THẦY LÀ NGỌN HẢI ĐĂNG


Thích Thông Huệ
24/11/2010 20:17 (GMT+7)
Số lượt xem: 5141
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

    Mục lục

     - Lời đầu

     - Nén tâm hương dâng Thầy

     - Tòng Lâm Tông tượng

     - Thầy là ngọn hải đăng

     - Tình thầy trò

    


      Lời đầu

    Thời gian thấm thoát, mới đây đã hai năm kể từ ngày Thầy viên tịch. Nỗi đau mất mát xé lòng hôm nào nay lắng xuống, lặng vào trong, âm thầm kết đọng. Như con trai ôm hạt cát trong lòng, tích tụ tinh hoa của xác thân, chuyển hóa hạt cát thành viên ngọc trai quý giá. Nỗi đau làm chúng đệ tử của Thầy trưởng thành, nhận rõ trách nhiệm phía trước, nối tiếp con đường Thầy đi, tiếp tục việc làm của Thầy còn dang dở.

    Không phải tự dưng chúng ta có được sức mạnh tinh thần ấy. Sức mạnh phát khởi từ thẳm sâu tâm thức, khi chúng ta ôn lại công hạnh, đạo đức tỏa sáng nơi Thầy. Có phải chúng ta thấy mình quá diễm phúc khi được cùng Thầy kết duyên Sư đồ, và tự lòng nhủ rằng, không cho phép mình quá bi lụy mà đánh mất chí khí của người tu, phải tinh tấn dõng mãnh để không cô phụ công ơn Thầy bao năm dắt dìu thương mến. Từ đó, chúng ta đứng dậy với một niềm tin mới để tiến bước, một sức mạnh mới để vượt thắng mọi gian nan thử thách của cuộc đời và lòng người.

    Kính bạch giác linh Thầy,

    Giờ Thầy đã thể nhập pháp thân bất hoại, nhưng hình ảnh Thầy vẫn còn rõ ràng với nét cười tự tại, với ánh mắt từ hòa; giọng nói Thầy trầm ấm vẫn như đang ân cần khuyên nhủ.

    TÒNG LÂM TÔNG TƯỢNG là danh xưng Thầy thường dùng khi nói về một bậc chân tu thạc đức có công lớn với Phật Pháp, làm trụ cột cho Giáo hội và là gương sáng cho hàng tứ chúng. Danh xưng cao quý này xin được dâng tặng Thầy, thiết nghĩ không có gì phô trương hoa mỹ.

    Viết về cuộc đời Thầy với những dữ kiện người thật việc thật, thì chỉ cần dựa vào tài liệu sẵn có. Nhưng nói lên được đức độ và công hạnh của một bậc Tòng Lâm Tông Tượng với 79 năm mang thân ngũ uẩn, trong đó hơn 60 năm thừa hành Phật sự, thì ngôn từ không đủ khả năng chuyển tải. Dù sao, bằng tấm lòng của một đệ tử trong tông môn muốn báo đáp thâm ân tác thành giới thân huệ mạng, dù chỉ trong muôn một, con xin mạn phép sử dụng ngọn bút vụng về, vẽ lại chân dung vị Thầy vô cùng quí kính của chúng con.

    Ngưỡng mong Thầy từ bi tha thứ cho những sai sót trong tập sách nầy. Và cung kính lạy Thầy, vì sự nghiệp “Thượng cầu hạ hóa”, ngưỡng mong Thầy sớm hồi nhập Ta-bà, để muôn loài chúng sanh đều thấm nhuần ơn pháp vũ.

    Nam mô từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế, Thiền Lâm đường thượng, húy thượng Thị hạ Khai, tự Hạnh Huệ, hiệu Đỗng Minh Tôn sư giác linh thùy từ chứng giám!

     

    Thiền thất Viên Giác

    Nha Trang - Khánh Hòa

    DL. 2006 - PL. 2550

    THÍCH THÔNG HUỆ

     

     Khi Thầy còn là Thầy Thủ.
     

    NÉN TÂM HƯƠNG DÂNG THẦY

      (Tưởng niệm nhân ngày chung thất

    cố H.T Luật sư thượng Đỗng hạ Minh)

     Năm 1982, Bổn sư của con - HT thượng Đỗng hạ Hải, Trụ trì Sắc tứ Thiền Lâm tự Phan Rang - Viên tịch, trụ thế 63 năm. Ngày ấy, con chỉ là một sa di mới nhập môn tại Tổ đình Thiền Lâm. Hầu hạ Bổn sư vỏn vẹn hai năm, con như chú chim non mất mẹ khi Bổn sư qua đời. Mang tâm trạng một trẻ mồ côi, con đảnh lễ Thầy, vị Sư bá trong tông môn, không hiểu rõ số phận mình sẽ ra sao trong tương lai sắp đến.

    May mắn cho chúng con biết dường nào, chính Thầy đã dang rộng vòng tay, để chúng con được nương nhờ sự bảo bọc của Thầy. Bốn huynh đệ chúng con, từ giờ phút thiêng liêng quỳ dưới chân Thầy để được làm đệ tử Y Chỉ Sư, đã có một tổ ấm bình an và vững chãi. Ánh mắt hiền hòa, nụ cười đầm ấm thân thương của Thầy xoa dịu biết mấy nỗi đau côi cút của chúng con. Thế là từ nay, huynh đệ chúng con đã được cội tùng Thầy che chở, được tình thương Thầy ban bố, được ơn đức Thầy thấm nhuần để có thể tiến bước trên đường tu.

    Những lần thầy từ Nha Trang về Tổ đình Thiền Lâm, đối với con là những ngày hạnh phúc, vì được hầu cận Thầy, nghe lời Thầy chỉ dạy việc tu hành, về oai nghi tế hạnh mà người tu cần gìn giữ. Thầy ít khi nói chuyện gì khác ngoài vấn đề tu học. Câu thường dạy của Thầy là “Còn trẻ học chết bỏ, trưởng thành làm việc chết bỏ, lớn tuổi tu chết bỏ”.

    Có dịp gần gũi, hàng đệ tử chúng con cảm mộ nhiều đức tính quý báu nơi Thầy. Thầy không nói nhiều, nhưng những gì Thầy dạy, Thầy đã thực hiện trước tiên. Nổi bật là sự mộc mạc giản dị, từ tiện nghi vật chất đến lối sống hàng ngày, từ lời lẽ nói năng đến cách giao tiếp. Người đã từng là Giám đốc hãng Vị trai lá Bồ đề, lo sinh kế cho biết bao Tăng Ni sinh, trong tay từng có rất nhiều tiền bạc, thế mà trong phòng riêng chẳng có gì đáng giá: chiếc bàn gỗ thường, nơi Thầy làm việc hàng ngày; cái tủ thờ chỉ đặt một chữ “Xả”; chiếc võng bện bằng xơ dừa, trên tường nơi hai đầu võng có hai câu “Thường tinh tấn” và “Hằng nhẫn nhục” như những lời nhắc nhở thường xuyên. Sự giản dị biểu hiện cả trong di chúc, Thầy dặn dò làm lễ tang đơn giản trong vòng 36 tiếng, không xây tháp, dành tịnh tài để ấn tống kinh sách. Có thể nói rằng, đời Thầy lấy việc đào tạo tăng tài làm Phật sự. Mọi hoạt động của Thầy, từ việc giảng dạy đến dịch thuật, từ việc làm kinh tế đến giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo hội, Thầy đều nhằm mục đích bồi dưỡng cho lực lượng kế thừa!

    Thầy còn là người rất trọng tình trọng nghĩa. Những lần hầu thăm Thầy, con hay được nghe Thầy nhắc đến Sư Ông Thiền Lâm với lòng hiếu kính và biết ơn vô hạn. Xuất gia tại Tổ đình Thiên Hưng, thờ HT Trí Thắng làm Bổn sư, sau đó Thầy được HT đưa về Tổ đình Thiền Lâm làm Trưởng tử của Sư Ông Thiền Lâm. Thầy luôn tinh tấn tu hành, làm tròn phận sự, nên được Sư Ông giao chức Tri khố và Thủ tọa. Trong thời gian Sư Ông mang trọng bệnh, Thầy đã thay mặt Sư Ông điều hành mọi việc chu toàn. Sau nầy, dù đang ở đâu, Thầy vẫn luôn để tâm đến sự phát triển của tông môn, đến việc tu học của các môn đệ trong nước và hải ngoại, cả đến sức khỏe và đời sống của những Phật tử ngày xưa thường lui tới Tổ đình, khi Thầy còn là một tu sĩ trẻ. Những năm gần đây, sức khỏe Thầy không được tốt, lại phải đảm trách nhiều Phật sự lớn, nên Thầy ít về Phan Rang. Tuy vậy, thỉnh thoảng Thầy lại gọi con lên, chỉ đạo những việc cần thiết trong tông môn, giao nhiệm vụ Thủ quỹ khi trùng tu lại Tổ đình. Điều này làm con cảm nhận rõ rằng, dù hiện tại Thầy là vị Cha lành của Tăng Ni Phật tử khắp nơi, nhưng trong lòng Thầy vẫn dành một vị trí đầm ấm thân thương cho cội nguồn Thiền lâm tự!

    Sau đây, xin trích nguyên văn bài thơ do Thầy trước tác, nói lên tấm lòng quý mến của Thầy đối với người pháp đệ đồng Sư:

     

    CẢM NIỆM

    Thầy Đỗng - Hải, người em tôi quý mến,

    Kể từ khi Thầy đến chốn Thiền Lâm,

    Thầy xuất gia với tất cả thiện tâm,

    Tránh ngũ trược âm thầm cầu giải thoát.

    Thầy không phải trong giới người mẫn đạt,

    Thầy không ưa hoạt bát để hơn ai,

    Thầy cần cù tu học suốt đêm ngày,

    Thầy coi ngó từ củ khoai buồng chuối.

    Sống giản dị với tương dưa rau muối,

    Không đua đòi theo đuổi cảnh phồn hoa.

    Gặp ăn ngon mặc đẹp Thầy tránh xa,

    Mãi lủi thủi trong chùa với vườn rẫy.

    Thầy ý thức ngũ trần là cạm bẫy,

    Nên luôn luôn rún rẩy lúc đương đầu.

    Tôi biết Thầy tính đó mãi từ lâu,

    Tôi tin chắc trước sau Thầy như một.

    Tôi đi học vào năm năm - mươi - mốt,

    Công việc chùa giao hết nốt cho Thầy,

    Thầy trông nom quán xuyến đến hôm nay,

    Từ bếp núc, vườn soi tới bàn Phật.

    Đâu vào đó thỉ chung đều tươm tất,

    Công đức Thầy quả thật tôi phải khen.

    Đối với tôi Thầy xứng đáng người em,

    Với môn đệ là người anh đáng kính.

     

    Một đức tính hiếm có của Thầy mà chúng con suốt đời phải noi theo, là tinh thần hỷ xả. Chỉ nhìn vào khuôn mặt vui tươi và nụ cười mỉm của Thầy, những người mới tiếp xúc lần đầu đã thấy Thầy gần gũi biết bao. Lời Thầy dạy sinh động dí dỏm, lúc tiếp xúc nói chuyện thỉnh thoảng thêm một tràng cười giòn giã sảng khoái, nên dù nội dung câu chuyện có nghiêm túc khô khan đến mấy vẫn làm người nghe cảm thấy mát lòng. Càng về già, Thầy càng bao dung tha thứ mọi lỗi lầm của người, không hề giận ai, chê trách ai. Đặc biệt, Thầy không bao giờ phân biệt đối xử theo tông phái hoặc xuất thân; ai có tâm cầu thị, nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành đều được Thầy thương mến và hết lòng dạy dỗ. Thầy thường nhắc nhở: “Pháp Phật là những phương thuốc điều trị tâm bệnh cho chúng sanh. Tùy bệnh mà dùng thuốc cho đúng. Thuốc Tây y hay Đông y đều dùng được, miễn nó lành bệnh là thuốc hay rồi”. Bản thân Thầy tu theo Luật tông, nhưng khi con xin Thầy được tùng học lớp tu Thiền tại Thiền viện Thường Chiếu (1986-1991)(*), Thầy đã vô cùng hoan hỷ hứa khả. Do tình thân lâu nay giữa Thầy và HT Thường Chiếu, Thầy viết thư giới thiệu cho con, bảo trình lên HT. Nhờ thư ấy, HT Thường Chiếu liền cho con nhập chúng tu học, và thâu nhận con làm đệ tử Y Chỉ Sư như sở nguyện, mở ra một trang mới cho đời tu của con từ lúc ấy cho đến bây giờ.

