Trích1
Hơn năm trăm năm trước Tây lịch vào đêm trăng tròn đầu tiên của tháng
Vesakha theo lịch Ấn Độ, Ngài Siddhartha Gautama ngồi xếp bằng theo
thế kiết già dưới gốc một cây Bồ-đề bên bờ sông Niranjana ở Ấn Độ, tại
một nơi sau này nổi tiếng với cái tên Bodhgaya. Thề không đứng dậy cho
đến khi thấy được con đường mà Ngài vẫn khát khao tìm kiếm, Siddhartha
vào sâu trong trạng thái thiền định. Khi đêm đã tàn, Ngài càng lúc càng
tiến sâu hơn vào bản chất của thực tại cho đến tận lúc cuối cùng, Ngài
đã thành tựu đầy đủ sự nhận thức toàn triệt và trực tiếp về chân lý.
Khi ngôi sao mai vừa mọc ở phía Đông, sự giác ngộ của Ngài đã hoàn toàn
viên mãn và không gì lay chuyển được. Siddhartha đã trở thành Phật, từ
Sanskrit là Buddha, có nghĩa là một người hoàn toàn giác ngộ. Chúng ta
cũng nên biết rằng người Tây Tạng gọi Ngài là Shakyamuni, cái tên có
nghĩa là ‘bậc thánh của dòng Shakya’.
Phật không phải là một vị thần, một nhà tiên tri hay một thiên sứ.
Ngài chỉ là một con người bình thường nhưng đã nhờ vào những cố gắng tự
thân, mở toang mọi tiềm năng của chính mình và trực tiếp nhận thức được
bản chất thật của thực tại.
Toàn thể truyền thống Phật giáo hiện hữu là để chứng nghiệm và chia sẻ cái nhận thức sâu xa đó với mọi người.
Mặc dù sự thành đạo của Đức Phật chỉ diễn ra trong khoảng thời gian
của một đêm, cuộc chiến đấu về tâm linh nhằm đạt tới mục đích đó đã trải
qua nhiều năm cố gắng vất vả không ngừng nghỉ. Phật tử tin rằng không
chỉ trong kiếp sống hiện tại lúc bấy giờ, mà còn ở vô số kiếp sống
trước đó nữa, Đức Phật đã chuẩn bị nền tảng cho cái nhìn thấu suốt của
Ngài về thực tại. Truyền thống Tây Tạng kể rằng trong vô số kiếp về
trước, một tiền thân của Đức Phật đã sinh ra trong một thân bò ở địa
ngục và được thắng đôi để kéo một chiếc xe. Ngài cảm thấy thương hại
cho con bò yếu ớt được thắng đôi với mình nên đã nói với thằng Alan cai
quản cõi Dama rằng Ngài sẵn lòng kéo cỗ xe một mình. Thằng Alan nổi
giận giết Ngài bằng một chiếc đinh ba; ngay lúc ấy, thần thức của Ngài
được thúc đẩy bởi lòng từ đã tái sanh vào cõi trời Tam thập tam. Tại
đó, Ngài lại tiếp tục tích tụ công đức trải qua vô số kiếp.
Sách đã giải thích Ngài Siddhartha rời bỏ ngôi vị thái tử và sống
cuộc đời khổ hạnh như thế nào. Tuy nhiên, Ngài đã thấy khổ hạnh không
phải là con đường thích hợp để rồi tự đảm nhận cuộc truy cầu chân lý
của chính mình.
Trích 2:
Mặc dù việc từ bỏ con đường khổ hạnh có vẻ như là một thất bại, thật
ra đó là một chiến thắng vĩ đại của Siddhartha. Ngài đã vượt qua được
cái khuynh hướng rất con người là luôn luôn tìm cách phủ nhận rằng mình
đã nhằm lẫn. Siddhartha đã buông bỏ tất cả những gì đã đạt được trong
quá trình tu khổ hạnh, trừ ra việc Ngài đã chuẩn bị để vạch ra con đường
của riêng mình trong khao khát truy cầu chân lý. Ngài không kể gì đến
việc bị mất tất cả đệ tử, Ngài cũng chẳng ngại phải bắt đầu lại từ ban
đầu, thay vào đó, Ngài thú nhận mình đã nhầm lẫn, và tiếp tục cuộc truy
vấn của chính mình.
