Sau đó Thế Tôn an trú Sơ
thiền. Trong khi trú Sơ thiền thì các tưởng đi đôi với
dục vẫn có mặt, bấy giờ các tưởng này trở thành
bệnh hoạn, nó cũng gây ra đau khổ.
Thế Tôn liền ngưng tầm và tứ,
và chứng Nhị thiền; nhưng Thế Tôn lại không thấy hứng
khởi và giải thoát. Sau đó, Thế Tôn suy nghĩ đến cùng
về sự nguy hiểm của tầm và tứ thì Thế Tôn liền thấy
hứng khởi, giải thoát, biết "Đây là an tịnh". Nhưng
khi trú Nhị thiền thì các tưởng cùng đi với tầm, tứ
vẫn có mặt, bấy giờ chính các tưởng này là bệnh.
Thế Tôn liền rời khỏi hỷ và
chứng đắc Tam thiền. Thoạt đầu Thế Tôn không cảm
thấy hứng khởi và giải thoát của Tam thiền, Ngài liền
suy tư đến cùng sự nguy hiểm của hỷ thì Thế Tôn liền
cảm thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát, biết rằng
"Đây là an tịnh". Sau một thời gian trú Tam thiền,
các tưởng đi đôi với hỷ vẫn xuất hiện, bấy giờ chính
các tưởng này là bệnh.
Thế Tôn liền từ bỏ hỷ, từ
bỏ lạc và chứng đắc Thiền thứ tư. Buổi đầu trú ở
Thiền này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, an trú,
giải thoát. Sau đó, Thế Tôn tư duy đến sung mãn về sự
nguy hiểm của lạc thì Ngài cảm thấy hứng khởi, an tịnh
và giải thoát của xả niệm trú (Tứ thiền), biết rằng
"Đây là an tịnh". Trong khi an trú Tứ thiền, xả
lạc, xả khổ, thì các tưởng đi đôi với xả lạc vẫn
hiện hành, bấy giờ đối với Ngài, các tưởng này là
bệnh.
Rồi Thế Tôn đi ra khỏi các
sắc tưởng, chấm dứt hoàn toàn các sắc tưởng, không tác
ý đến các tưởng sai biệt. Bấy giờ Thế Tôn chứng đắc
"Không vô biên xứ định". Lúc đầu chứng đắc
Thiền cảnh này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi và không
có giải thoát đối với Thiền này. Thế Tôn liền suy nghĩ
đến nguy hiểm của các sắc, thấy nguy hiểm này đến cùng
độ thì Thế Tôn liền cảm thấy hứng khởi, an tịnh và
giải thoát đối với Không vô biên xứ, biết rằng "Đây
là an tịnh". Sau một thời gian an trú trong Không vô biên
xứ định, các tưởng cùng đi với các sắc vẫn còn hiện
hữu. Thế Tôn thấy đây là chứng bệnh, như là khổ đau
phát khởi ở người đang sung sướng.
Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn
Không vô biên xứ định, và chứng đắc "Thức vô biên
xứ định" (Thức là vô biên). Ban đầu của sự chứng
đắc này, Thế Tôn không cảm thấy hứng khởi, không cảm
thấy an tịnh và giải thoát đối với Thức vô biên xứ,
Ngài bèn tư duy đến sự nguy hiểm của Không vô biện xứ
định, thấy sung mãn sự nguy hiểm này, Ngài liền thấy
hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Thức vô biên
xứ định, các tưởng có mặt của Không vô biên xứ vẫn
hiện hành, đây là chứng bệnh đối với Ngài, như là
nỗi khổ đau khởi lên giữa lúc đang sung sướng.
Thế Tôn lại từ bỏ hoàn toàn
Thức vô biên xứ định và đạt được "Vô sở hữu
xứ định" (biết rằng không có gì cả). Buổi đầu
của sự chứng đắc Thiền này, Ngài không cảm thấy phấn
khởi, an tịnh và giải thoát, Ngài bèn tư duy đến sự nguy
hiểm của Thức vô biên xứ định cho đến khi thấy sung mãn
sự nguy hiểm của cảnh giới Thiền đó, Ngài mới cảm
thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối với Vô sở
hữu xứ. Sau một thời gian an trú trong Thiền Vô sở hữu
xứ này, các tưởng có mặt của Thức vô biên xứ vẫn
hiện hành như là hiện hành của khổ đau đối với người
đang sung sướng. Với Ngài, đây là một chứng bệnh cần
được loại bỏ.
