Photo by Thông Trường
Thích Ca Mâu Ni: “Thích
Ca Mâu Ni” là dịch từ chữ “Sakyamuni” trong tiếng Phạn. Chữ “Sakya”,
dịch thành chữ “Thích Ca”, là tên gọi của một bộ tộc ở Ấn Độ cổ đại. Chữ
“Muni”, dịch thành chữ “Mâu Ni”, nghĩa là giàu lòng nhân từ (Năng
Nhân), rất giỏi chịu đựng (Năng Nhẫn), biết cách nhường nhịn (Năng Nhu),
biết cách giữ gìn cho thân tâm thanh tịnh (Năng Tịnh). Nói tóm lại,
“Thích Ca Mâu Ni” nghĩa là vị thánh của dòng họ/bộ tộc Thích Ca. Danh
hiệu này để tôn xưng tên thật của Ngài là Cồ Đàm Tất Đạt Đa.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn được gọi bằng các tên “Phật Đà”
hay “Phù Đồ”, nói tắt là “Phật” hay “Bụt”, dịch từ chữ “Buddha” trong
tiếng Phạn, nghĩa là “Giác” (giác ngộ), “Người Giác” (người đã giác
ngộ), “Người Trí” (người tinh thông mọi đạo lý). Chữ “Giác” có 3 nghĩa:
một là “Tự giác” (tự giác ngộ cho bản thân mình); hai là “Giác tha”
(giúp cho chúng sinh giác ngộ); ba là “Giác hạnh viên mãn” (tu hành viên
mãn hết mức và trở thành Phật), ngôi vị cao nhất trong tu hành Phật
giáo. Theo giáo pháp nhà Phật, chỉ có Phật (người giác) mới có đầy đủ ba
bậc, tức là ở bậc cao nhất. Các vị Bồ Tát còn thiếu một bậc (hay thấp
hơn một bậc). Các vị La Hán còn thiếu hai bậc (hay thấp hơn hai bậc).
Phàm phu tục tử còn thiếu cả ba bậc (hay ở bậc thấp nhất).
Thế Tôn: “Thế Tôn” là
một tôn hiệu khác rất hay được dùng để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
“Thế Tôn” vốn là cái tên mà đạo Bà La Môn dùng để gọi những vị trưởng
giả. Tăng sĩ và tín đồ Phật giáo sau này cũng dùng cái tên đó để tỏ lòng
cung kính Thích Ca Mâu Ni. Phật giáo coi Thích Ca Mâu Ni là người đức
hạnh vẹn toàn, công đức đầy đủ, có thể làm lợi cho thế gian, muôn loài
đều tôn kính, cho nên gọi là “Thế Tôn”.
Như Lai: cùng với “Thế
Tôn”, “Như Lai” cũng là tôn hiệu thường dùng nhất để chỉ Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni. “Như Lai” được dịch từ chữ “Tathagata” trong tiếng Phạn.
“Như” , còn gọi là “Như Thực” hay “Chân Như”, là để chỉ cái “chân lý
tuyệt đối”, “chân tướng của sự thật”, “bản thể của vũ trụ vạn hữu”.
“Lai” nghĩa là đến. “Như Lai” là những người đến bằng con đường chân
thực, những người đã hiểu rõ chân lý, những người đi theo con đường đúng
đắn đến được chính giác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong số những
người đến bằng cách như vậy nên được gọi là “Như Lai”.
Từ “Như Lai” dùng với nghĩa hẹp để chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, với nghĩa rộng để chỉ tất cả các vị Phật, như A Di Đà Như Lai, Dược
Sư Như Lai,v.v…
Ứng Cúng: Đức Phật là
người đã đoạn trừ Nghiệp, Hoặc, vĩnh viễn thoát khỏi vòng luân hồi sinh
tử, muôn đức tôn nghiêm, phúc tuệ đầy đủ, nên xứng đáng với sự cúng
dường của chư Thiên và loài Người.
Chính Biến Tri: Chính là
chân chính. Biến là khắp nơi, rộng lớn. Tri là hiểu biết. “Chính Biến
Tri” là người hiểu biết đúng đắn, hiểu biết tất cả bao trùm khắp thế
gian.
Minh Hạnh Túc: Đức Phật
là người có đầy đủ phúc tuệ, nghĩa có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh,
Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên
Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh) nên được gọi là Minh Hạnh Túc.
Thiện Thệ: Thiện là tốt,
khéo léo. Thệ là đi, vượt qua. Đức Phật là người tu tập theo con đường
chân chính, biết khéo léo vượt qua tất cả để nhập Niết Bàn.
Thế Gian Giải: Đức Phật là người thấu hiểu tất cả các pháp của thế gian.
Vô Thượng Sĩ: Trong tất
cả các pháp thì Niết Bàn là Vô Thượng, trong loài người thì Đức Phật là
Vô Thượng, trong các thành quả thì Chính Giác là Vô Thượng. Chúng sinh
trong chín cõi đều không so sánh được với Đức Phật, nên Ngài có tôn hiệu
là Vô Thượng Sĩ, nghĩa là người đã lên đến cao vô thượng.
Điều Ngự Trượng Phu:
Đức Phật là Đấng đại trượng phu có khả năng điều phục, chế ngự mọi ma
chướng trong khi tu hành chính đạo. Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa
khác nữa là Đức Phật có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục
những kẻ ác theo về chính đạo.
Thiên Nhân Sư: Đức Phật là bậc Đạo sư, là người thầy đưa đường dẫn lối đến giải thoát cho cả chư Thiên lẫn loài Người.
Từ Phụ: Đức Phật thương
tất cả chúng sinh như cha mẹ nhân từ thương con cái. Tình thương này
bình đẳng, an nhiên vô ngại, nghĩa là không phân biệt sự kính trọng hay
sự phỉ báng của chúng sinh đối với Đức Phật, không phân biệt người sang
hay người hèn. Chúng sinh càng lầm lạc thì lòng từ bi của Đức Phật càng
vô lượng vô biên.
Chân Thật Ngữ: Đức Phật
là đấng nói những lời chân thật, không phỉnh gạt chúng sinh. Những lời
nói của Đức Phật đều xuất phát từ trí tuệ toàn hảo, không phải tùy tiện.
Lưỡng Túc Tôn: Lưỡng Túc
Tôn có hai nghĩa: Đức Phật là đấng tôn quý nhất trong những loài hai
chân (lưỡng túc: hai chân), như chư Thiên và loài Người. Và, Đức Phật là
đấng đầy đủ Phúc đức và Trí tuệ (lưỡng túc: cả hai đều đầy đủ).
Tỳ Nô Giá Na:Phật giáo
Mật Tông gọi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là “Tỳ Nô Giá Na”, dịch ý nghĩa là
“Đại Nhật Như Lai”. Theo tiếng Phạn, “Tỳ Nô Giá Na” là tên gọi khác của
Mặt Trời. Dùng danh hiệu “Tỳ Nô Giá Na” có nghĩa coi Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni là Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của Đức Phật như Mặt
Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
Ngoài ra, Đức Phật còn được biết với một số tôn hiệu khác như: Bạc Già Phạm, nghĩa là người đã chiến thắng sự chế ngự của bản ngã; Tam Giới Tôn, nghĩa là người đã giác ngộ, đã giải thoát khỏi tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới; Toàn Giác, nghĩa là người đã giác ngộ hoàn toàn; Đạo Sư, nghĩa là người thầy dẫn chúng sinh đến sự giải thoát, v.v…
Lê Gia Hân (Website Ban Tôn Giáo Chính Phủ)