Mỗi độ
Xuân về, trong ký ức chúng con lại gợi nhớ biết bao kỷ niệm tình nghĩa thiêng
liêng với một vị ân sư lại hiện về. Chúng con có phúc duyên được học luật và
hầu bên cạnh Hòa thượng Ân sư phút cuối đời.
Hòa
thượng Ân sư có hình dáng vừa tầm, hiện thân phạm hạnh để hoằng dương Luật
tạng, hưng hiển Phật pháp. Đời sống giản dị thanh bần, luôn thể hiện “Thiểu dục
tri túc” để nêu gương sáng cho hàng hậu học. Mặc dù giản dị nhưng lại chứa đựng
bên trong một nguồn năng lực dồi dào, bất khả tư nghì. Lúc sinh tiền có học tăng đến Hòa thượng thường
dùng câu trong Khế kinh để khuyến hóa : "Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa
thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệt bất xưng
ý". Nghĩa là: Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, trái lại,
người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ý.
Nhớ
những năm sau khi thống nhất đất nước, đầu thập niên 80, Hòa thượng mở lớp dạy
Luật, thời điểm ấy hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, cơm gạo áo tiền thật
túng thiếu. Nhưng Hòa thượng Ân sư vẫn kiên nhẫn chịu đựng, chắc chiu dành dụm
để hoàn thiện tâm nguyện làm sao để duy trì Luật tạng cho mai sau có người tiếp
nối hoằng dương chuyên ngành Giới Luật học và dịch thuật Hán nôm. Đối với hàng
hậu sinh chúng con mãi nhớ hình ảnh Hòa thượng chăm lo cho chúng con từng bữa
ăn, buổi tối Hòa thượng đi từng giường để tấn mùng và nhè nhẹ kê gối, đắp chăn
cho chúng con khi say mê trong giấc ngủ, vỗ về
an ủi, động viên khi mắc phải sai lầm . . . Thật êm đểm dịu ngọt như mẹ hiền
nâng niu từng đứa con một.
Bao nhiêu năm Hòa thượng
ân sư đã sẳn sàng giúp cho Thiền sư Duy Lực tổ chức những tuần lễ Thiền thất
tại Tu viện Huệ Quang. Tứ chúng Phật tử đến đây dự những buổi Thiền thất, trãi
năm tháng trong ký ức vẫn không quên hình ảnh của một Luật sư mô phạm đã lo
từng bữa ăn giấc ngủ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng việc tu tập tham
thiền tại Tu viện Huệ Quang.
Chúng con nhớ một lần
Hòa thượng cùng Sư thúc Minh Cảnh đến Tổ đình Từ Ân Thiền Tự, Quận 11 để tiển
Thiền sư Duy Lực sang Hoa Kỳ hoằng pháp, nơi đây con vô cùng phúc hạnh, được
pha ấm trà để dâng lên các Ngài trong buổi chia tay, để rồi kẻ bên kia hơn nửa
vòng trái đất, người ở quê nhà mà vẫn cùng nhịp tim cùng hơi thở, quyết tâm cùng chí hướng.
Hai vị tiền bối cùng trao
đổi với nhau về việc hoằng truyền Giới luật, dịch thuật kinh điển, hoằng dương
Tổ Sư thiền và cùng nhau hợp tác trong tương lai khi Viện Chuyên Tu tại Đại
Tòng Lâm hình thành.
Hình bóng và âm vang của
nhị vị tiền bối mãi mãi trong tâm hồn chúng con để làm tư lương cho hành trình
tu tập và chuyển hóa nội tâm cũng như tiếp nối các Ngài trong sự nghiệp hoằng
dương Chánh pháp. . .
Cuối đời
ước nguyện lớn của Hòa Thượng Ân sư là làm sao để tiếp tục thực hiện những điều
mà Hòa thượng Ân sư đã hứa với Đại lão Hòa thượng Phó Tăng Thống Thích Thiện
Hòa trong việc gìn giữ và phát triển Tổ Đại Tòng Lâm cho xứng tầm với công cuộc
hòa nhập cộng đồng, phát triển của Đạo pháp và Dân tộc. Thế nhưng lực bất tòng
tâm bởi tuổi cao sức yếu.