Thế Tôn lại ra đi, ra đi nữa.
Ngài từ bỏ hoàn toàn, chấm dứt hoàn toàn tưởng Vô sở
hữu, và chứng đắc "Phi tưởng phi phi tưởng xứ định".
Dù biết rằng "Đây là an tịnh" nhưng lúc đầu Ngài
vẫn không thấy hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối
với Thiền này. Ngài chuyển qua tư duy về nguy hiểm của Vô
sở hữu cho đến khi thấy sung mãn sự nguy hiểm này thì
sự cảm nhận hứng khởi, an tịnh và giải thoát đối
với "Phi tưởng phi phi tưởng" định đến với Ngài.
Sau một thời gian trú Phi tưởng phi phi tưởng, các tưởng
có mặt của Vô sở hữu lại khởi lên như là khổ đau
khởi lên với người đang sung sướng. Đối với Ngài, đây
là một chứng bệnh cần được đoạn trừ.
Rồi Thế Tôn lại ra đi nữa,
từ bỏ hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng định và chứng
đắc "Diệt thọ tưởng định". Dù có biết rằng
"Đây là an tịnh", trong buổi đầu chứng đắc
Thiền này, Thế Tôn vẫn không có hứng khởi, an trú và
giải thoát đối với Thiền ấy. Ngài bèn suy nghĩ đến
nguy hiểm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, cho đến
khi thấy rõ sự sung mãn của sự nguy hiểm ấy, Ngài thưởng
thức được lợi ích của Diệt thọ tưởng định với tâm
hứng khởi, an trú và giải thoát. Thế Tôn thấy "Đây
là an tịnh, thật an tịnh". Sau một thời gian an trú ở
Diệt thọ tưởng định, với trí tuệ Thế Tôn thấy
rằng, tất cả các lậu hoặc đều đi đến tận diệt.
Sau khi thuận thứ và nghịch thứ
chứng đắc, an trú và xuất khởi nhuần nhuyễn chín cảnh
giới Thiền trên, Thế Tôn mới tuyên bố Ngài đã chứng đắc
"Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác".
Trên đây là lộ trình tu chứng
chín cảnh giới định của Thế Tôn. Đấy là lộ trình liên
tục ra đi, liên tục từ bỏ những gì chứng đắc, liên
tục giác tỉnh, biết rằng các Thiền định (từ sơ khởi
đến Phi tưởng phi phi tưởng định) là các pháp do nhân
duyên sinh, là hữu vi, là vô thường, là khổ đau, liên
tục khởi lên ưu tâm tìm vào giải thoát chân thực. Ưu tâm
ở đây lại là cần thiết để không bị dính mắc, đắm
trước vào các Thiền cảnh, là sức mạnh của từ bỏ
hết thảy các pháp bị tác thành. Ưu tâm ở đây chính là
sự có mặt của tuệ giác, của khả năng thấy sự vật như
thật.
Chúng ta có thể rút ra từ kinh
nghiệm của Thế Tôn một bài học vô vàn quý giá rằng:
"nếu hành giả luôn luôn giữ chánh niệm tỉnh giác trên
ý nghĩa như thật của các pháp hữu vi: vô ngã, vô thường,
và khổ đau thì hành giả sẽ vượt nhanh qua được các
cảnh giới Thiền định, dễ dàng xuất khởi khỏi các
Thiền cảnh để hướng về 'Diệt thọ tưởng định', nơi
mà các lậu hoặc sẽ hoàn toàn được đoạn trừ, các
cảm thọ lạc, khổ và các tưởng đi đến các cảm thọ
lạc, khổ sẽ hoàn toàn được tịnh chỉ".
Chúng ta cũng có thể rút ra một
bài học kỳ diệu khác rằng: tinh hoa của việc tu
tập Thiền nằm ở chỗ an trú trong chánh niệm về khổ, vô
thường, vô ngã của các pháp để xả ly tham ái và chấp
thủ. Sự giải thoát khổ đau có mặt ngay trong sự
xả ly đó. Sự từ bỏ đến ngay sau khi sự thấy rõ nguy
hiểm của những gì đang ràng buộc chúng ta, đang trói
buộc tâm thức chúng ta; sự chứng đắc một cảnh giới
Thiền định cao hơn lại đến ngay sau sự từ bỏ cảnh
giới đang là; sự an trú cảnh giới chứng đắc là kết
quả của sự thấy sâu sắc cái nguy hiểm của cảnh giới
vừa đi ra. Cứ thế, lộ trình tu tập giải thoát là
sự trải qua của những quá trình thấy rõ khía cạnh vô thường,
nguy hiểm và khổ đau của các pháp, và sự từ bỏ những
gì được làm ra, được tác thành. Hành giả không
mỏi mệt, đi những bước đi đầy giác tỉnh, hứng khởi,
an tịnh và giải thoát. Con đường phải đi này là con đường
Thiền định chính thống của Phật giáo.