Cuối cùng, sau năm giấc mơ có tính cách điềm báo và ngay trong đêm đã
nhận thực phẩm, Siddhartha ngồi dưới một gốc cây tại Bodhgaya và trải
qua một đêm trong thiền định. Ngài phát nguyện thực hiện một cố gắng
cuối cùng và thề sẽ không rời khỏi chỗ cho đến khi thành tựu sự truy cầu
của mình về giác ngộ. Nghệ thuật Tây Tạng mô tả khoảnh khắc ấy với
hình ảnh bậc Đại sĩ sắp thành Phật ngồi trên một đống cỏ busa ngay bên
dưới những cành tỏa rộng của một cây sung cổ thụ thiêng liêng mà về sau
này gọi là cây Bồ-đề hay cây giác ngộ. Chung quanh Ngài ở khắp cả các
phương hướng là hàng ngàn quỷ dữ thở ra những ngọn lửa đầy đe dọa cùng
những hình hài kỳ dị. Có những tướng quỷ bắn cung, cầm tên, hay đập vỡ
cả những quả núi. Huyền thoại kể rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã phải
đối đầu với Ma vương ( một thuật ngữ Phật giáo nhằm nhân cách hóa sự vô
thường và cái chết, thường được gọi là quỷ) cùng với những đạo quân
của kẻ này. Ma vương khuyến dụ Đức Phật với hy vọng Ngài sẽ từ bỏ sự
truy cầu của mình.
Đó là một biểu tượng về những khó khăn mà mọi cá nhân đều sẽ gặp phải
trên con đường đi đến sự giác ngộ. Những sự cám dỗ ấy biểu tượng cho
sự sợ hãi, sự nghi ngờ, và lòng khát khao trở lại với những lạc thú và
mục đích trần tục. Nhưng Đức Phật đã chẳng hề chú ý tới cuộc trình diễn
của chúng ma; và, coi mọi sự chỉ là những ảo tưởng của ma thuật, Ngài
chẳng hề tỏ ra sợ hãi đạo quân ma. Bậc Đại sĩ sắp thành Phật ấy đã tích
tụ đủ công đức và uy lực để chiến thắng mọi cám dỗ. Khi những mũi tên,
và cả những mũi tên lửa nữa, chạm phải hào quang của Ngài, chúng lập
tức biến thành hoa và rơi lả tả xuống mặt đất. Đức Phật vẫn tiếp tục
thiền định niêm mật. Bấy giờ Ma vương đổi chiến thuật và cố gắng mơn
trớn Đức Phật. Ma vương triệu tập một bầy ma nữ ra lệnh cho họ múa
những điệu múa hết sức khêu gợi. Nhưng Đức Phật vẫn tiếp tục thiền
định: không một điều gì có thể thuyết phục Ngài rời bỏ con đường đã
chọn. Cuối cùng, Ma vương đành chấp nhận Phật một mình dưới gốc cây
Bồ-đề.
Những cám dỗ đối với Đức Phật
Nhiều kinh văn thuật lại chi tiết câu chuyện này; kể lại việc Ma
vương cố gắng dụ dỗ Đức Phật tiếp nhận nhiệm vụ thái tử của mình như thế
nào, việc Đức Phật đánh tan các đạo quân ma rồi làm chúng sợ hãi bằng
lưỡi gươm rực lửa như thế nào; chúng ta được đọc những truyền thuyết về
việc Ngài đặt tay xuống đất gọi thần đất Prithivi lên để làm chứng cho
Ngài như thế nào. Truyền thống Yamantaka của Tây Tạng cho rằng Ngài đã
chiến thắng ma quân bằng cách xuất hiện trong những thân Yamantaka nửa
đen nửa đỏ; cũng có những kinh văn Tây Tạng khác kể lại câu chuyện
rằng Đức Phật bỏ lại nhục thân bên bờ sông Niranjana rồi hiện Pháp thân
vào cõi trời Akanisha, ở đó Ngài nhập Đại thủ ấn của cõi Kim cương.