Sau khi
viên tịch, Hòa thượng Ân sư để lại di chúc với ba ước vọng lớn:
1. Thành
lập một lớp hoằng giới
2. Thành
lập tu viện chuyên tu
3. Mở
lớp huấn luyện trụ trì
Với
uy đức, khả năng và lòng tận tuỵ với Phật Pháp như vậy, Hòa thượng Ân sư được
chư Tăng quy kính và cung thỉnh vào cương vị một số chức vụ từng đảm nhiệm:
1.
Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN
2.
Trưởng ban Phật giáo chuyên môn Viện nghiên cứu Phật học VN
3. Hiệu
phó trường Cao cấp Phật học VN
4. Phó
ban trị sự Thành hội Phật giáo TP. HCM
5. Tổng
lý Hội đồng quản trị tổ đình Ấn Quang.
6. Trụ
trì chùa Kim Huê (Sa Đéc), tu viện Huệ Quang.
Mặc dù
hết sức bận rộn với công việc của bổn tự, đạo tràng cũng như là công việc của
Giáo Hội, Hòa thượng Ân sư cũng tranh
thủ từng chút thời gian để nghiên cứu, sáng tác và dịch thuật số lượng nhiều
sách cho tư tưởng, văn hoá, giáo dục Phật Giáo. Cái đáng quý của đời người
không phải tính đếm bằng năm tháng ngày giờ đã sống mà là những gì Hòa
thượng Ân sư đã làm được và để lại cho đời. Quả thật, Hòa thượng Ân sư tùy
duyên hóa độ và tận tụy với Hoằng pháp lợi sanh, chẳng kể gian lao, không từ
khó nhọc. Người xưa có nói “Bồ Tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”, thật khế hợp với Hòa
thượng Ân sư biết bao. Những gì cần nói, Hòa thượng Ân sư đã nói, những nơi cần
đến, Hòa thượng Ân sư đã đến, những gì cần làm, Hòa thượng Ân sư đã làm. . .
Nay nhân
dịp lễ Tưởng niêm ngày Viên tịch lần thứ 22, chúng con cung kính ôn lại hành
trạng của Ngài để nêu gương sáng cho hàng hậu học :
Tiểu sử
Hòa Thượng THÍCH HUỆ HƯNG
( 1917 - 1990 )
Phụng
vì Việt Nam Phật Giáo, Giáo hội Tăng sự Ban Trưởng, tự Lâm Tế Chánh Tông,Tam
thập cửu thế Thượng Huệ Hạ Hưng, húy Ngộ Trí Nguyễn Công Hòa Thượng giác linh.
Hỡi
ơi!
Đàn
truyền giới thiếu Thầy, Hòa Thượng
Chùa
Huệ Quang vắng bóng Tôn Sư
Mây
trắng phủ đầy trời Bát Nhã
Hoa
Đàm rơi rụng cả lối về.
Hòa
thượng Thích Huệ Hưng, húy Ngộ Trí thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử
Sư tổ Vạn An (Sa Đéc ).
Ngài
thế danh là Nguyễn Thanh Chẩm, sanh năm Đinh Tỵ (1917) Niên hiệu Bảo Đại năm thứ
2, tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh
Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu pháp danh Diệu Thiệt.
Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa Di Ni.
Là
con trưởng trong gia đình gồm bảy anh em, Ngài dìu dắt các bào đệ bước vào lộ
trình giải thoát như :
1/ Thượng tọa Thích
Huệ Viên, trụ trì chùa Sơn Bửu,Vũng Tàu.
2/ Thượng tọa Thích Minh Cảnh, trụ trì tu viện Huệ
Quang.
3/ Ni Sư Thích Nữ Như Trí (đã viên tịch năm 1978).
4/ Ni Sư Thích Nữ Như Diệu, trụ trì tu viện Diệu
Đức, Quận Bình Thạnh.
Vốn
sanh trong gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tín Tam Bảo, sâu trồng
ruộng phước Tăng già, Ngài sớm nhận thức cảnh trần gian ảo mộng, cuộc đời giả
huyễn vô thường. Ngài đến núi Sập để tìm nơi tu dưỡng, hằng ngày lo niệm Phật
tụng kinh. Cơ duyên hội đủ, Ngài được Tổ Vạn An (Sa Đéc) cho thế phát năm Mậu
Dần (1938), lúc ấy Ngài vừa tròn 21 tuổi.