    Ngày từ Thường Chiếu về Nha Trang, con đến đảnh lễ Thầy. Thầy rất hoan hỷ và lại ban cho con những lời khuyên quý giá về việc tu hành và giảng dạy, đặc biệt chú trọng sự hài hòa giữa các tông phái. Đời Thầy là cả một kho kinh nghiệm sống, Thầy đã sử dụng kinh nghiệm tự thân để dắt dẫn chúng con trên bước đường hoằng pháp lợi sanh. Những quyển sách con viết, trước khi ra mắt người đọc, con đều trình lên Thầy xem qua. Bằng tấm lòng người đi trước hướng dẫn đàn hậu học, Thầy đọc rất kỹ và đóng góp cho con nhiều ý kiến bổ ích, để con rút ra những ưu khuyết điểm làm kinh nghiệm cho những lần viết sau. Lúc nào đến thăm Thầy, con cũng cảm nhận ở Thầy một tình thương bao la, luôn nâng đỡ sách tấn và sửa chữa lỗi lầm cho đàn hậu tấn. Nhiều người mang tâm trạng chán nản nặng nề do những chướng duyên trên đường đời và đường đạo, nhưng chỉ cần vài câu nói đơn giản của Thầy người ấy đã thấy thanh thản, tự tin ở chính mình và lại vững tiến trên bước đường tu học. Thầy thường nói, Thầy chịu ơn giáo dưỡng của Sư Ông và của rất nhiều bậc tôn túc khác, nên Thầy phải đem hết sức lực và khả năng của mình để phục vụ tất cả mọi người. Khánh Hòa là nơi đất lành chim đậu, Thầy có duyên gắn bó sự nghiệp đào tạo của mình ở đây. Nhiều vị Tôn túc Tăng Ni hiện đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong các Tỉnh Thành Giáo hội đã từng qua những lớp đào tạo của Thầy, được Thầy đối xử bằng một tình thương bình đẳng.

    Từ lúc khoác y Nam tông, Thầy bắt đầu nghiên cứu, dịch thuật chuyên sâu vào Luật tạng. Bản thânThầy là tấm gương sáng về nếp sống mẫu mực, giờ giấc đúng đắn, giới luật nghiêm cẩn. Thầy thường dạy “Giờ nào việc nấy, chỗ nào vật ấy”, “Căn bản của người xuất gia là đừng để vướng nhiễm ngũ dục. Đối ngũ dục có thể làm thước đo đạo lực của người tu”. Một câu nói của Thầy được xem là câu nói thời danh: “Cảnh khổ là nấc thang của bậc anh tài, là kho tàng của người hiểu biết, là hố thẳm của kẻ ươn hèn”. Chính vì nếp sống mẫu mực ấy mà Thầy được tôn là Hòa thượng Luật sư, và được suy tôn làm Tuyên Luật sư cho nhiều Đại giới đàn. Những năm gần đây, Thầy lại giữ trọng trách Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, phụ trách Ban phiên dịch Hán tạng. Với cương vị nầy, Thầy ra sức đào tạo bồi dưỡng kinh nghiệm dịch thuật cho các thành viên trong Ban, hết lòng thương yêu tiếp dẫn đàn hậu tấn khiến mọi người đều được lợi lạc.

    Thuận theo lẽ vô thường, có sinh ắt phải có già - bệnh - chết. Mười lăm năm mắc bệnh mãn tính, nhưng không ai thấy căn bệnh đã ảnh hưởng đến sức khỏe của Thầy thế nào, vì Thầy vẫn làm việc hăng say, nụ cười vẫn tươi tắn, giờ giấc sinh hoạt vẫn đều đặn. Cho đến khi căn bệnh ung thư quái ác xâm nhập lúc nào nay lộ diện, sức khỏe Thầy mới suy sụp nhanh chóng.

    Chỉ trong hai tháng, kể từ lúc phát hiện triệu chứng đến khi Thầy viên tịch; nhưng đó là cả một quá trình dài đăng đẳng đối với người phải đương đầu với chứng bệnh ngặt nghèo. Người bệnh, thông thường phải chịu nhiều đau đớn về thể xác, căng thẳng về tinh thần, lo sợ cho tương lai, tiếc nuối cho những công việc còn dang dở… Nhất là những người đang mang trọng trách như Thầy - công trình dịch thuật Luật tạng và Pháp tạng đồ sộ chưa hoàn thành, thì có phải nội tâm Thầy là cả một trường tranh đấu? Nhưng thật sự không như thế! Chúng con lúc nào cũng thấy rõ sự bình ổn trong thân tâm Thầy, nụ cười Thầy vẫn nở trên môi khi nghe kể chuyện vui. Định lực nào giúp Thầy khống chế được cơn đau của ung thư trong giai đoạn cuối? Trí tuệ nào soi sáng tâm Thầy để chuẩn bị bước qua bờ sinh tử một cách an nhiên? Chỉ có định huệ của một bậc chân tu hiện ra nơi đời tiếp Tăng độ chúng mới có thể tự tại trước vô thường và cuối cùng, nằm trong tư thế kiết tường viên tịch!

    Sự ra đi nhanh chóng của Thầy làm chấn động hàng tứ chúng trong và ngoài nước. Môn đồ pháp quyến chúng con mất một cội tùng già từ lâu là chỗ nương tựa vững chắc. Tăng Ni Phật tử mất một tấm gương sáng ngời về đức độ và tài năng. Giáo hội mất một cánh tay đắc lực trong sự nghiệp đào tạo tăng tài. Ban phiên dịch Hán tạng mất một vị Thầy nhiều kinh nghiệm và tâm huyết. Nỗi đau nào bằng nỗi mất mát không gì thay thế hôm nay?…

    … Mà thật ra, Thầy đã đi về đâu nhỉ?

    Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ. Pháp thân thường trụ không đến không đi, thì có gì là sinh diệt còn mất? Cho nên, Thầy đang hiện diện ở mọi nơi. Thầy có mặt trong từng chiếc lá cánh hoa, trong từng đám mây tia nắng. Thầy có mặt trong mỗi chúng con, từng giòng máu hơi thở luân lưu trong cơ thể mỗi người. Thân chúng con là sự tiếp nối, kế thừa của thân Thầy; và tâm chúng con, khi tĩnh lặng mà thường biết, vẫn cùng tâm Thầy tương ưng, có bao giờ vắng thiếu? Vì thế, Thầy ơi, mỗi ý nghĩ lời nói của chúng con đều có Thầy chứng minh, mỗi Phật sự chúng con làm đều có Thầy hỗ trợ, mỗi bước đi trên lộ trình tâm linh nhiều chông gai thử thách, chúng con đều có Thầy động viên khích lệ và kịp thời uốn nắn những sai lầm. Và dưới sự hiện diện chứng minh miên viễn của Thầy, chúng con nguyện sẽ tự đứng lên và bước đi bằng đôi chân của chính mình, luôn noi gương Thầy “Học, tu và làm việc chết bỏ” để không phụ công ơn cao cả của Thầy. Về sau, bất cứ sự thành công nào của chúng con dù nhỏ hay lớn, cũng đều có phần đóng góp tích cực từ Thầy - phải thế không thưa Thầy, vị Thầy vô cùng quý kính của chúng con?!

     

     

     

    Đời Thầy tỏa sáng giới đức.
     

    TÒNG LÂM TÔNG TƯỢNG

     

    (Tưởng niệm nhân ngày Tiểu Tường

     cố HT Luật sư thượng Đỗng hạ Minh)

     

    I- NHỮNG NGÀY THƠ ẤU.

    Năm Đinh Mão (1927), nơi một làng quê nghèo của huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, có một cậu bé ra đời.

    Cha mẹ đặt tên là Đỗ Châu Lân, nhưng ở nhà thường gọi là Cu Quất. Cậu là người con thứ tư trong gia đình có năm người con (hai trai ba gái), cũng được xem là con trai út. Nhà nghèo, cha mất sớm, mẹ chú phải tảo tần nuôi mấy chị em. Cậu bé thông minh lại hiếu học, nên người mẹ dù vất vả cũng cho con cắp sách đến trường. Không phụ lòng thân mẫu, cậu đỗ bằng Yếu lược năm mới 11 tuổi. Đây là sự kiện trọng đại, không chỉ đối với gia đình mà còn với cả làng xã thời ấy.

    Truyền thống nhiều đời tin sâu Tam Bảo, trong dòng họ có nhiều vị xuất gia, nên từ nhỏ cậu thường được theo mẹ đến chùa tụng kinh lạy Phật. Cậu đặc biệt kính trọng Hòa thượng (HT) Trí Thắng, người chú đã được phong chức Tăng Cang, đang tu tại chùa Khánh Vân - Bình Định, do Đại sư Chơn Quang trụ trì.

    Năm cậu 12 tuổi, anh Bốn của cậu (nay là HT Thích Đỗng Quán) xuất gia tại chùa Khánh Vân. Chủng tử Phật pháp sâu dày, cậu bé Quất từ lâu đã muốn vào ở chùa, thấy thân quen từ lọ tương đến cái chuông cái mõ. Bây giờ người anh thương yêu của cậu đã làm tiểu điệu, cậu càng mong được đi tu. Nhà sinh hai trai, lẽ ra phải ít nhất một người lập gia đình để có con nối dõi. Bất hiếu vi hữu tam, vô hậu vi đại, trong ba tội bất hiếu, không người nối dõi tông đường là tội nặng nhất. Nhưng bà mẹ là một Phật tử thuần thành, thấy con còn bé mà đã có ý chí xuất trần, nên hoan hỉ gửi đứa con trai còn lại vào nương nhờ cửa Phật. Thế là từ tuổi 13, cậu bé Quất trở thành chú tiểu, làm quen với muối dưa, tập sống đời thiểu dục tri túc, theo HT Trí Thắng học oai nghi tế hạnh. Cuộc đời chú gắn bó với thiền môn từ đó.

    Một năm sau, HT Trí Thắng về Phan Rang, trụ trì tại chùa Thiên Hưng. Chú tiểu 14 tuổi cũng quảy gói theo Thầy, sớm tối không rời, chuyên cần công phu bái sám. HT biết chú là pháp khí nên đặc biệt giáo dưỡng chú chu đáo, có phần nghiêm khắc, cốt đào luyện chú sớm nên người. Ngọc bất trác bất thành khí, viên ngọc quý phải nhờ tay người thợ tài hoa gọt dũa mới thành món trang sức hiếm có. Chú tiểu như tờ giấy trắng, được bàn tay họa sư Trí Thắng vẽ những nét đầu tiên điêu luyện, khởi đầu cho sự nghiệp vẻ vang sau nầy.

    Năm 16 tuổi, chú thọ Sa-di tại Đại giới đàn Long Khánh. Một cơ duyên lạ đến với chú: Đệ tử lớn của HT Trí Thắng là thầy Huyền Tân từ Huế về trụ trì Sắc tứ Thiền Lâm tự Phan Rang. HT đưa chú Sa-di mới thọ giới đến đảnh lễ thầy Huyền Tân, xin làm đệ tử. Từ hôm ấy, chú gắn bó cùng Sư phụ Huyền Tân nơi Tổ đình Thiền Lâm, và tôn HT Trí Thắng làm Sư ông.

     

    II- THỌ ĐẠI GIỚI.

    Bản tính chăm chỉ cẩn thận, luôn chu toàn mọi việc được phân công, thêm cần cù chịu khó tu học, chú Sa-di trẻ được Sư phụ Huyền Tân thương mến. Mới 19 tuổi, chú được Sư phụ trình lên Hội đồng Thập sư Đại giới đàn chùa Thiên Đức, xin thêm 1 tuổi cho đủ tuổi thọ giới Cụ túc. HT Đàn đầu là Ngài Huệ Chiếu, tân Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh đầy đủ giới thể, giới tướng trang nghiêm, nhận lãnh trách nhiệm tác Như-Lai sứ hành Như-Lai sự. Thầy chính thức nối dòng Lâm-Tế Chúc-Thánh, đời thứ 42, một dòng Thiền do Thiền sư Minh Hải khai sáng, nối tiếp truyền thừa đã 400 năm với sự nghiệp rạng rỡ, trong đó viên ngọc sáng nhất là HT Thích Quảng Đức cùng trái tim bất diệt.

    Từ đó, thầy Đỗng là cánh tay đắc lực của Sư phụ Huyền Tân, lần lượt được Sư phụ giao nhiệm vụ Thị giả rồi Thủ khố, Thủ tọa. Trong thôn Đắc Nhơn, mọi người đều tôn xưng Thầy là “Anh Thủ”. Danh xưng nầy theo Thầy mãi về sau; khi Thầy làm Thủ chúng ở Tỉnh hội Phật giáo Phan Rang, Nha Trang và Phật học viện Trung phần, chỉ thay bằng “Thầy Thủ” hay “Ông Thủ”.