Hiển nhiên, những câu chuyện đó chỉ là những cách thần bí nhằm thể hiện
điều đã xảy ra. Sự thật là Đức Phật ngồi một mình dưới cây Bồ-đề và
chẳng hề có ai chứng kiến điều gì đã thật sự diễn ra. Những câu chuyện
ấy, cũng như chuyện Chúa Jesus bị cám dỗ trên đỉnh núi, chỉ là những
biểu tượng thể hiện các tầng bậc của sự giác ngộ và những trở ngại mà
bất kỳ ai cũng sẽ có ngày phải tự mình vượt qua.
Siddhartha đạt tới sự giác ngộ
Sau bốn mươi chín ngày thiền định niêm mật, Siddhartha đã đạt tới sự
giác ngộ cuối cùng như là kết quả của việc vị thái tử đi tu khổ hạnh đã
trở thành Đức Phật – Thế Tôn. Sự nhận thức của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni về chân lý tối hậu của thực tại tuyệt đối đã khai mở theo những tầng
bậc giống như một đóa sen nở dần từng lớp lớp tràng hoa. Bậc đầu tiên
là một loại suy tưởng an tịnh và buông bỏ, ở đó hành giả thấy vui và an
bình nhưng mới chỉ là sự từ bỏ ý thức thường ngày (Ly sanh hỷ lạc). Ở
bậc kế tiếp, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trở nên không còn vướng mắc với
những dao động của tâm thức và tư tưởng được chuyển hóa để tiến vào một
trạng thái an lạc và vui sướng sâu sắc hơn (Định sanh hỷ lạc). Ở bậc
thứ ba, Ngài đạt tới một niềm vui sướng trong trẻo hơn nữa (Ly hỷ diệu
lạc) cho đến khi Ngài tiến vào bậc thứ tư và là bậc cuối của tầng ý
thức, tại đó, niềm vui cũng nhạt dần, chỉ để lại một dòng tâm thức hết
sức an lạc và trong trẻo đến mức có thể trực tiếp cảm nhận được thực
tại (Xả niệm thanh tịnh).
Bốn tầng khai mở của ý thức này đã chuẩn bị để Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni nhận thức được những tầng vô thức. Bậc đầu của sự nhận thức đó xảy
ra vào canh một (từ 6 giờ đến 10 giờ tối) khi Ngài tự nhiên nhớ lại
được tất cả những kiếp quá khứ, điều mà các Phật tử gọi là Túc mạng
minh. Ngài nhớ lại hàng chục ngàn những kiếp quá khứ như thể đã sống
lại toàn thể những kiếp sống ấy đến từng chi tiết. Mọi người đều có
những ký ức chi tiết ấy nhưng chúng bị tắt nghẽn ở đâu đó trong tâm
thức mình. Chúng ta có thể chứng kiến những người khi bị thôi miên
thuật lại chi tiết cuộc đời của ho. Đôi khi họ nêu ra những sự kiện mà
chúng ta có thể kiểm chứng qua những ghi nhận của công chúng. Lại nữa,
một lần khi tôi quỳ dưới chân vị thầy của mình, ngài Sai Baba, ở Ấn Độ,
tôi đã thấy cuộc đời quá khứ của tôi lướt qua trước mặt mình như một
cuộn phim quay nhanh. Sự thật là mọi người đều có thể đạt tới những
trạng thái xuất thần mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như những vị
trước Ngài và sau Ngài đã tiết lộ cho chúng ta. Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni chỉ là một con người. Một số Phật tử cho biết một vài kiếp trước của
Ngài được kể lại trong tập truyện Jataka thuộc hệ kinh điển
Pali. Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật của thời đại này, thời Kali Yuga
(thời đại suy đồi theo kinh điển Bà-la-môn); trước Ngài đã có Đức Phật
Nhiên Đăng (Dipankara Buddha); và bậc Đại giác ngộ của thời đại tiếp
theo là Đức Phật Di Lặc (Maitreya Buddha). Có những vị khi đạt tới sự
giác ngộ thì dời khỏi dòng sinh tử và không cần phải tái sinh. Tuy
nhiên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã quyết định trở lại trong dòng sống
để dạy loài người về chân lý giải thoát, như Phật Nhiên Đăng đã từng
quyết định như vậy; cũng như Đức Phật Di Lặc sẽ quyết định như vậy
trong những thế kỷ sắp tới.