Năm
Nhâm Ngọ (1942) Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 27, Tổ Vạn An khai đàn trao giới, Ngài
chính thức thọ Sa Di. Vốn thông minh sẵn có và lòng khát ngưỡng Đại Thừa, ngày
đêm Ngài tinh tấn tu hành, lo phụng trì chánh giới.
Năm
Quý Mùi (1943) Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 28, Tổ Vạn An biết Ngài là bậc pháp khí
Đại Thừa, xứng đáng ngôi Long Tượng của Phật pháp bèn quyết định cho thọ Tỳ
Kheo Bồ Tát Giới tại chùa Viên Giác ở Vĩnh Long. Sau đó ở lại chùa này học kinh
luật trong mười tháng rồi qua chùa Phước Duyên ở Mỹ Tho tu học cho đến năm
1945, Ngài vào học tại Phật Học Đường Lưỡng Xuyên - Trà Vinh được 6 tháng. Vì
tình hình chiến sự trong nước, Ngài phải trở về học với Hòa thượng Hành Trụ tại
chùa Long An - Sa Đéc.
Cuối
mùa đông Đinh Hợi (1947), Ngài cầu học với Hòa Thượng Thích Trí Tịnh tại Phật
Học Đường Liên Hải - Sàigon.
Năm
Tân Mão (1951), Ngài dưỡng bệnh tại chùa Giác Nguyên - Khánh Hội (Quận 4, Tp.
Hồ Chí Minh), đồng thời dạy kinh pháp cho Tăng chúng. Cũng tại chùa Giác Nguyên
này, Ngài phiên dịch kinh Duy Ma Cật và Kim Cang Giảng Lục.
Năm
Giáp Ngọ (1954), với hoài bão “ Hoằng pháp là nhà, lợi sanh là sự nghiệp”, Ngài
đã phụ giúp Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, viện chủ chùa Ấn Quang giảng các bộ
kinh Đại Thừa.
Năm
Ất Mùi (1955), Ngài làm Phó Liên trưởng Hội Cực Lạc Liên Hữu do Hòa thượng Thích
Trí Tịnh làm Chánh Liên trưởng.
Năm
Bính Thân (1956), Ngài sang Nam Vang dạy khóa hạ tại chùa Chuẩn Đề, khi trở về
Ngài được mời làm trụ trì chùa Kim Huê - Sa Đéc.
Năm
Đinh Dậu (1957), Giáo Hội Tăng Già Nam Việt mở khóa huấn luyện trụ trì “Như Lai
Sứ Giả” tại chùa Pháp Hội do Hòa Thượng Thích Thiện Hòa làm Trưởng ban và mời
Ngài đảm nhiệm Phó trưởng ban kiêm Thư ký.
Năm
Mậu Tuất (1958), Ngài giảng dạy tại Phật Học Đường Phước Hòa -Trà Vinh.
Năm
Canh Tý (1960), Ngài mời Thượng tọa Huệ Phát giữ chức vụ trụ trì chùa Kim Huê
để Ngài yên tâm nhập thất thiền định.
Năm
Tân Sửu (1961) Đại giới đàn tại Vạn Thọ tự, Phường Tân Định, Sài Gòn Ngài được
cung thỉnh Giáo Thọ A Xà lê.
Năm
Nhâm Dần (1962), Ngài xây dựng Thiền viện Tập Thành ở Bà Chiểu và làm Yết Ma A
Xà lê truyền giới sư Đại giới đàn Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang.
Năm
Giáp Thìn (1964), ngài được mời làm giới sư tại Đại giới đàn Việt Nam Quốc Tự.
Từ
năm Bính Ngọ (1966) đến Kỷ Dậu (1969) Ngài làm Giới sư truyền giới và giáo sư tại Phật Học Viện Cao Đẳng Huệ
Nghiêm, và giảng kinh Viên Giác tại chùa Tuyền Lâm.
Năm
Canh Tuất (1970), Ngài khai sơn Tu Viện Huệ Quang rồi thường trụ và hành đạo
tại đây. Ngài được mời làm giới sư tại các giới đàn: Linh Sơn Cổ Tự, Phường Cầu
Muối, Quận Nhất, Sài Gòn, Tu viện Quảng Đức, huyện Thủ Đức (năm Tân Hợi -
1971), Huệ Quang, Chùa Phật Ân - Mỹ Tho
(năm Nhâm Tý - 1972), Phước Huệ - Nha Trang (năm Quý Sửu - 1973), Phật Học Viện
Hải Đức, Chùa Long Sơn – Nha Trang, Quảng Đức - Long Xuyên (năm Giáp Dần -
1974) Tổ đình Ấn Quang (Ất Mão – 1975) và được mời làm thành viên Hội đồng Giáo
phẩm Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cùng được suy cử làm
Tổng lý Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang.