    Thời gian mười năm chịu ơn giáo dưỡng của Bổn sư tại Tổ đình Thiền Lâm (1947-1957), Thầy đã trang bị đầy đủ tư lương cho bước đường hành đạo về sau, theo tinh thần “Tu Bồ-tát đạo hành Bồ-tát hạnh”. Ngoài hai thời khóa tụng và bộ kinh Tam Bảo, Thầy còn học thêm các kinh Địa Tạng, Thủy Sám, Tứ Thập Nhị Chương, Lăng Nghiêm trực chỉ… toàn bằng chữ Hán. Tùng học tại Tăng Học Đường Nam phần Trung Việt (Nha Trang) trong 4 năm, Thầy lại được Ban Giám đốc Học đường (bấy giờ là HT Trí Thắng và HT Huyền Tân) cử vào Sài Gòn học các ngành nghề: Điều dưỡng, lái xe, tốc ký, bào chế dược phẩm và chế biến hóa chất. Một lần nữa chứng tỏ trí thông minh hơn người, Thầy tốt nghiệp cả 6 bằng với điểm số rất cao, đặc biệt đậu thủ khoa ở hai ngành dược phẩm và hóa chất. Sau đó Thầy ra Huế tham học với các Ngài Đôn Hậu, Thiện Siêu, Trí Quang để hoàn tất chương trình Đại học Phật giáo. Như thế là, mười năm miệt mài đèn sách, vừa học tập vừa tu hành, vừa nghiên tầm Phật học vừa rèn luyện nghề nghiệp thế gian, chồi non xanh mượt ngày nào đã trở thành một cây cao tươi tốt, hứa hẹn sẽ tặng cho đời những bông hoa thơm ngát và những quả chín ngọt ngào. Cây được vun trồng tưới tẩm tại Tổ đình Thiền Lâm của Tông môn, nhưng hương thơm của hoa và vị ngọt của quả xin bình đẳng dâng hiến cho bốn phương tám hướng!

    Năm 1957, bằng số vốn Phật học và thế học tương đối hoàn chỉnh, Thầy trở về chùa Long Sơn - Nha Trang, bắt đầu công cuộc hành đạo dưới nhiều hình thức: Vừa là nhà kinh tế tài hoa của Phật giáo, vừa là nhà mô phạm mẫu mực của các Tăng Ni sinh, là trụ cột đắc lực của Tỉnh hội Khánh Hòa, lại là dịch giả các kinh, luật Hán tạng. Ở lĩnh vực nào, với tài trí xuất cách, với đạo hạnh tỏa sáng, với nhiệt tình và ý chí kiên định, Thầy đều là đầu tàu gương mẫu. Lúc nầy, thầy Đỗng vừa tròn 30 tuổi.

     

    III- KINH TẾ TỰ TÚC.

    Phật giáo phát xuất từ hiện thực sinh động của vũ trụ vạn loại, và trở lại phục vụ cho cuộc sống sinh động ấy. Bằng tinh thần nhập thế của Phật giáo Bắc truyền, tinh thần “Một ngày không làm một ngày không ăn” của Tổ sư Thiền tông Bá Trượng, việc làm kinh tế tự túc cũng được xem như một pháp môn hành trì. Mặt khác, trong công cuộc đào tạo tăng tài - từ thuở nhỏ còn là tân Tỳ kheo đến lúc trưởng thành trên đường đạo, chưa kể đến tâm sức trí lực của chư tôn đức, chỉ nói về tài lực, cũng đã là vấn đề nan giải. Muốn thực hiện tốt công tác trọng đại nầy, không thể chỉ nhờ sự hỷ cúng của đàn-na tín thí vốn không đều đặn và kịp thời, mà cần có nguồn kinh phí tương đối dồi dào và ổn định. Nhận thức rõ điều nầy, chư vị Tôn túc trong Giáo hội đã cùng họp bàn, cân nhắc và cuối cùng mạnh dạn vạch ra một hướng đi mới: Xây dựng một mô hình kinh tế tự túc chủ động, quy mô và bền vững. Thật ra, mô hình nầy đã được thực hiện khá thành công ở Nhật Bản, Hàn Quốc vào những thập niên cuối của thế kỷ 20; nhưng trong giai đoạn giữa thế kỷ ấy tại Việt Nam, có ý tưởng táo bạo như thế, quả không phải là chuyện thường.

    Năm 1957, một cơ sở sản xuất nước tương (xì-dầu) ra đời tại Nha Trang, mang tên “Hãng Vị Trai Lá Bồ Đề”. Giám đốc hãng kiêm Trưởng ban Bào chế là “Thầy Thủ” Thích Đỗng Minh. Với tài trí và nhiệt tình của tuổi trẻ, lại hết mực thanh cao, Thầy Thủ đã điều khiển guồng máy kinh tế cho Giáo hội thành công ngoài mong đợi. Chỉ trong ba năm, cơ sở đã lập thêm hai chi nhánh ở chùa Giác Sanh (Sài Gòn) và Từ Đàm (Huế). Trong thời gian này, hãng xì-dầu Con Mèo của một người Hoa cũng rất nổi tiếng. Chủ hãng nhận ra đối thủ cạnh tranh đáng gờm của mình, đến tận nơi thương lượng cùng quý Thầy, đề nghị mua lại cơ sở với giá thật hậu hĩnh. Nhiều vị tán đồng vì thấy lợi ích trước mắt là quá lớn, chỉ riêng Thầy cùng HT Thiện Minh không chấp thuận, vì tiên đoán rằng tương lai tốt đẹp của cơ sở mình. Thời gian sau cho thấy quyết định của hai Thầy là đúng đắn.

    Ngoài sản xuất nước tương, Thầy Thủ còn chỉ đạo việc chế biến xà-phòng, thuốc tẩy, làm nhang và đèn cầy. Vừa làm vừa học vừa dạy nghề cho Tăng ni sinh, nhiều lần thất bại trong thí nghiệm được xem là tiền đề cho những thành công rực rỡ về sau, từng bước Thầy đã làm cho thương hiệu “Lá Bồ Đề” có chỗ đứng vững chắc trong thị trường. Cơ sở đã ký nhiều hợp đồng với cơ quan nhà nước, cung cấp hàng vạn tấn xà-phòng, nước chấm, đậu khuôn…, sản xuất meo nấm và nấm rơm, rượu 900 dùng trong công nghiệp. Tiếng lành đồn xa, nhiều phái đoàn đã đến tham quan hoặc tìm đối tác, trong đó có Ngài Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Lào và phái đoàn hóa chất Hà Nội - Hải Phòng. Tiến sĩ Hoán, trưởng đoàn hóa chất, ngạc nhiên về kiến thức khoa học sâu rộng của vị tu sĩ bề ngoài có vẻ chân chất giản dị. Ông muốn thử tài Thầy nên đề nghị Thầy chế biến cát lồi tại chỗ. Không có ý khoe tài, nhưng lúc cần cũng phải cho người biết khả năng, Thầy thực hiện thao tác một cách thành thạo trước các nhà khoa học trong đoàn, và cuộc thử nghiệm được hoàn thành tốt đẹp. Tiến sĩ Hoán vô cùng kính phục, gợi ý cùng Thầy nên đưa cơ sở sản xuất lên Đại xí nghiệp, và hứa sẽ làm cố vấn khoa học cho cơ sở tương lai. Rất tiếc là nhân duyên chưa hội đủ, Tiến sĩ từ trần sau đó vài năm và hãng Vị trai cũng giải thể, sau 20 năm hoạt động (1957-1977).

    Trong thời kỳ kinh tế tự túc, nhờ HT Trí Thủ và HT Thiện Hòa tin tưởng cho phép, Thầy được quyền sử dụng nguồn tài chánh để làm nhiều việc lớn cho các Phật học viện (PHV). Hoạt động kinh tế là hoạt động tích lũy để làm giàu, nhưng riêng Thầy, bằng chánh mạng, chánh nghiệp, đã tích lũy tài sản một cách lương thiện và sử dụng tài sản ấy cho tập thể Tăng già, chứ không một mảy may tơ hào cho cá nhân. Trong tay có rất nhiều của cải tự do thu xuất, thế mà trong ngần ấy năm, Thầy luôn giữ đúng phẩm chất đạo đức của một người tu chân chính. Cuộc sống của Thầy lúc nào cũng đơn giản trong phong cách, đạm bạc trong ăn uống, cần kiệm trong y phục. Đơn giản cần kiệm đến độ trong phòng riêng không có vật gì đáng giá, dùng một đôi dép trong suốt hơn 30 năm trường!

    Một lần nọ, đại diện một hãng mì ăn liền của người Hoa đến liên hệ với Thầy, xin dùng nhãn hiệu “Lá Bồ Đề” và trả tiền bản quyền. Thầy đã trả lời với vị Giám đốc hãng: “Chắc ông cũng là con nhà Phật. Ông đem gieo rắc Bồ-đề là tốt rồi, vậy tôi không lấy tiền gì hết”. Thầy chấp nhận cho sử dụng bản quyền, và thương hiệu “Mì ăn liền Lá Bồ Đề” đã một thời rất nổi tiếng. Các vị làm kinh tế đều biết, một thương hiệu có uy tín được chủ nhân của nó bảo vệ như thế nào. Vậy mà, đối với người không quen biết lại khác quốc tịch, nhưng vì là Phật tử, nên Thầy sẵn sàng biếu không một nhãn hiệu đã cầu chứng, chỉ với mục đích duy nhất là để “gieo rắc Bồ-đề”!

    Một vị Thượng tọa đã viết về Thầy: “Có ý tưởng thông thoáng về kinh tế tự túc trong thiền môn đã là chuyện khó, thực hiện ý tưởng ấy càng khó, và thành công trong việc thực hiện càng là việc khó muôn phần. Vậy mà Thầy đã thực hiện thành công, lại thành công rực rỡ. Một nhân tài kinh tế của Phật giáo như Thầy quả là ít có”. Nhân tài kinh tế như thế đã ít có, sử dụng tài ấy để phục vụ lợi ích chung, còn cuộc sống riêng mình thì luôn giản đơn đạm bạc, sự thanh cao trong sáng ấy chẳng phải tầm thường!

     

    IV- SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.

    Theo phương châm “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, suốt đời Thầy xem việc giáo dục và đào tạo Tăng tài là bổn phận chính. Dù có lúc do hoàn cảnh, tạm thời phải bôn ba nhiều nơi học hỏi và làm các nghề thế gian, nhưng bản thân Thầy luôn là nhà giáo dục. Ngay khi nhận trách nhiệm quản lý các cơ sở sản xuất, Thầy vẫn đồng thời dạy dỗ Tăng Ni sinh; và những lợi tức trong kinh tế cũng chỉ dành trang trải phí tổn cho việc giáo dục đào tạo.

    Năm 1957, Tăng học đường Nha Trang và Phật học đường Báo Quốc Huế sáp nhập thành PHV Trung Phần (còn gọi là PHV Hải Đức Nha Trang). Đại Đức 30 tuổi Thích Đỗng Minh được công cử giữ trách nhiệm Giáo thọ chính thức, bắt đầu sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp. Một kỷ niệm trong đời dạy học, Thầy không quên và chắc nhiều người chứng kiến vẫn còn nhớ mãi: Đó là lần thuyết giảng của Thầy tại làng An Truyền huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Phái đoàn được cung nghinh từ bến đò Bến Ngự bởi hàng trăm đoàn sinh Gia đình Phật tử cùng các cư sĩ quỳ mọp hai bên đường. Sự tiếp đón trang trọng nầy làm vị Giáo thọ trẻ tuổi Đỗng Minh xúc động. Tự nhiên dòng nước mắt lăn dài trên má. Thầy vội lau nhanh, nhưng nhiều Phật tử đoàn sinh đã nhìn thấy. Ngay từ buổi đầu đã có sự đồng cảm giữa Thầy và trò, nhất là sau khi Thầy lên pháp tòa sau lời giới thiệu của HT Thiện Siêu, dùng ánh mắt từ hòa nhìn khắp lượt thính chúng. Buổi giảng hôm ấy thành công không ngờ, và ghi mãi dấu ấn khó phai cho người trong cuộc.

    Thật ra từ năm 18 tuổi, Thầy đã có nhiều dịp làm quen với công tác giảng dạy, vừa học tập kinh nghiệm của các vị tôn túc vừa tự mình thực hiện. Thỉnh thoảng, các Ngài Đôn Hậu, Trí Thủ từ Huế vào Phang Rang, đến Tổ đình Thiền Lâm thăm Ôn Huyền Tân. Thầy làm thị giả đứng hầu Bổn sư, nghe các Ngài giới thiệu nhau: Đây là Ngài Giảng sư, đây là Ngài Giám luật… Không hiểu sao Thầy lại thích danh xưng “Giám Luật”, như có túc duyên với Luật học từ bao đời. Từ đó, Thầy chú tâm nghiên cứu và giảng dạy về Luật học. Chủ trương dạy dỗ đồ chúng bằng khẩu giáo và cả thân giáo, Thầy rất nghiêm cẩn giữ gìn giới luật trong suốt cuộc đời.