Lòng từ của Đức Phật
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tràn đầy từ tâm khi Ngài chứng kiến chúng
sinh vị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi không bao giờ dừng nghỉ.
Khi trời đêm tiến vào canh hai (từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng hôm sau),
Ngài đã đạt tới một nhận thức thấu suốt khác, được người Phật tử gọi là
Thiên nhãn minh. Năng lực về sự cảm nhận và sự thấy biết siêu việt của
Ngài mở rộng đến mức Ngài thấy biết trực tiếp về mọi kích thước và cõi
giới đang tồn tại. Ngài thấy không những thế giới của loài người với
những chúng sanh luân chuyển trong nhân giới, thiên giới và địa ngục mà
Ngài còn thấy được tất cả những cõi giới của A-tu-la, ngạ quỷ, súc
sanh. Trong tất cả những cõi giới ấy, Ngài thấy tất cả chúng sanh tự
gây nên những đau khổ cho chính mình bởi những hành vi của chính mình.
Người Thiên Chúa giáo cũng nhận thức được những điều tương tụ trong lời
dạy của Jesus, “Người gieo gì thì người gặt nấy”.
Trong Phật giáo, định luật nhân quả này được gọi là nghiệp. Luật cân
bằng nghiệp cũng được giải thích trong những kinh văn của Ấn Độ giáo.
Trong sự vận hành của luật tắc tự nhiên, bởi tư tưởng và hành động, mỗi
chúng sinh đều là kẻ đúc khuôn cho phần số của chính mình. Bất kỳ hành
động nào mà con người đưa vào chuyển động cũng đều đáp trả lại cho kẻ
đó như điểm khởi đầu của hành động ấy giống như một chu kỳ của các sự
kiện. Đó chính là công lý tối hậu và nghiệp của một người đi theo người
đó từ kiếp này sang kiếp khác cho đến khi đã trả đủ hoặc đã được chuyển
hóa về mặt tâm thức. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy rõ những luật vĩnh
cửu ấy phơi bày ra và cảm thấy thương hại cho tất cả chúng sanh phải
trôi nổi mãi mãi trong cái tiến trình lòng vòng ấy mà không biết tại sao
cũng như chẳng biết thế nào để thoát ra.
Vào canh ba (từ 2 giờ đến 6 giờ sáng), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đạt
tới nhận thức tuyệt đối và sự giác ngộ tuyệt đối. Đối với Ngài, nghiệp
đã mất đối tượng của nó, vì nó cũng giống như Pháp, là luật Tuyệt đối.
Sự giác ngộ mà Ngài đã chứng đắc không thể nói đươc bằng ngôn ngữ vì
điều đó vượt ngoài ngôn ngữ, hình thể, hoặc ngay cả tư tưởng nữa. Pháp
có thể biết được, nhưng không bao giờ được bày tỏ một cách trọn vẹn,
ngay cả bỏi chính Đức Phật. Sự giác ngộ bao gồm một sự an lạc toàn hảo,
sự vui sướng trong trẻo và một sự hiểu biết không thể bị lay chuyển khi
bạn có được trải nghiệm về chân lý tuyệt đối. Đó là niềm vui vô hạn,
niềm an lạc vô hạn và lòng từ vô hạn.
