ba vua Vô Tránh Niệm tên là Thái tử
Vương Chúng. Do cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh nên
được hiệu là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi và được thọ ký sau này sẽ thành
Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chỉ, hiệu là Phật Văn Thù (Kinh Bi
Hoa).
|
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi |
Ngài là vị Bồ-tát hiểu thấu Phật tính, đầy đủ ba đức: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát; hằng đem ba đức ấy giác ngộ chúng sinh.
Tay mặt Ngài cầm kiếm sắc bén. Tay trái cầm hoa sen
xanh. Mình ngồi trên lưng Sư Tử xanh. Có nơi Ngài hiện tướng người xuất
gia, vì với tư cách trợ hoá cùng đức Phật Thích Ca nên phải hiện thân
người xuất gia như các vị Tỳ-kheo. Có chỗ thờ Ngài với hình thức người
cư sĩ đội mũ, mặc giáp, cầm kiếm.
Bồ tát Phổ Hiền
|
Bồ tát Phổ Hiền |
Ngài là con thứ tư vua Vô Tránh Niệm tên là Năng Độ. Do cúng dường
đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh, Ngài được Phật thọ ký sau này
tu hạnh Bồ-tát sẽ được tên là Kim Cương Trí Huệ Quang Minh Công Đức và
sẽ thành Phật ở thế giới Bất Huyền phương Đông hiệu là Phổ Hiền Như Lai
(Kinh Bi Hoa).
Căn cứ vào vị trí đặt tượng Thích Ca tam tông,
Bồ-tát Phổ Hiền hầu bên trái đức Phật Thích Ca, Bồ-tát Văn Thù hầu bên
hữu. Bồ-tát Phổ Hiền thờ riêng với hình thức ngư cư sĩ, cưỡi voi trắng
sáu ngà, hai tay chắp lại.
Hoài Lương/