Khác đi là đường đi của ngoại đạo.
Từ bỏ, hay buông xả trong Thiền
định của Phật giáo đồng nghĩa với sự an trú trong chánh
niệm tỉnh giác và đồng nghĩa với an tịnh, giải thoát
của Thiền định. Nói khác đi, buông xả là buông xả tham
ái và chấp trước mọi pháp được tác thành, được làm
ra.
Nếu có ai chủ trương giữ tâm
Không (hay Không tâm) khi tu tập Thiền định của đạo
Phật, thì phải hiểu tâm Không chính là chánh niệm
tỉnh giác rời xa mọi tham ái, chấp trước ở đời.
Hành giả hành Thiền định Phật giáo thì không có mơ màng
chờ đợi gì ở cách thở hay thế ngồi, hoặc bất cứ
một kỹ thuật tu tập nào, ngoại trừ việc hàng phục chính
vọng tâm của mình. Chúng ta phải trở về con đường
Thiền định của Thế Tôn. Chân lý và con đường về chân
lý chỉ được sáng ở dưới cội Bồ-đề, mà không phải
là những nơi nào khác. Tại đó, chân lý sẽ rực sáng
một lần và sẽ rực sáng mãi mãi. Đấy là nơi quy hướng
của chúng ta trong việc học hỏi Pháp, hiểu Pháp và hành
Pháp. Đấy cũng là nơi quy hướng của những ai tự nhận mình
là Phật tử, dù đang ở phương hướng nào trên trái đất.
Tại đấy, rực sáng hào quang của Duyên khởi và Tứ niệm
xứ, và hào quang đó vẫn còn tỏa sáng ở mốc điểm phân
ranh giữa sanh tử và giải thoát, giữa con đường chánh và
con đường tà.
Hướng về Duyên khởi và Tứ
niệm xứ là thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời
này. Chúng ta hãy lắng nghe lời dạy sau đây của Thế Tôn
về nhơn duyên của diệu pháp không được tồn tại lâu dài,
hay được tồn tại lâu dài:
"Này Bà-la-môn, do bốn niệm
xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn sau
khi Như lai nhập diệt, nên diệu pháp không tồn tại lâu dài.
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, này
Bà-la-môn, sau khi Như lai nhập diệt, diệu pháp được tồn
tại lâu dài". (Tương Ưng V, tr. 183)
Cho đến đây, chúng ta có một
kết luận rõ ràng là vấn đề chủ yếu của một giáo
hội Tăng-già hưng thịnh và Phật giáo hưng thịnh hay tồn
tại, chính là vấn đề học hỏi Phật pháp và tu tập
Giới, Định, Tuệ của các Phật tử xuất gia cũng như
tại gia. Các vấn đề khác chỉ là thứ yếu. Thời đại
của một xã hội Phật giáo hưng thịnh như dưới thời vua
A-dục (Asoka) phải là thời đại mà quần chúng Phật tử
học hỏi nhiều về giáo lý và thực hành giáo lý, đặc
biệt là Thiền định (Tứ niệm xứ).
Cho đến khi nào mà các Thiền
viện được phát triển mạnh hơn các lãnh vực gọi là
"tín ngưỡng" khác của Phật giáo, thì cho đến khi
ấy, chúng ta mới có niềm tin lạc quan rằng Phật giáo hưng
thịnh, hay đang đi vào hưng thịnh.
Phải chăng cần chuyển công phu
thực hành Tứ niệm xứ thành buổi công phu sáng hay chiều
của hàng xuất gia, và thành công phu thay thời công phu
Tịnh độ của hàng Phật tử tại gia để diệu pháp được
tồn tại lâu dài hơn ở đời?
Đó là câu hỏi mà người Phật
tử cần trầm tư sau khi thông hiểu giáo lý Tứ niệm xứ
...
Thích
Chơn Thiện
("Phật Học Khái Luận", Sài Gòn, 1993)
Chân thành cám ơn anh Nguyễn
Quang Trung đã có thiện tâm giúp đánh máy lại bài viết
nầy (05/97).