    Một điểm đặc biệt của Thầy từ lúc trẻ, là nghiêm khắc với chính mình, nhưng từ bi độ lượng với người khác. Nhiều học tăng mới tiếp xúc với Thầy lần đầu, thấy Thầy có vẻ xa cách lạnh lùng, xưng với hỗn danh “Kỷ luật sắt”. Nhưng thật ra, đàng sau vẻ lạnh lùng ấy là cả một biển tình thương mênh mông ấm áp. Nhiều Tăng Ni sinh ở PHV Hải Đức và Ni viện Diệu Quang vẫn nhớ phẩm chất sư phạm của Thầy là tinh thần khôi hài, cách triển khai bài giảng rất linh hoạt, cách sử dụng từ ngữ thật giản dị có pha chút dí dỏm, khiến những bài Luật học khô khan trở thành dễ thuộc khó quên, những giờ lên lớp bó buộc trở nên hào hứng sinh động, đầy ắp tiếng cười sảng khoái. Hình ảnh Thầy cặm cụi bao tập, viết nhãn vở cho học trò - chỉ thấy những thầy giáo làng ngày xưa đối với lớp vỡ lòng, nay gặp lại nơi một vị tôn túc - thật là hình ảnh thân thương hiếm có. Thầy san sẻ cho mọi học trò của Thầy vị ngọt của giáo pháp và tình cảm Sư-Đệ thắm thiết, mà không cần sự đền đáp của bất cứ ai.

    Phật Đản năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm, ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo. Mùa pháp nạn bắt đầu. Đại đức Thích Đỗng Minh, với tư cách thành viên Ủy ban Bảo vệ Phật giáo tại Nha Trang, cùng Tăng Ni Phật tử tranh đấu chống chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật giáo đồ, theo phương châm bất bạo động. Ngọn đuốc thiêng Quảng Đức dẫn đầu ngọn lửa vị pháp thiêu thân, thắp sáng cả năm châu, đánh thức lương tri của toàn thế giới. Một triều đại tưởng chừng hùng mạnh bền lâu, đã bị sụp đổ vì không hợp lòng dân, không thuận lý đạo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời. Viện Hóa Đạo chỉ định Thầy làm Phó Trưởng miền Khuông Việt gồm các tỉnh Cao nguyên Trung phần, sau đó làm Trưởng miền, khi Thượng tọa Trưởng miền Thích Quang Phú từ chức. Một năm sau, Ngài Trí Quang đề bạt Thầy làm Vụ trưởng PHV, điều hành 22 PHV gồm 996 Tăng Ni sinh, một chức vụ quan trọng nhất trong đời tu của Thầy.

    Trong thời kỳ nầy, nội bộ Phật giáo có sự phân hóa. Một số Tăng Ni sinh có tâm hướng ngoại. Riêng Thầy vẫn giữ vững hoài bão giáo dục đào tạo Tăng tài. Bài thơ Thầy đăng trên báo Hoằng pháp có tính dí dỏm nhưng lại là lời thơ kêu gọi thống thiết:

    Viện quý Tú lo tu

    Viện cần Tú có tu

    Viện thương tu thiếu Tú

    Viện ngán Tú không tu.

    Chư tôn đức trong Giáo hội bấy giờ hết lòng ủng hộ chương trình chuyên khoa của PHV do Thầy khởi xướng. Ba lớp chuyên khoa đầu tiên ở Hải Đức (Nha Trang), Huệ Nghiêm (Sài Gòn) và Thập Tháp (Bình Định) ra đời. Thầy lần lượt giữ chức Giám học, Phó Viện trưởng Điều hành Viện Cao đẳng PHV Hải Đức, là một trong hai trợ lý đắc lực cho HT Giám viện Thích Trí Thủ. Dù công việc bận bịu đến mấy, Thầy không bao giờ xao lãng những giờ lên lớp, những thời công phu, những buổi quá đường. Thói quen đúng giờ từng phút một của Thầy là một trong những đức tính mà ai cũng nể phục nhưng không phải ai cũng làm theo được. Câu nói thời danh của Thầy: “Cảnh khổ là nấc thang của bậc anh tài, là kho tàng của người hiểu biết, là hố thẳm của kẻ ươn hèn” cũng là câu châm ngôn hướng dẫn Thầy và môn đệ vượt qua mọi biến động của hoàn cảnh. Đối với các học Tăng, Thầy vừa là thầy là cha, vừa là bạn là đồng sự, luôn có mặt luôn sát cánh trước những thuận nghịch của dòng đời và đổi thay của lòng người. Nhiều vị dù đã trưởng thành thỉnh thoảng gặp chuyện không vui, vẫn về ngồi dưới chân Thầy để được Thầy khuyên bảo sách tấn. Nhìn gương mặt tươi tắn, ánh mắt độ lượng, nụ cười vừa chúm chím vừa bí ẩn vừa đầy ý nghĩa, vị ấy thấy vơi đi bao ưu tư khúc mắc. Và khi lạy Thầy từ giã, vị ấy ra về với một sức mạnh mới, một niềm tin mới, để có thể gánh vác trọng trách tưởng chừng quá sức kham nhẫn của mình!

    Sau khi các cơ sở sản xuất ngừng hoạt động (1977), Thầy có thời gian toàn tâm toàn ý cho công tác giảng dạy và dịch thuật. Các Tự viện ở Nha Trang và một số nơi ở thành phố Hồ Chí Minh như Quảng Hương Già Lam, Vạn Hạnh… thường có bóng Thầy trong lớp học. Thầy cũng được tôn cử làm Tuyên Luật sư cho các Đại giới đàn Trí Thủ, Thiện Hòa, từ đó nhiều giới tử trở thành những cây xanh lá, tương lai của Giáo hội Phật giáo Việt Nam sau nầy.

    Năm Thầy 70 tuổi (1997), Giáo hội PGVN tấn phong Thầy lên Hòa Thượng và suy tôn vào Hội đồng Chứng minh Trung ương. Sau đó, Thầy lại được suy cử làm Chứng minh và Cố vấn cho Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

    Trải qua nhiều chức danh lớn trong Đạo pháp, trở thành Bậc cao Tăng thạc đức của Giáo hội, nhưng đối với Thầy, tất cả chỉ là hoa đốm giữa hư không. Người tu chân chính không màng danh lợi, biết thân tâm cảnh là duyên hợp tạm có, không bất biến, không thường hằng. Thầy làm mọi Phật sự với tinh thần vô ngã vị tha, chỉ với mục đích duy nhất: Giác ngộ và Giải thoát khỏi ba cõi trầm luân. Bài thơ khai bút Xuân Bính Tý (1997) Thầy viết khi đến tuổi “cổ lai hy” cho thấy ý chí của Thầy:

    Tuổi Đinh Mão năm nay bảy chục,

    Trải thời gian gạn đục lóng trong.

    Quyết tâm rửa sạch cõi lòng,

    Mới mau ra khỏi cái vòng tử sinh.

     

     

    V- SỰ NGHIỆP DỊCH THUẬT.

    Cuộc đời Thầy có duyên gắn bó với Luật học từ thuở theo hầu Bổn sư. Trong công phu tu hành, trong công tác giảng dạy và trong sự nghiệp dịch thuật, Thầy đều lấy Luật làm căn bản, như từng tâm niệm: “Thề sống chết với Luật học”.

    Bộ luật đầu tiên Thầy được tiếp xúc là bộ Trùng Trị của Trí Húc Đại Sư viết bằng chữ Hán, Thầy học với Ngài Đôn Hậu từ năm 1953. Sau đó, lại được nhiều lần học với Ngài Trí Thủ, nên lúc nào rỗi rảnh, Thầy lại giở ra xem. Đây là một trong những dịch phẩm Thầy tâm đắc nhất khi phiên dịch.

    Năm 1972, Thầy vào chùa Già Lam chủ trì an cư cho chúng phổ thông, để HT Trí Thủ về Nha Trang phụ trách chúng chuyên khoa. Suốt ba tháng tạm trú tại phòng của HT, có máy điều hòa xua hết cái nóng bức mùa hạ, Thầy ngồi nghiên cứu tạng Luật đều đặn 12 giờ mỗi ngày. Đọc đến đâu, Thầy thông suốt đến đó, không biết mỏi mệt mà thấy thích thú vô cùng. Khi được giải nhiệm chức vụ Trưởng phòng Bào chế của các Hợp tác xã Bồ Đề tại Nha Trang, Huế, thành phố HCM (1988), Thầy có nhiều thời giờ rảnh, càng chú tâm vào việc phiên dịch.

    Phương pháp làm việc của Thầy chia làm nhiều bước một cách khoa học: Trước tiên, Thầy đọc qua tác phẩm một lần để hiểu toàn bộ nội dung. Kế đến, Thầy đọc lại lần thứ hai thật kỹ, chữ nào không hiểu là Thầy tra cứu và ghi chép cẩn thận. Bước thứ ba Thầy bắt đầu dịch. Sau khi dịch xong tác phẩm, Thầy đọc lại bản dịch mà không nhìn vào nguyên tác, để sửa chữa và bổ sung về văn phạm, ngữ pháp. Tiếp theo, Thầy đối chiếu bản dịch với nguyên tác, xem trong lúc thêm bớt câu chữ, có đi lệch với nguyên văn chữ Hán không. Khi đã chép lại bản thảo sạch sẽ, Thầy lại nhờ huynh đệ dò lại từng câu, đối chiếu với bản chữ Hán để chắc chắn không có sự sai sót. Bản dịch hoàn chỉnh được đánh vi tính thành sáu bản, gửi đến sáu nơi nhờ lưu giữ.

    Khi Viện Nghiên cứu Phật học Thành phố Hồ Chí Minh thành lập, Thầy đã dịch xong 3 bộ: Bộ luật Tiểu 4 quyển (dịch thuộc lòng ra văn vần), Bộ Trùng Trị Tỳ Ni 18 quyển và Tỳ kheo Giới bổn Sớ nghĩa. Tất cả các bản dịch, Thầy dâng cúng cho Viện Nghiên cứu tùy nghi sử dụng. Năm 1991, Phân viện Nghiên cứu Hà Nội ra đời tại chùa Quán Sứ, Thầy được mời vào Ban Phiên dịch. Thầy đã tích cực làm việc, góp công lớn trong việc dịch thuật và xuất bản tập I Bộ luật Tứ phần (gồm 15 trong số 60 quyển).

    Những năm cuối đời, dù cơ thể mang nhiều bệnh tật, Thầy vẫn hăng say đóng góp tài trí của mình cho Giáo hội. Ngoài trách nhiệm Trưởng ban Phiên dịch Pháp tạng PGVN, Thầy còn làm Cố vấn chỉ đạo Ban phiên dịch Đại tạng kinh và Trưởng ban Bảo trợ Phiên dịch Pháp tạng. Ở cương vị nào, Thầy cũng chu toàn hết mực. Nhờ có Thầy với kinh nghiệm phong phú, với uy tín lớn lao đối với Tăng ni Phật tử trong và ngoài nước, Ban Phiên dịch đã hoạt động hiệu quả. Cụ thể là 17 tập trong Đại chính Tân tu Đại tạng Kinh đã được dịch và chứng nghĩa, chỉ trong vòng 3 năm.

    Sự nghiệp tu học và hành đạo của Thầy đồ sộ như thế, thật khó có người sánh kịp. Nhưng khi có ai ngỏ lời ca tụng, Thầy chỉ một nụ cười mỉm bảo rằng, đó chỉ là nhờ nhân duyên lớn được gần gũi học tập nhiều vị chân tu thạc đức, từ khi đồng chơn nhập đạo đến lúc trưởng thành. Thật vậy, từ năm 13 tuổi, Thầy đã vào chùa Khánh Vân của Đại sư Chơn Quang, được HT Trí Thắng và sau đó HT Huyền Tân giáo dưỡng. 19 tuổi, Thầy được Bổn sư cho thêm 1 tuổi để thọ giới Cụ túc, dưới sự chủ trì của HT Huệ Chiếu là vị Đại lão HT đạo cao đức trọng. Khi ra Huế, Thầy lại được học với các bậc thạch trụ tòng lâm chấn hưng Phật giáo Việt Nam như các Ngài Thiện Siêu, Trí Quang, Đôn Hậu. Lúc làm việc, Thầy thân cận với HT Trí Nghiêm, Minh Châu là những vị chân tu nổi tiếng của PGVN ngày nay. Như thế, được sự thân cận, giáo dưỡng, thương yêu của trên mười bậc cao tăng thạc đức, phước báo nầy của Thầy thật rộng lớn ít ai bằng. Có lẽ nhờ noi gương các Ngài nên cuộc đời Thầy cũng tỏa sáng giới đức, để đến lượt Thầy, trở thành một cây cao bóng cả của Giáo hội PGVN.