Thời điểm chọc thủng hoàn toàn màn vô minh trùng hợp với thời khắc
mặt trời mọc vào lúc 6 giờ sáng. Siddhartha đã đánh tan mọi lưc lượng
của Ma vương, đã thấy được xuyên qua cái ngã đầy ảo tưởng và đã diệt
sạch mọi cấu uế trong tâm thức. Cuộc chiến đấu đã hoàn toàn kết thúc;
Ngài đã nhận biết được sự an lạc tối thượng, mãi mãi; giống như mặt trời
Ngài vừa thấy đang mọc lên ở chân trời buổi sáng, Ngài đã hoàn toàn
tỉnh thức từ đêm tối của tâm hồn. Không chỉ nhìn thoáng qua Chân lý,
Ngài đã thực sự trở thành một với Chân lý. Bây giờ Ngài thực sự là một
vị Phật.
Giác ngộ là gì?
Sự giác ngộ được mô tả một cách rõ rệt nhất như là một trạng thái
hiện hữu hơn là một sự nhận thức thấu suốt vào bản thể. Từ quan điểm của
sự minh triết, đó là sự nhận biết thấu suốt trực tiếp về bản chất của
thực tại và về Chân lý. Đó không phải là một sự hiểu biết có tính cách
trí thức mà là một sự hòa nhập làm một với chân lý. Với sự giác ngộ, đã
diễn ra sự giải phóng khỏi vô minh, lo âu, buồn phiền, và mọi bất
hạnh. Và, có thể được coi như một phần thưởng, chúng ta trải nghiệm một
trạng thái xuất thần của sự hiện hữu thuần khiết. Trạng thái này là
một khả năng thực tế đối với bất kỳ ai đã được sinhra trong thân người.
Được biết đến như sự “giải thoát tâm hồn”, Phật tử thuộc mọi hệ phái
đều truy cầu cùng một mục đích này. Phật giáo gọi cái trạng thái không
thể mô tả đó, vượt ngoài hiện hữu và không hiện hữu, nơi mà mọi tham
ái, vô minh, đau khổ đều bị tận diệt, là Niết-bàn. Trạng thái này có
thể đạt được cả trong cuộc sống này lẫn sau khi chết.
Từ Niết-bàn có nghĩa đen là tắt ngấm, tượng trưng cho ngọn lửa tham,
sân, và si đã bị dập tắt. Trước hết, Niết-bàn là sự chấm dứt, là sự kết
thúc của chu kỳ luân hồi và là sự giải thoát tối hậu của mọi đau khổ.
Khái niệm này thật khó để người phương Tây nắm bắt, vì thoạt nghe, nó
có vẻ giống như việc tiêu diệt tất cả những gì chúng ta coi là quý giá.
Điều đó có vẻ như nói rằng chúng ta tự tiêu diệt để chúng ta thoát
khỏi đau khổ; kẻ cam tâm tự tử trong hành động gần với sự ích kỷ nhất.
Những điều mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mô tả cũng giống như kinh
nghiệm huyền bí mà loài người đã từng mô tả ở mọi thời đại và ở mọi nền
văn hóa. Chẳng hạn, triết gia Hy Lạp thuộc trường phái tân Plato lâ
Plotinus đã trải nghiệm một sự hợp nhất của linh hồn mình với Thượng đế.
Ông ta giảng rằng mọi sự là toàn thể mà mọi sự cũng là một. Nhiều
triết gia phương Tây khác lập luận rằng điều mà chúng ta gọi là “tôi”
không phải là cái “tôi” chân thật, và ở những thời điểm nào đó, chúng
ta có thể có được một cái nhìn thoáng qua về một cái “tôi” vĩ đại hơn.