Từ
năm Bính Thìn (1976) đến Canh Thân
(1980), hai Đại giới đàn Quảng Đức và Thiện Hòa được mở ra tại chùa Ấn Quang,
Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê.
Năm Mậu Ngọ (1978) Đại
giới đàn tổ chức tại Chùa Giác Sanh, Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh, ngài được cung
thỉnh đương vi Yết Ma A Xà lê.
Năm Canh Thân (1980) Đại
giới đàn tổ chức tại Tổ đình Ấn Quang, Ngài được cung thỉnh đương vi Yết Ma A
Xà lê.
Năm Nhâm Tuất (1982),
Thành Hội Phật Giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ I đề cử ngài giữ chức vụ Phó
Ban Trị Sự Thành hội kiêm Ủy Viên Giáo Dục Tăng Ni.
Năm
Giáp Tý (1984), Ngài là giới sư Đại giới đàn do Thành Hội Phật Giáo Thành phố
Hồ Chí Minh tổ chức tại chùa Ấn Quang. Đồng thời Ngài được mời giảng dạy tại
các trường hạ do Thành Hội tổ chức cùng giữ chức Hiệu Phó kiêm giảng viên
trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam
cơ sở 2.
Năm
Đinh Mão (1987), Đại Hội Phật Giáo nhiệm kỳ II, Ngài được tái cử chức vụ Phó
Ban Trị Sự Thành Hội. Mùa an cư năm này, Ngài làm Thiền chủ trường hạ do Thành
Hội tổ chức tại Tổ đình Vĩnh Nghiêm. Tháng 10/1987, Ngài đi dự Đại Hội Phật
Giáo toàn quốc kỳ II tại Hà Nội. Ngài được tấn phong Hòa thượng và được đề cử
làm Trưởng ban Tăng sự Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm
Mậu Thìn (1988), Ngài làm Yết Ma A Xà Lê tại Đại giới đàn do Thành Hội Phật
Giáo tổ chức lần thứ II tại chùa Ấn Quang.
Năm
Kỷ Tỵ (1989), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam được thành lập, Ngài được cử
làm Trưởng ban Phật giáo chuyên môn.
Cuộc
đời hành hóa của Ngài rất bình dị, chơn tu thật học, nghiêm trì giới luật, xiển
dương Phật pháp bằng con đường giáo dục. Ngài là một luật sư giáo thọ của Tăng
Ni, Phật Tử trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Trong sự nghiệp tham
thiền và giảng dạy, Hòa Thượng đã phiên dịch:
- Kinh Duy Ma Cật.
- Kim Cang Giảng Lục.
- Lược Sử Đức Lục Tổ.
- Pháp môn tu chứng Lăng Nghiêm Đại Định.
Chưa xuất bản:
- Kinh Phật thuyết
Đương Lai Biến.
- Kinh Phật thuyết diệt tận.
- Tập Tri Kiến Giải Thoát.
Đang
soạn dịch:
- Kinh
Phạm Võng Hiệp Chú.
Theo
năm tháng trôi qua, bốn đại tùy duyên thuyên giảm, Ngài ngọa bịnh tại thiền
sàng. Chẳng bao lâu Hòa thượng thu thần viên tịch vào ngày 28 tháng Giêng năm
Canh Ngọ (23 –02 - 1990).
Ngài
trụ thế được 74 Xuân, với 46 hạ lạp. Bảo tháp Ngài được xây dựng tại Đại Tòng
Lâm - Bà Rịa để cùng đứng chung với các vị tiền bối đã kiến tạo nên cơ sở Tổ
đình Ấn Quang.
Phụng
vì Việt Nam Phật Giáo, Giáo hội Tăng sự Ban Trưởng,
tự Lâm Tế Chánh Tông, Tam thập cửu thế Thượng Huệ Hạ Hưng,
húy Ngộ Trí Nguyễn Công Hòa Thượng giác linh.
(Biên tập Tiểu
sử theo Danh Tăng VN & Kỷ yếu Tưởng Niệm Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng
- Tu Viện Huệ Quang)
Thích Vân Phong