     

    VI- BỆNH TẬT VÀ VIÊN TỊCH.

    Năm 61 tuổi, Thầy tình cờ phát hiện mình bị cao huyết áp và đục thủy tinh thể (cườm mắt). Năm năm sau, Thầy mắc thêm bệnh Tiểu đường. Theo lời khuyên của bác sĩ điều trị, Thầy kiên trì dùng thuốc hàng ngày, cử kiên đúng cách. Thời gian làm việc giảm bớt, từ 8 giờ còn 4 giờ mỗi ngày.

    Khi Thầy dịch vừa xong bộ Ngũ phần luật thì bệnh Tiểu đường tạm ổn. Lượng đường huyết còn cao nhưng không ở mức độ nguy hiểm, thần sắc vẫn tươi nhuận. Thường ngày, ngoài giờ làm việc, Thầy thích ngồi trên xích đu, một tay cầm quạt phe phẩy, tay kia luôn có chuỗi hạt đen tuyền.

    Ngày 9/4/2005, sau khi vào Thành phố Hồ Chí Minh dự lễ húy kỵ Ôn Già-Lam, Thầy tự nhiên thấy trong người khó chịu, ăn uống kém hẳn. Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa khám và chẩn đoán “nghi K gan đa ổ/ Tiểu đường type 2 + Cao huyết áp” và chuyển Bệnh viện Chợ Rẫy. Tại đây sau khi xét nghiệm cần thiết, chẩn đoán K gan được xác định. Thầy biết được, điềm nhiên bảo rằng: “Mười lăm năm tôi bị bệnh Tiểu đường, chữa trị chừng ấy là vừa, mọi việc không cần thiết nữa”. Ý Thầy muốn nói, với Thầy thì 79 tuổi là đủ, không nên sống đến 80, tuổi ngang bằng Đức Phật.

    “Ung thư gan”, câu phán quyết của Bác sĩ như một lệnh tử hình! Cái chết được báo trước, không phải tính bằng năm mà bằng ngày bằng tháng. Sức khỏe Thầy suy sụp nhanh chóng, chỉ mới chín ngày nằm viện mà da đã vàng đậm, không tự đi được phải có người dìu. Mọi người đều bàng hoàng lo lắng, chỉ có Thầy vẫn bình tĩnh lạc quan. Nụ cười mỉm đặc biệt vẫn thoáng hiện khi có người đến thăm kể chuyện vui. Khi hơi khỏe lên chút ít, Thầy vẫn có những câu khuyên bảo khi nghe trò tâm sự. Trước khi về lại Nha Trang, Thầy còn đến Già-Lam xin gặp Ôn Trí Quang lần cuối. Hai vị tôn túc nói chuyện với nhau rất lâu. Đại sư biết rằng, lần chia tay này là vĩnh viễn!

    Trở về chùa Tỉnh hội Long Sơn (Nha Trang), nơi gắn bó cùng Tăng chúng trên 50 năm, Thầy được quý thầy và các Y Bác sĩ tận tình thuốc thang chăm sóc. Thầy biết bệnh tình không qua khỏi, nên sắp đặt mọi việc chu đáo, dặn dò nhắc nhở không sót môt ai, kể cả những đệ tử từ lâu ở xa không gặp. Về hậu sự, Thầy nhờ HT Thích Chí Tín, trụ trì chùa Long Sơn, viết theo lời ủy thác của Thầy: “Lễ tang đơn giản, thời gian trong vòng 36 tiếng đồng hồ. Không xây tháp, dùng tịnh tài này để ấn tống kinh sách”. Chữ ký của Thầy bên trái tờ di chúc, lập ngày 17/6/2005, ngoằn ngoèo run rẩy nhưng vẫn toát lên sự rắn rỏi của một ý chí vững vàng trước ngọn cuồng phong bên lề cửa tử. Đến phút cuối, Thầy vẫn chỉ một lòng nghĩ đến việc chung, mà không hề muốn thọ nhận điều gì cho riêng mình!

    10 giờ sáng ngày hôm ấy, Thầy tiếp thầy Thích Nguyên Giác, trụ trì Quảng Hương - Già Lam. Nằm trên chiếc võng quen thuộc, Thầy dặn dò nhiều điều và nhận tịnh tài cúng dường. Sau đó, Thầy nằm yên, chánh niệm tỉnh giác trong tiếng niệm hồng danh Đức Phật của Tăng Ni Phật tử.

    14 giờ 30, Thầy bảo đưa từ võng lên giường, nghiêng về bên phải theo tư thế kiết tường, tư thế nằm thường ngày của Thầy khi ngủ. Sau câu nói khẽ với thị giả: “Tôi không uống nước và uống thuốc nữa”, Thầy im lặng, không cử động, hơi thở đều đặn nhẹ nhàng nhập Kiết tường tam muội!

    Có thể nói, giờ phút xả báo thân là giờ phút được tôn vinh của một Bậc xuất trần Thượng sĩ. Giữ nguyên tư thế kiết tường, Thầy làm chủ thân tâm, tự tại trước bờ sinh tử. Cái đau thể xác do bệnh tật nghiệt ngã không làm ảnh hưởng định lực, Thầy nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, thể nhập Pháp thân thường trụ. Bấy giờ là 18 giờ 45 phút, ngày 17/6/2005 (11/5 Ất Dậu), trụ thế 79 năm, 60 hạ lạp.

    Sự ra đi của Thầy là một sự mất mát không gì bù đắp nổi. Đất nước mất đi một nhân tài, dân tộc Việt Nam mất đi một người con ưu tú. Phật giáo Việt Nam mất đi một thạch trụ vững chắc, Giáo hội mất đi một cánh tay đắc lực. Tăng Ni Phật tử mất một người Thầy - người Cha - người Anh hết lòng vì đàn hậu lai. Ban Phiên dịch Pháp tạng mất đầu tàu gương mẫu trong công tác dịch thuật đầy khó khăn trở ngại. Tông môn không còn nữa cội tùng già từ bao lâu tỏa mát nơi Tổ đình Thiền Lâm Tự. Tuy vậy, tấm gương công phu đạo hạnh của Thầy vẫn mãi chói sáng cho muôn đời sau noi theo. Thầy sinh ra từ vùng địa linh nhân kiệt, nơi vua Quang Trung dấy nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, viết nên trang sử vẻ vang hào hùng của đất nước. Thầy được giáo dưỡng tại Tổ đình Sắc tứ Thiền Lâm Tự Phan Rang, nơi nắng gió khô hanh, nơi ngọn lửa nóng bức, biến vàng trong quặng thành khối vàng ròng tinh khôi quý giá. Thắp sáng ngọn đuốc Thiền Lâm-Tế, Thầy về nhập chúng Long Sơn Nha Trang, nơi hội tụ nhiều bậc cao tăng thạc đức. Mối đạo tình keo sơn Trí Nghiêm - Chí Tín - Đỗng Minh - Thiện Bình trên đồi Trại Thủy kết dệt từ bao đời kiếp, chung vai chung sức trong sự nghiệp hoằng hóa lợi sanh, mãi mãi là một bản đạo ca làm rung động lòng người! Suốt cuộc đời, Thầy không mong cầu điều gì cho bản thân, mà chỉ lấy trọng trách đào tạo Tăng tài làm sự nghiệp lợi tha, lấy việc nghiêm trì giới luật làm công phu tự lợi. Không quản thành bại, không ngại khen chê, phấn đấu không mệt mỏi vượt qua mọi khó khăn bên ngoài và mọi trở ngại bên trong thân tâm, để đến lúc cuối, Thầy thanh thản ra đi trong tư thế kiết tường!

    Suốt 79 năm trên sân khấu cuộc đời, tuy Thầy đóng khá nhiều vai diễn, nhưng lúc nào cũng sáng ngời một hình ảnh của bậc chân tu. Theo đạo đức Khổng Mạnh, mẫu người quân tử là “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất”. Những đức tính ấy, nơi Thầy có đủ: Đối với tiền tài danh lợi, Thầy không ham muốn dù tự tay làm ra thật nhiều của cải; cả đời sống thiểu dục tri túc, thậm chí trước khi nhắm mắt còn dặn dò làm lễ tang đơn giản để dành tiền in kinh sách. Đối với nghèo hèn hoặc trước hoàn cảnh khó khăn, Thầy không động tâm, chỉ một đức hy sinh kham nhẫn. Đối với uy vũ, chỉ một nụ cười mỉm cũng đủ hóa giải mọi điều. Nhưng hơn thế nữa, là một người tu Phật thực hành công hạnh Sa-môn, Thầy luôn tinh tấn trong công phu, nhiệt tình trong các Phật sự và dốc hết sức mình trong công cuộc đào tạo đội ngũ kế thừa. Bàn thờ của Thầy chỉ đặt một chữ XẢ, như nhắc nhở Thầy buông xả mọi phân biệt chấp trước, buông xả mọi ham muốn trần gian và cuối cùng, buông xả báo thân một cách an nhiên tự tại. Cuộc đời Thầy thật vô cùng trong sáng đẹp đẽ như viên ngọc quý không tỳ vết; bản thân viên ngọc dù trải qua bao lần bị dũa mài đau đớn, vẫn hoan hỉ vì đã góp phần làm đẹp cho đời!

    Trong buổi lễ phúng điếu, nhiều người xúc động khi nghe bài điếu văn của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa:

    … Không thần thông phép lạ

    Chẳng mật ngữ linh phù

    Chỉ nhất tâm khổ hạnh công phu

    Bốn chúng thảy trang nghiêm khể thủ.

    Thân tứ đại ba y là đủ

    Ngày hai thời tịnh chỉ công phu.

    Tiền rừng bạc biển cho dù,

    Trên tay Thầy một chuỗi xâu Bồ-đề!

    Đại sư Trí Quang thường rất ít khen ai, cũng ít khi viết kệ phúng điếu, nhưng Ngài đã phá lệ tặng Thầy những lời trân trọng:

    Phụng cúng chúng trung tôn

    Thiện thuận giải thoát giới

    Bệnh tử bất khổ thân

    Thị thắng dị thục tướng.

    Khen cho vị Tăng khéo thuận giới giải thoát, bệnh chết không làm khổ thân, đó là tướng thù thắng của quả dị thục. Lời khen thật quý giá và nói lên đầy đủ công hạnh trong sự nghiệp giáo dục cùng những điều vượt thường của Thầy trong giờ phút lâm chung.

    Ngày tiễn đưa Kim Quan Thầy, cả một rừng người tham dự và bao nhiêu nước mắt tiếc thương. Mọi người đều khóc, chỉ riêng Thầy mỉm cười. Có phải người chân chính nào cũng đều thể hiện tinh thần “Khi sinh ra, ta khóc trong khi mọi người cười. Phải sống thế nào để khi mất đi, ta cười trong khi mọi người khóc”? Di thể Thầy được thanh nghiêm nhập tháp gần bảo tháp cố Đại lão HT Thích Trí Nghiêm. Lúc còn sinh tiền, hai vị tôn túc đã làm việc cùng nhau, sát vai nhau vượt qua bao khó khổ. Ngày nay, nhục thân hai vị lại cùng nằm bên nhau trong lòng đất đồi Trại Thủy - Nha Trang, như một sự nghỉ ngơi bình yên sau bao năm phụng sự chúng sanh báo đền ơn Phật.

    Thầy giờ thượng phẩm đăng lâm,

    Nụ an nhiên ấy trong ngần như như.

    (Đạo-Quang)

    Cố Hòa thượng Luật Sư Thích Đỗng Minh đã “thượng phẩm đăng lâm”, nhưng hình ảnh Thầy vẫn luôn sống mãi trong lòng tứ chúng, vẫn sáng ngời trong tâm tưởng của hàng môn đệ. Đặc biệt là những người con xuất thân từ Tổ đình Thiên Hưng và Tổ đình Thiền Lâm - Phan Rang, dù đang còn làm Phật sự tại quê hương hay như những cánh chim trưởng thành bay đi tám hướng, vẫn luôn nhớ ơn Thầy đã làm rạng danh Tông phái. Để thể hiện lòng thành kính tri ân ấy, chúng ta nguyện làm như Thầy đã làm, nói như Thầy đã nói, nghĩ như Thầy đã nghĩ; nguyện noi theo chí hướng của Thầy suốt đời rèn luyện thân tâm, hết lòng phụng sự cho dân tộc và đạo pháp, góp phần thanh tịnh quốc độ. Những di ngôn của Thầy sẽ luôn như những lời sách tấn, những viên diệu dược chữa trị tâm bệnh cho chúng ta trên bước đường hành đạo nhiều cạm bẫy chông gai. Và trước khi chia tay với Thầy, chúng ta hãy đọc lại trang Hồi ký có bài thơ Thầy viết lúc 8 giờ 30 ngày mùng một Tết Bính Tý (1997):

    Khai thần bút, minh niên Bính Tý,

    Từ Thị Ngài hoan hỷ càng thêm.