Một số nhà huyền học gọi cái Vô hạn, Bản thể, hay Vũ trụ là Thượng đế
hay Linh hồn Vũ trụ. Nhưng ý tưởng tương tự như quan điểm của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni có thể được thấy trong các triết thuyết của Descartes,
Spinoza, Locke, Berkeley, Kant, và Kierkegaard. Đặc biệt, sự thành tựu
vĩ đại của Schopenhauer (1788 – 1860) nằm trong sự nhận thức của ông về
phẩm giá nội tại của lương tâm nhân loại mà ông cho là đứng trên mọi
thần linh, và là nguồn gốc của mọi sự, một chân lý được Schopenhauer
phát hiện độc lập. Cũng vậy, nhà huyền học Thiên Chúa giáo Angelus
Silesius (1624 – 1677) đã so sánh sự hợp nhất với cái vô tận như là một
giọt nước trở thành một với đại dương, “Mỗi giọt nước trở thành biển
cả khi nó chảy ra biển, hệt như cuối cùng các linh hồn thăng hoa và trở
thành Thượng đế”.
Sự mô tả bằng thi ca về sự thành đạo của Đức Phật
Tập sử thi Ánh sáng Á châu của Edwin Arnold nhắm tới việc
trình bày cuộc đời của Đức Phật như được hiểu bởi một người Phật tử
phương Nam, cũng mô tả sự thành đạo theo cùng một cách tương tự:
Vào Niết-bàn, Ngài là một Đời Sống.
Nhưng cùng lúc Ngài không sống.
Mà lạ thay, Ngài đang ngừng hiện hữu.
Om, mani padme hum!
Giọt sương mai trượt vào biển quang minh!
Tương tự, tập thánh thư của Ấn Độ giáo Upanishads mô tả Atma (Tiểu
ngã), được coi là thực tại thiêng liêng của một con người, hiện hữu bên
trên và bên ngoài cả thân, tâm, và trí. Thành phần tinh túy đó có thể
hòa nhập với Brahman (Đại ngã, hay Linh hồn Vũ trụ tối thượng), là kết
quả của sự tự nhận thức hoặc tương đương với sự giác ngộ của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Vị thánh Ấn Độ giáo hiện tại, ngài Sai Baba, nói, “Người
mà lúc nào cũng khuất phục được tính vị kỷ, chiến thắng lòng ham muốn
và lợi ích của riêng mình, tiêu diệt được mọi tinh khí và những xung
động dã man cũng như từ bỏ được cái thiên hướng tự nhiên coi thân xác là
tự ngã, người ấy rõ ràng đang đi trên con đường của giáo pháp. Người
ấy biết rằng mục tiêu của giáo pháp là sự hòa nhập của sóng vào biển
cả, sự hòa nhập của tự ngã vào siêu ngã” (Trích Dharma Vahini, trang 4) và, “Chúng ta chỉ là cái bóng của Ý thức Tối thượng, và về cơ bản, chúng ta không là một cá nhân, mà chính là Ý thức Tối thượng ấy”.
Những ý tưởng như vậy luôn luôn nằm ở trung tâm của nền huyền học
phương Đông, và Phật giáo có thể rất khó để người phương Tây nắm bắt.
Trong Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, và Hồi giáo, nhà huyền học nhấn
mạnh rằng sự hòa nhập của ông ta là sự hòa nhập với một Thượng đế mang
tính cách con người. Mặc dù Thượng đế hiện diện trong thiên giới và
trong linh hồn con người, Ngài cũng siêu vượt thế giới ấy. Tuy nhiên
trong các tôn giáo phương Đông, có sự nhấn mạnh rằng kinh nghiệm huyền
bí là một sự hợp nhất toàn thể với Thượng đế. Đạo Phật không tin vào một
vị Thượng đế sáng tạo độc lập, nhưng như chúng ta có thể thấy, Chân lý
mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hé lộ cho chúng ta, về bản chất, cũng
giống với những gì là cốt lõi của hầu hết những tôn giáo và triết lý
khác.
Trích từ The Timeless Wisdom of the Tibetans (Trí tuệ vượt thời gian của người Tây Tạng) của Craig Hamilton-Parker.
Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 130