    Con nguyền suốt cả ngày đêm,

    Tinh tấn tịnh lự trang nghiêm đời mình.

     

    Sống tri túc an bình thiểu dục,

    Của người cho, đúng lúc mới tiêu.

    Việc cần không kể bao nhiêu,

    Lợi đời lợi đạo dẫu nhiều vẫn vui.

     

    Nay tự nhủ đôi điều nên nhớ,

    Đừng bội lòng, đừng chớ nói suông.

    Luôn luôn nghĩ đến vô thường,

    Mạng sống nào khác như sương đầu cành.

     

    Bệnh, lão, tử đến nhanh như chớp,

    Mới đây mà lớp lớp ra đi.

    Xoay qua xoay lại đã già,

    Nay đà bảy chục thật là quá mau!

     

    Vòng lẩn quẩn trước sau đều thế,

    Có chi đâu mà để nói năng?

    Chơn như Phật tánh vĩnh hằng,

    Qui nguyên là đích, tuệ đăng dẫn đầu.

     


     

    Thầy buông xả báo thân một cách an nhiên tự tại.

     

    THẦY LÀ NGỌN HẢI ĐĂNG

    (Tưởng niệm nhân ngày Đại Tường

    cố H.T Luật sư thượng Đỗng hạ Minh)

     

    Có phải chăng, một bậc chân tu theo Bồ tát hạnh với phương tiện Ngũ minh Tứ nhiếp, gặp việc nào cũng hòa đồng với mọi người nhưng đều xuất cách vượt thường?

    Gẫm lại cuộc đời cố Hòa thượng Luật sư, từ việc học tập, làm kinh tế đến việc đào tạo, dịch thuật…, lĩnh vực nào Thầy cũng đạt nhiều thành tựu lớn. 11 tuổi đỗ bằng Yếu lược, 19 tuổi được đặc cách thọ giới Cụ-túc, học các ngành thế gian đều chiếm vị trí cao trong các kỳ thi. Được Hòa thượng Bổn sư và chư tôn đức thương mến tin cậy giao nhiều trọng trách, Thầy đều thực hiện một cách xuất sắc. Bước vào ngành kinh tế, một phạm trù quá lạ lẫm đối với người xuất gia, Thầy như người lính tiên phong bước vào một trận địa vừa khó khăn bí hiểm vừa thiên biến vạn hóa. Bằng tài trí siêu xuất, Thầy đã biến thương trường thành sở trường, làm cũng như không làm mà mọi việc đều hanh thông, đều thành công rực rỡ.

    Tinh thần kinh tế tự túc, vừa theo truyền thống chư Tổ ngày xưa, vừa có tính khoa học hiện đại, đã hỗ trợ rất lớn cho công cuộc đào tạo Tăng tài và phát triển Giáo hội. Với tấm lòng vì đàn hậu bối, Thầy dốc hết tâm lực vào công tác xây dựng lực lượng kế thừa. Học trò Thầy không ít người thành danh, và đến lượt họ, đã làm Tam Bảo hưng long, góp phần xây dựng ngôi nhà Phật pháp. Bên cạnh đó, Thầy còn cố công phát hiện và đãi ngộ nhân tài. Khi Ban phiên dịch Pháp tạng thành lập, Thầy thiết tha kêu gọi những vị có khả năng và tâm huyết đóng góp trí lực, tài lực vào sự nghiệp chung. Thế là, trong một thời gian ngắn, Thầy đã quy tụ quanh mình một đội ngũ cộng tác viên đông đảo. Thầy vừa điều hành công việc, vừa bồi dưỡng nghiệp vụ cho các thành viên trong Ban và tự thân chứng nghĩa các bản dịch. Chỉ trong ba năm, Ban Phiên dịch đã cho ra đời nhiều dịch phẩm giá trị.

    Tuy thế, nếu chỉ có tài năng, người khác có thể kính phục nhưng khó gần. Riêng Thầy, ngoài tài năng còn có đức độ của một vị sứ giả Như Lai, luôn khơi dậy những người đồng sự đồng tu một niềm quý kính sâu xa khôn kể. Suốt đời Thầy, từ thuở đồng chơn nhập đạo đều lấy bốn chữ THIỂU DỤC TRI TÚC làm phương châm, không câu nệ hình thức, không chấp trước ngã nhân bỉ thử. Một vị tôn túc giữ nhiều chức vụ trong Giáo hội mà chỉ ở trong căn phòng với vài tiện nghi đơn giản; từng nắm trong tay bao nhiêu tiền bạc mà tài sản không bao giờ giữ riêng cho mình. Một người trong sáng thanh cao trước cám dỗ của tiền tài danh vọng như thế, thật chẳng phải là thường tình trong thiên hạ!

    Giác ngộ muôn pháp đều huyễn, nhận chân tính hư ảo của các pháp hữu vi, Thầy sống và làm việc bằng tâm không dính mắc. Đời Thầy gặp nhiều việc thuận chiều, nhưng cũng không ít điều trở ngại, nhưng Thầy đều vượt qua một cách bình ổn an nhiên. Ngay cả với những nguy khốn từ bên ngoài và bên trong thân tâm, Thầy vẫn chưa một lần thối tâm Bồ-đề, lại càng tỏ rõ cái Dũng của một Bậc Đại nhân, biết tiến thoái đúng thời cơ, tùy duyên làm Phật sự. Khi hoạt động kinh tế thì uyển chuyển vượt thắng những nghiệt ngã của thương trường, lúc cơ sở giải thể thì chuyên tâm giảng dạy Tăng Ni. Khi giữ trách nhiệm phát triển Giáo hội thì ngày đêm lo việc đào tạo Tăng tài, lúc về già lại phụ trách nghiên cứu và dịch thuật kinh luật. Khi khỏe mạnh thì toàn tâm toàn ý làm mọi công tác được giao, lúc bệnh hoạn già yếu vẫn nghiêm trì giới luật, làm chủ thân tâm trong mọi thời khắc.

    Dù ở cương vị nào, Thầy cũng luôn thể hiện tinh thần “vô ngôn nhi ngôn, vô hành nhi hành”. Sử dụng nhiều phương tiện tùy cơ, Thầy đã gieo hạt giống Giác ngộ cho biết bao người. Nụ cười mỉm thường trực của Thầy thân thương mà bí ẩn, từ ái khoan dung mà như soi thấu tâm người, nên vẻ mặt Thầy có lúc vui tươi khôi hài mà khiến người kính trọng, không biểu lộ uy đức mà từ trường lan tỏa chung quanh. Những lần Thầy đánh điệu không phải vì giận dữ mà chỉ vì từ bi muốn các con nên người, nên hành động tưởng như trừng phạt ấy vẫn là “cúng dường chư Phật”. Nhìn Thầy trong bộ y Nam tông và đôi dép cũ thật bình dị dễ gần mà cũng thật đáng tôn kính, hàng môn đệ của Thầy hiểu rằng, mình có phước duyên quá lớn được kết tình quyến thuộc với một bậc Tòng lâm thạch trụ như thế.

    Một điểm sáng ở Thầy khiến mọi người đều cảm kích: Thầy là người vô cùng trọng tình trọng nghĩa. Đối với Thầy Tổ, Thầy hết lòng quí kính vâng theo những lời chỉ dạy, được phân công việc gì cũng cố gắng chu toàn. Giữ nhiều trọng trách tại Tỉnh Giáo hội Khánh Hòa, bộn bề trăm mối mà Thầy vẫn không nguôi nhớ về tông môn và chiếc nôi Tổ đình Thiền Lâm Ninh Thuận. Mang bệnh nặng đến sức lực tàn kiệt, Thầy vẫn gắng sức về lại Già-Lam thăm vị Giáo thọ sư của mình lần cuối. Chúng ta, nếu có lúc nào đó, vì ngổn ngang nhiều mối trong sự nghiệp tu học mà quên nghĩa thầy trò, hay một chút hiểu lầm mà khởi niệm oán trách vô ơn, nhìn lại tấm gương hiếu nghĩa của Thầy, có thấy hổ thẹn nhiều không?

    Những môn đệ hầu cận Thầy có lẽ chưa hề nghe Thầy tự đề cao mình mà chê bai đồng sự. Nếu cần trao đổi, Thầy thường gặp mặt và bằng những lời lẽ chân thật, Thầy trình bày trên tinh thần kiến hòa đồng giải. Có lúc bất đồng ý kiến trong những Phật sự khó khăn, Thầy cũng hết sức tránh sự tranh luận gây mất đoàn kết nội bộ. Năm mươi năm sống trong mái ấm Long Sơn, cùng làm việc với các bậc tôn đức cao Tăng của Giáo hội Khánh Hòa, mối đạo tình của các vị vẫn luôn cao cả đẹp đẽ khiến mọi người ngưỡng mộ.

    Tình thương của Thầy dành cho học trò lại càng thắm thiết. Lúc nghiêm lúc hòa, khi dịu hiền như từ mẫu khi cứng rắn như nghiêm phụ, lúc vỗ về an ủi lúc đánh đòn răn đe... Tất cả đều là những phương tiện quyền xảo của một người Thầy hết lòng vì đàn hậu tấn. Thầy thương tất cả môn đệ bằng tình thương vô bờ bến, không phân biệt, không đòi hỏi sự đền đáp. Bất cứ môn học nào được phân công dạy dỗ, Thầy đều tận lực dạy đến nơi đến chốn với sự sáng tạo và tính sư phạm rất cao. Khi học trò đạt được một kết quả dù nhỏ trong việc tu học hay làm Phật sự, Thầy đều hoan hỉ sách tấn, chỉ bảo thêm kinh nghiệm trong trường đời và trường Đạo. Những ngày cuối đời, Thầy cũng không quên những môn đệ ở xa chưa kịp về thăm. Thầy như chim mẹ cần cù tha từng cọng rơm làm tổ, kiếm từng miếng mồi về mớm cho lũ chim con. Đàn chim con đủ lông cánh bay khắp bốn phương, có đứa chưa một lần trở về chốn cũ; nhưng tình mẹ không bao giờ vơi cạn, vừa miệt mài tiếp tục chăm chút cho từng đứa con thơ, vừa đau đáu ngóng vời từng cánh chim xa tổ. Cho nên, như một thói quen - hay như một truyền thống gia đình - gặp chuyện vui buồn vinh nhục trong cuộc sống trong đời tu, các con đều về bên Thầy chia sẻ. Và Thầy luôn sẵn sàng có mặt, luôn dang rộng vòng tay. Chỉ một nụ cười mỉm, một vài câu nói giản đơn, Thầy gánh đỡ hết cho các con mọi gánh nặng ưu phiền!

    Tình nghĩa của Thầy đối với Phật tử cũng như suối nguồn, chảy mãi không bao giờ cạn. Ai có duyên tiếp cận, làm việc với Thầy đều được Thầy từ bi chỉ dạy bằng thân và khẩu giáo. Một vài đạo hữu ngày xưa lui tới Tổ đình Thiền Lâm, khi Thầy còn là “chú Thủ”, đến giờ Thầy vẫn còn nhắc nhở, còn quan tâm đến hoàn cảnh của gia đình họ. Thầy không quên công lao đóng góp của những Phật tử đã từng cộng tác, giúp đỡ lúc Thầy gặp khó khăn. Đối với những tu sĩ vì nhiều lý do phải hoàn tục, Thầy dành cho họ sự thông cảm và thương mến ân cần.

    “Tài tùng chích ảnh nhậm triêu sương.”

    Bằng nét vẽ tài hoa, một vị tôn túc họa chân dung Thầy trong vai diễn trăm năm trồng người. Mặc cho sương sớm buốt lạnh, bóng hình Thầy đơn lẻ trồng trọt tưới tẩm cho từng nhánh tùng con. Hành giả độc hành bộc lộ trên vạn dặm thiên sơn, khi nhận ra diệu lý Phật thừa cũng vẫn phải một mình một bóng trên lộ trình hành Như-Lai sự. Bởi vì tu vô tu, hành vô hành, làm mà không dính mắc buộc ràng cùng tứ tướng, há chẳng phải là người “không cùng muôn pháp làm bạn” đó sao?

    Được trang bị vốn giáo lý uyên áo từ những bậc danh Tăng, được thân cận cùng quý Hòa thượng đạo cao đức trọng, Thầy đã trưởng thành trong đại dương Chánh pháp. Kết hợp ý chí kiên cường và sự tinh tấn liên tục, Thầy giữ chánh niệm tỉnh giác trong mọi oai nghi, mọi thời khắc, tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm. Định lực mạnh mẽ giúp Thầy bình ổn vượt thoát các chướng duyên. Có những lúc trở ngại dồn dập đến từ bên ngoài và bệnh tật bên trong, người thường khó chịu đựng nổi, nhưng với Thầy chỉ là hoa đốm giữa hư không. Cho đến những ngày cuối đời, Thầy vẫn làm chủ thân tâm, sắp đặt chu đáo mọi việc. Dường như căn bệnh trầm kha và cái chết được báo trước không làm xao động tâm Thầy, nên giữa tiếng niệm Phật trầm hùng của hàng tứ chúng, Thầy an nhiên xả bỏ báo thân trong tư thế tuyệt đẹp của Đức Thế Tôn khi nhập Niết-bàn!

    Dép cỏ lối về còn hiển hiện

    Hoa đàm tuy rụng vẫn còn hương.

    “Hương hoa đàm” bay ngược chiều gió tỏa khắp mười phương. Hoa tuy rụng nhưng vẫn lưu hương nồng nàn cho vạn đời sau thưởng thức. Thầy đi xa nhưng dấu chân Thầy còn hiển hiện, hình ảnh Thầy vẫn rạng rỡ trong lòng người. Chiếc thuyền của đàn con Thầy đang còn chơi vơi ngoài biển cả, sóng dập gió dồi giữa đêm trường tăm tối. Nhưng nhờ phước duyên nhiều đời, đàn con được nương ngọn hải đăng Thầy sáng rực, biết hướng tìm vào bến bờ an vui. Ngọn hải đăng luôn thắp sáng dù muôn pháp biến đổi vô thường, làm bừng lên ngọn lửa trong tâm mỗi người hữu duyên, trực nhận ánh bình minh hằng hữu của chính mình.

    Hai năm trôi qua như chỉ trong chớp mắt. Thầy vẫn tạm nghỉ ngơi sau vai diễn tám mươi năm, hay đang tiếp tục đứng trên sân khấu cuộc đời? Hài nhi mang thân vô tướng đang tạm trú nơi nào trong ngôi nhà thế gian? Duyên Thầy trò tạm gián đoạn, đến lúc nào nối lại để bốn mắt nhìn nhau nửa lạ nửa quen? Trần thế tuy nhiều khổ lụy, nhưng vẫn là mảnh đất tốt để cây Bồ-đề sớm đơm hoa kết trái. Đời người cũng không quá dài, nên sau một màn diễn ngắn, hành giả nghệ sĩ có thể nghỉ ngơi một đêm lấy sức; ngày mai lại lên sân khấu, cống hiến cho đời một màn đặc sắc khác, bằng khuôn mặt mới, bằng sức khỏe tinh khôi.

    Vậy thì, Thầy ơi, sẽ có một ngày nào đó không xa với bây giờ, lần gặp mặt đầu tiên giữa Thầy trò cũng là lần tái ngộ, khoảnh khắc mà thiên thu, một phút giây mà vĩnh viễn. Chúng con tin tưởng Thầy sẽ sớm hồi nhập Ta-bà, vì cõi trần chính là phước điền vô tận của các Bậc Bồ-tát, chúng sanh là nguồn năng lượng vĩ đại đưa các Ngài tiến nhanh lên quả vị Vô thượng giác.

    Xin hãy cùng nhau thắp sáng niềm tin, cho hy vọng hóa thành thực tại hiện tiền!...  

     

     

     

    TÌNH THẦY TRÒ

     

    Ngày xưa, chịu ảnh hưởng Nho giáo, người Việt Nam ta rất kính trọng thầy, tôn thầy lên địa vị thứ hai sau nhà vua, trên cả cha và mẹ, theo tinh thần Quân - Sư - Phụ. Ngày lễ tết, học trò thường đến nhà thầy chúc mừng, thể hiện tấm lòng biết ơn của mình đối với người đã giúp cho mình hành trang cần thiết để bước vào đời một cách tự tin và vững chãi.

    Không những học trò tôn kính thầy, các bậc phụ huynh cũng xem thầy là người ơn của gia đình dòng họ. Học trò thi đậu, lúc vinh quy bái tổ cũng đến tạ ơn thầy, vì nhờ thầy mà mình được hiển đạt như ngày nay. Ông Chu Văn An, một nhà giáo lẫy lừng về kiến thức, về đạo đức và về phong cách sống, đã được môn sinh vô cùng tôn trọng. Học trò cũ của ông đã làm quan lớn trong triều đình, khi phạm sai lầm vẫn bị ông gọi về nghiêm khắc dạy bảo; người học trò một mực cúi đầu nhận lỗi, không dám cãi lại một lời.

    Có câu chuyện kể về một người đã thành đạt, một hôm cùng đứa con trai về làng thăm thầy cũ. Đến một căn nhà tranh đơn sơ, hai cha con gặp một ông lão mắt đã lòa, chống gậy dò từng bước quanh sân. Người cha vội tiến đến cầm tay ông lão, thưa rằng:

    - Thưa thầy, thầy còn nhớ con không ?

    Ông lão bỡ ngỡ:

    - Xin lỗi ngài, ngài là ai ?

    Người cha ứa nước mắt, ôm chầm ông lão:

    - Thưa thầy, con chính là X, đứa học trò ngỗ nghịch của thầy. Ngày xưa, thầy nhiều lần phạt con về tội trốn học rong chơi, quậy phá làng xóm. Nhờ thầy nghiêm khắc dạy dỗ, nay con đã thành danh. Con không dám quên ơn thầy, nên tìm dịp về đây thăm viếng thầy.

    Nói xong, người cha quay lại bảo con trai:

    - Nếu không có thầy, cha không thể nào được như ngày nay. Công ơn thầy như trời biển, không những cha phải nhớ suốt đời, mà con cũng phải khắc ghi mãi mãi.

    Những câu chuyện cảm động như trên, chúng ta đọc thấy rất nhiều trong văn học Việt Nam và thế giới. Chỉ đáng buồn là trong thời đại bây giờ, tình thầy trò không còn sâu đậm thiêng liêng như thế nữa. Báo chí đã đăng tải nhiều trường hợp học trò đánh thầy cô giáo, thậm chí có nhiều phụ huynh bênh con cháu mình, đón đường hành hung thầy. Tại một lớp học bên Mỹ, một học sinh mới 12 tuổi đã dùng súng bắn thầy thiệt mạng, chỉ vì một nguyên nhân rất nhỏ: thầy đã phê bình em trước cả lớp, vì trong giờ thầy giảng bài, em lại đem truyện ra đọc!

    Hai mặt trái và phải của tình thầy trò, thật ra trong thời nào và ở đâu cũng có, tùy trình độ đạo đức của xã hội, sự giáo dục của gia đình và sự tự kỷ của bản thân. Việt Nam ta có Ngày Nhà Giáo 20/11, một ngày để các bậc phụ huynh và học sinh nhớ nghĩ đến công ơn thầy cô, để thể hiện lòng biết ơn ấy bằng nhiều hình thức. Tuy nhiên, không phải đợi đến ngày nầy ta mới nghĩ đến thầy, cũng không phải tượng trưng tình cảm thầy trò bằng vài món quà nhiều khi chỉ mang tính hình thức, mà sự biết ơn ấy phải được biểu hiện trong suốt cuộc đời, bằng tất cả tấm lòng chân thật của ta. Nếu cha mẹ có ơn sinh thành dưỡng dục, thì thầy cô có công dạy dỗ ta trở thành người có ích cho xã hội. Từ khi ta còn là đứa trẻ trong trắng như tờ giấy mới, chính thầy đã cầm tay ta, uốn nắn từng nét chữ đầu đời; chính thầy đã dạy cho ta những bài học vỡ lòng, giúp ta tiếp cận với tri thức thế gian. Dù sau này ta trở thành một nhà bác học, một thương gia giàu có, hay một chính trị gia lỗi lạc, ta cũng nên nhớ về người thầy đầu tiên với lòng kính trọng và biết ơn tha thiết. Có dịp gặp lại thầy ta vẫn là đứa học trò nhỏ ngày nào; và đồng thời phải dạy cho con cháu ta hiểu rằng, nếu không có những ông giáo già mộc mạc ở mái trường tiểu học đơn sơ cũ kỹ, ta đã không trở thành nhân vật có địa vị trong xã hội hôm nay.

    Đối với người Phật tử, bên cạnh tình thầy trò ngoài đời, chúng ta còn cảm nhận sâu sắc ân nghĩa của thầy dạy đạo. Cha mẹ và thầy giáo thế học có công nuôi dưỡng thân xác, đào luyện tâm hồn và nâng cao trình độ kiến thức cho ta; nhưng đó chỉ là thân ngũ uẩn sinh diệt nay còn mai mất, chỉ là kiến thức vay mượn khi đúng khi sai. Còn người chỉ cho ta phương pháp tu hành thoát khổ và vĩnh thoát sinh tử, nuôi lớn thân huệ mạng bất sinh bất diệt, chính là vị thầy đạo học. Công ơn ấy gẫm ra còn nặng gấp bao lần những ân tình ân nghĩa nói trên.

    Thông thường, chúng ta hay xem trọng ngày sinh, xem lễ sinh nhật là một trong những ngày lễ lớn của gia đình. Ít có ai nhớ kỹ ngày mình quy y Tam Bảo, thời điểm đầu tiên sinh ra thân huệ mạng của mình. Lẽ ra, ngày chúng ta trở về nương tựa ba ngôi báu Phật – Pháp – Tăng phải là ngày quan trọng nhất của một người Phật tử, vì đó là ngày chúng ta thật sự sinh ra một cách có ý nghĩa. Và cũng vì thế, vị Bổn sư truyền giới đại diện Tăng Bảo khai sinh cho ta, phải được tôn kính, biết ơn trong suốt cuộc đời.

    Có người thích quy y một vị tu sĩ đạo cao đức trọng, có danh tiếng, và lấy đó làm điều hãnh diện. Có người trước đã từng quy y, sau thấy thầy khác nổi tiếng hơn, lại tìm đến xin quy y lần nữa. Có người trong quá trình theo Bổn sư tu học, thấy thầy mình có biểu hiện nào đó làm mình không hài lòng, quay ra chê bai phỉ báng. Đây là hành vi không nên có đối với người Phật tử. Chúng ta quy y Tam Bảo vì không muốn làm kẻ cùng tử lang thang, nguyện từ nay trở về nương theo Phật, theo giáo pháp của Phật tu hành. Đức Phật đã nhập diệt, giáo pháp của Ngài được truyền trao qua trung gian những vị tu sĩ là những Trưởng tử Như Lai. Khi đối trước một vị thầy phát nguyện thọ tam quy ngũ giới, chúng ta không chỉ quy y với cá nhân vị ấy, mà là quy y với cả ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng. Cho nên, một mặt ta có quyền lựa chọn Bổn sư là người tài đức có thể hướng dẫn ta tu hành theo chánh pháp; nhưng mặt khác, ta không nên so sánh thầy mình với các thầy khác theo ý nghĩa hơn thua. Thật ra, duyên thầy trò không phải chỉ một vài đời mà được thiết lập. Phật dạy, người cùng đi chung một chuyến đò là đã có duyên với nhau 500 kiếp, huống gì duyên sư đệ, phải sâu đậm thế nào để thầy trò hạnh ngộ ở kiếp này.

    Vì sao chư Tăng ni được tôn xưng là Tăng Bảo, chỉ sau hai ngôi báu Phật và Pháp, trong khi các vị ấy cũng là những người bình thường với đầy đủ hai thuộc tính hướng thượng và hướng hạ của một con người ? – Bởi vì các vị là những nhân vật cụ thể mà ta có thể tiếp xúc được, học hỏi được; và thông qua các vị, ta tiếp cận với giáo lý nhà Phật, theo gương Đức Phật tu hành, một ngày nào đó nhận ra Phật tâm sẵn đủ. Các vị là những sứ giả trao truyền chánh pháp của Đức Phật, nên là đại diện cho cả ba ngôi báu. Bằng thân giáo và khẩu giáo, các vị có thể tác động trực tiếp vào tâm thức chúng ta, dắt dẫn chúng ta đi theo con đường sáng Đức Phật đã đi và đã đến đích.

    Hiểu theo sự tướng, Tăng-già (Sangha) là tập thể những vị tu sĩ xuất gia, sống trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp. Hiểu theo lý, tăng chúng gồm những vị đã thành tựu chánh tri kiến, tức có cái thấy biết như thật về tất cả pháp thế gian và xuất thế. Nói khác đi, Tăng-già được hình thành từ nội dung tâm chứng của từng cá thể trong đời sống tập thể. Hiểu sâu thêm một mức, Tăng-già chính là biểu tượng tôn quý nhất trong chiều sâu thẳm vô ngôn của bản thân chúng ta, nghĩa là tự tánh thanh tịnh vốn đủ của muôn loài. Cho nên, chúng ta quý kính Tăng Bảo không chỉ là tôn trọng một cá nhân nào đó trong tập thể Tăng-già, mà còn là nhớ lại và sống với bản tâm hằng hữu của chính mình. Đảnh lễ một vị tu sĩ với tất cả lòng thành, chúng ta đã đảnh lễ cả Tam Bảo và đảnh lễ chính ngay bản tâm hằng hữu ấy. Ngược lại, buông lời chê bai phỉ báng chư vị Tăng ni, chúng ta đã tự phỉ báng chính bản tâm mình, và vô tình đóng kín cánh cửa dẫn đến giác ngộ giải thoát.

    Đức Phật có bài kệ:

    Nói nhiều lời hư vọng

    Thêm huyễn hoặc cuồng si

    Học ít nhưng tâm đắc

    Mới là bậc hộ trì.

    Nhiều vị cư sĩ tại gia có trình độ kiến thức thế gian, có địa vị cao trong xã hội, lại nghiên cứu nhiều về Phật pháp và phát tâm hộ trì Tam Bảo. Đây là điều rất đáng quý, vì các vị ấy có đủ điều kiện hơn ai hết để hỗ trợ quý thầy trong công cuộc hoằng truyền chánh pháp. Tuy nhiên, càng đi chùa nhiều năm, càng làm nhiều Phật sự và càng là hộ pháp đắc lực, chúng ta càng nên cẩn trọng, luôn tự phản tỉnh và cảnh giác với tư tưởng công thần. Bởi vì, khi làm được nhiều việc lợi ích cho đạo, được mọi người kính nể, được quý thầy trân trọng, chúng ta đôi khi tự cho mình có phước duyên hơn người khác. Từ đó, ngã chấp ngày càng lớn, thấy mình hơn các bạn đồng tu, thậm chí tài giỏi hơn cả quý thầy. Từ ý nghĩ đưa đến lời nói cống cao ngã mạn, tạo khẩu nghiệp cuồng si huyễn hoặc như khoe mình chứng đắc, vô tình đường tu ngày càng đi xuống mà không hay. Đây là điều rất đáng tiếc. Cho nên, thà rằng học ít, biết mình kém cỏi, luôn khiêm cung gắng tu gắng học, gắng làm tất cả công việc được giao một cách chu toàn; những người ấy mới đúng là bậc hộ trì chánh pháp.

    Tăng sĩ được phân ra ba hạng: Thánh tăng, Hiền tăng và Phàm phu tăng. Chúng ta không thể dùng nhục nhãn và sự hiểu biết giới hạn của mình mà nhận định và phân biệt được hành trạng và nhân cách của các vị. Nhìn chung, trong thời mạt pháp này, các vị tu sĩ vẫn chỉ là những chúng sanh vẫn còn tập khí của phàm phu; chỉ khác ở chỗ các vị đang từng bước đẩy lùi phiền não ma chướng, từng bước đi trên lộ trình hướng đến lý tưởng Giác ngộ – Giải thoát mà các vị đã từng thệ nguyện lúc mới xuất gia. Chúng ta không nên đòi hỏi thầy mình phải hoàn hảo như Hiền như Thánh, vì liệu chúng ta có đủ phước duyên làm đệ tử của các bậc Hiền Thánh Tăng chăng? Chúng ta cũng không nên nhìn vào một số biểu hiện tập khí nơi thầy mà đánh giá phê bình, vì quá trình tu tập của thầy vẫn còn đang tiếp diễn; miễn thầy dạy ta đúng chánh pháp, ta theo lời dạy ấy tu hành được nhiều kết quả tốt. Thầy trò cùng tu, cùng sống trong đạo tình đạo vị dưới hào quang của chư Phật Bồ-tát, có phải hay hơn là cứ mãi soi mói lỗi lầm của người mà quên mất những khuyết điểm của chính mình. Phật đã dạy: “Trạng thái xấu xa mà ta nhìn thấy nơi người khác chỉ phản ảnh bản chất của chính ta”. Nếu tâm ta thanh tịnh trong sáng, vạn pháp dưới mắt ta đều toát ra vẻ an bình, mọi người chung quanh ta đều tốt đẹp dễ thương. Nếu tâm ta nhiều phiền não cấu uế, ta sẽ thấy trên đời nầy không có gì đẹp cả, không một ai tốt cả - ngoài ta. Mặt khác, người cư sĩ tại gia dù giữ giới nghiêm cẩn bao nhiêu, dù kiến thức bác lãm cỡ nào, dù tinh tấn công phu đến mấy, cũng không thể có môi trường sống thanh tịnh như trong các tự viện, không thể cởi bỏ những ràng buộc lo toan cho sinh kế, không thể vượt thoát những hệ lụy tình cảm gia đình quyến thuộc; và nhất là không thể giữ hạnh tu như người xuất gia. Vì thế, bằng thái độ hiểu biết, khiêm cung và quí kính chư Tăng ni, bằng sự phản tỉnh thường xuyên để nhận diện và chuyển hóa những ý niệm lệch lạc xấu ác, chúng ta sẽ có một sức mạnh tự nội để giải thoát khỏi những định kiến phân biệt hẹp hòi, ngã chấp dần dần giảm thiểu, và chúng ta có thể sống hòa hợp thanh tịnh trong bất cứ tập thể nào.

    Thiền sư Ajahn Chah, Cố Viện chủ Thiền viện Wat Pah Pong Thái Lan và một số Thiền viện khác ở Âu Mỹ, có lối dạy môn sinh rất kỳ đặc. Nhất là đối với những đệ tử xuất cách, Ngài thường chê bai thậm tệ trước mặt mọi người. Một lần, trước đông đảo Phật tử Tây phương và bản xứ, Ngài phê bình Đại đức Thitappo – đệ tử thân cận của Ngài - là “Người đần độn nhất”. Vài hôm sau, Ngài hỏi Đại đức:

    - Hôm trước tôi nói vậy, ông có giận tôi không?

    Đại đức cung kính đáp:

    - Làm sao con có thể giận Ngài ? Giận Ngài thì có khác chi nổi giận với một ngọn núi ?(*)

    Đây là một bài học lớn dành cho người xuất gia trong quan hệ giữa thầy và trò. Nếu người cư sĩ chỉ mang ơn dạy bảo của thầy, thì những tu sĩ còn mang thêm trọng ân nuôi nấng. Công ơn giáo dưỡng của Bổn sư - vừa dưỡng dục thân ngũ uẩn sinh diệt, vừa nuôi lớn thân huệ mạng cho ta, quả là nghĩa ân cao trọng khó đền. Chúng ta khi bái sư làm lễ thí phát là đã trao trọn đời mình cho Bổn sư, một lòng hiếu kính quy thuận Người, nguyện luôn tinh tấn tu hành theo lời Người chỉ dạy; khi có kết quả lại nối nghiệp Bổn sư mà tiếp tục truyền trao cho người kế tiếp, để mạng mạch Phật pháp mãi mãi trường tồn.

    Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền sư xuất cách. Nhưng dù thầy nghiêm khắc quở phạt bao nhiêu, các đệ tử cũng vẫn một lòng thờ kính thầy, không dám khởi niệm oán trách. Nhờ vậy, các vị ngộ đạo nhanh chóng, và lúc ấy càng thấy công ơn thầy quả bao la như trời biển. Môn sinh của Thiền sư Lâm Tế thường bị thầy cho ăn gậy và nghe hét điếc tai, thế mà hội chúng luôn đông đảo, tinh cần tu học, nên trãi qua hơn 40 đời, dòng Thiền Lâm tế vẫn còn tươi nhuận luân lưu cho đến bây giờ. Quý thầy ngày nay do khế thời khế cơ, không thể giáo dục đồ chúng bằng những phương tiện kỳ đặc như thế; nhưng nhiều khi muốn đệ tử mau tiến bộ nên cũng phải la rầy quở phạt, có lúc phải trấn áp bằng khẩu lệnh. Nếu người đệ tử khiêm cung quy thuận, sẽ mau tăng tiến trên đường đạo vì đã biết dẹp bỏ ngã chấp. Ngược lại, nếu người đệ tử còn thấy tự ái bị tổn thương, còn khởi niệm trách hờn bội bạc, ấy là đã gieo nhơn xấu. Chưa nói đến những người, vì giận thầy không thoả mãn một điều ước muốn của mình nên rời chùa bỏ chúng đi nơi khác, lại còn đặt chuyện bôi nhọ chống đối thầy. Người đệ tử ấy, dù ôm ấp điều ước muốn hợp lý, cũng vì tạo nghiệp bất thiện mà đóng bít cánh cửa giải thoát. Trọng thầy mới được làm thầy; chúng ta muốn làm thầy nhưng đối với Bổn sư không trọn tình trọn nghĩa, làm sao ta có thể nhận được quả tốt về sau?

    Khoa học ngày nay tiến bộ vượt bậc, con người cần có kiến thức và tri thức để hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Người xuất gia cũng cần có số vốn thế học và đạo học khả dĩ mới có thể hướng dẫn Phật tử - vốn có nhiều người trí thức - tu hành theo chánh pháp, mới có thể thăng tòa thuyết giảng. Chúng ta cần phân biệt hai hạng người: Học giả và hành giả. Học giả là người có sự nghiên cứu sưu tầm công phu trên sách vở, có kiến thức uyên bác về một lĩnh vực thuộc phạm vi chuyên môn của mình. Nhà Phật gọi kiến thức ấy là Trí hữu sư, trí tuệ nhờ thầy mà có, vay mượn góp nhặt từ bên ngoài. Nó có tính chất sinh diệt và hạn cuộc, vì có thể đúng trong thời điểm này, ở địa phương này, nhưng lại sai trong thời điểm khác, địa phương khác, nên gọi là Chân lý tương đối. Người tu Phật có thể không phải là học giả nhưng luôn luôn phải là Hành giả - người thực hành công phu tu tập. Khi vị ấy công phu đắc lực theo tiến trình Tam vô lậu học sẽ phát sinh trí tuệ - Ấy là Trí vô sư, trí tuệ không nhờ thầy mà nhờ tự thân dụng công, nhờ giữ Giới mà có Định, nhờ Định mà phát Tuệ. Chính Trí Vô Sư mới là sự nghiệp cao cả và đích thực của đời tu, vì nhờ đó ta mới nhận rõ chân lý tuyệt đối, mới có cái nhìn thấu thể về bản chất thật sự của muôn pháp. Điều này giải thích tại sao Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền trao y bát cho cư sĩ Huệ Năng, một người không biết chữ nhưng ngộ đạo làm Lục Tổ; mà không truyền cho Thượng toạ Thần Tú, một bậc có kiến thức thế học và đạo học cao siêu, Giáo thọ sư của 500 đồ chúng. Hiểu rõ sự quan trọng và thiết yếu của sự thực hành công phu, chúng ta nên thầm hội ý Bổn sư nếu Người không cho phép ta theo đuổi việc học bên ngoài. Các vị Thầy thường xét khả năng và căn tánh của môn đồ để hướng dẫn việc tu học và hướng đi đúng đắn cho từng người, nhưng không ai không muốn cho học trò mình đạt nhiều kết quả tốt. Không hiểu thâm ý thầy, tình thương của thầy, lại đâm ra giận trách, vô ơn; tội lỗi như thế thì bao nhiêu học vị, bao nhiêu bằng cấp có thể nào hoá giải được chăng?

    Ngày Vu Lan được xem như một lễ hội văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì nhắc nhở tinh thần báo hiếu báo ân, những tình nghĩa không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Trong đó, có những ân nghĩa của những người thầy dạy ta từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, từ những kiến thức thế gian đến lộ trình tu tập xuất thế gian. Có thể nói, tuy mỗi người chúng ta chỉ có cha và mẹ, nhưng thực ra ta có đến 4 vị thầy: Một là những bậc sinh thành, hai là những người nuôi dưỡng ta khôn lớn, ba là những vị thầy dạy ta từ việc đời đến việc đạo, và bốn là tất cả những người đã từng tiếp xúc với ta, hơn một lần vô tình hay hữu ý đã dạy ta cách đối nhân xử thế. Làm người có đạo đức, chúng ta không thể quên ơn của bốn vị thầy ấy; và bằng mọi cách trong khả năng của mình, phải báo đền ân nghĩa của các Người, dù chỉ trong muôn một.

          http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/Thaylangonhaidang.htm

    

 


Âm lịch

Ảnh đẹp