Thiết nghĩ, những câu chuyện
trong các sách Thiền đã bị hiểu lầm rất nhiều.
Tại sao vậy?
Tại vì ở đó chúng ta chỉ được
thấy phần kết quả của cả một quá trình tu hành tự thanh lọc tâm của người hành
giả, tạm dùng thí dụ như chúng ta tham dự lễ ra trường của ông Tiến Sĩ, chỉ nghe
có tiếng gọi tên là ông Tiến Sĩ lên lãnh bằng cấp, áo mũ, mà không hề nhìn thấy
những năm dài đằng đẵng giùi mài kinh sử của người học trò, để có thể đạt được
kết quả trên.
Có lẽ khi đọc các sách Thiền
cũng nhận thấy một điều là các nhân vật trong đó khi ra mắt thiền sư đều khai
danh tính và xuất thân từ chùa này hoặc tu viện nọ. Điều đó nói lên rằng hầu hết
họ đều đã có một quá trình tu học, trước khi đi hành cước tìm thày.
Có câu “thiền môn nghiêm
tịnh”, chùa chiền và tăng ni ngày xưa giữ gìn giới luật rất tinh nghiêm, chặt
chẽ. Như thế có nghĩa là những hành giả đi tìm thày như vậy là đã trải qua giai
đoạn tự thanh tịnh hóa tâm, xả bỏ tham sân si được một chừng mực nào đó, nay bước
vào giai đoạn chót của cuộc đời chuyên tu, mục đích là Kiến Tánh để ra khỏi
sinh tử.
Thiền sư Hám Sơn, một người
đã Kiến Tánh, nhục thân còn lưu tại chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Đông, đã dạy rằng:
...”...Nếu luận về đại sự nhân
duyên này thì Phật Tánh ai ai cũng sẵn có đầy đủ, tơ hào chẳng thiếu .
Song le, do từ kiếp vô thủy đến
nay, gốc rễ ái dục, vọng tưởng, tình lự, thói quen ô nhiễm sâu dầy, nên ánh
sáng diệu kỳ của Tự Tánh hoàn toàn bị che khuất đi .
Rồi vì chẳng được thọ dụng chân
thật, nên cứ khư khư bám víu nơi thân tâm, thế giới, bóng dáng, vọng tưởng, kết
cuộc là trôi lăn phiêu dạt biển sinh tử.
Phật và chư Tổ ra đời, với trăm
ngàn lời lẽ, đủ thứ phương tiện, nói Thiền, giảng Giáo, không ngoài tùy thuận
căn cơ, dựng lập, phá chấp, nguyên lai nào có "pháp thật" nào để dậy
người đâu!
Tu tức là tùy thuận Tự Tâm, tịnh
trừ vọng tưởng, tập khí, rác rưởi . Cứ theo đây mà ra sức thì gọi là Tu . Khi
một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang
minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi
là Ngộ. Nào phải lìa khỏi tâm này, mình mới tu, mới ngộ...”...
Chúng ta cần lưu ý câu: “Khi
một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang
minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi
là Ngộ...”...
Như thế, người Ngộ Đạo không phải là Ngộ câu nói hay hành động gì
đó xảy ra lúc đó, mà là do sự kiện xảy ra lúc đó tác dụng vào tâm người hành giả
vốn đã chín mùi, khiến cho chuỗi tư tưởng triền miên bỗng nhiên ngưng đọng lại, trong
một thoáng dòng thường lưu suy tư ngưng bặt, Thực Tại hiển lộ.
Thực Tại đây chính là Phật Tánh, Giác Tánh,
Buddha Nature, Buddha Mind, Tri Kiến Phật, vân vân ...
Và sự Ngộ Đạo là kết quả của quá trình tự thanh
lọc, khiến cho tâm đã thành khối, cũng giống như trái cây đã chín mùi, nên câu
nói của bậc thày lúc đó chỉ tương đương với việc rung cây cho trái rụng mà
thôi.
Điều quan trọng là bậc thày phải là người đã
thấu suốt, biết được trò kẹt ở đâu, để chỉ nói một câu, làm một hành động nào đó
là trò bừng tỉnh. Vì thế, hành động của bậc thày trong hoàn cảnh này còn được
gọi là “tháo đinh nhổ chốt”.
Câu hỏi thứ hai:
-- Thế
nào là công án trong sự tu Thiền”.
Công
án trong nhà Thiền là thuật ngữ đặc biệt, để chỉ một phương cách hành trì khiến
cho người tu Tổ Sư Thiền có thể Kiến Tánh, cũng tức là Ngộ Đạo.
Trong phần trả lời câu hỏi trước,
chúng ta đã thấy lời dạy của thiền sư Hám Sơn, có câu:
- “Khi một niệm
vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói
lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là
Ngộ...”...
Ngộ tức là Kiến Tánh, là mục tiêu cốt tủy
của Tổ Sư Thiền.
Nhà Phật cho rằng vì một niệm vô minh bất giác
khiến cho trùng trùng duyên khởi, “Tự
Tâm trở lại buộc Tự Tâm, không phải Huyễn mà thành pháp Huyễn”, Tự Tâm cũng nghĩa là Bản Tâm, bỗng bị
cuốn vào cơn xoáy của vọng tâm sinh diệt liên tục gọi là dòng thường lưu suy tư luân chuyển không
lúc nào ngưng.
Nay muốn Ngộ lại Bản Tâm, còn gọi
là Kiến Tánh, thì dòng
thường lưu tư tưởng phải chợt ngưng bặt, dù chỉ trong một khoảnh khắc, đó là lúc Bản Thể Chân Tâm tự
hiển lộ, điều mà tu viện Thiền Tào Động trên núi Shasta gọi là manifest itself.
Vào thời gian đầu của Tổ Sư
Thiền, người tu chưa cần tới công án. Các bậc thày chỉ nói lên một câu nào đó rất
là khó hiểu, khiến cho người đệ tử cứ thắc mắc hoài, đi đứng nằm ngồi không buông
ra được, thí dụ một nhà sư hỏi Triệu Châu:
- ” Muôn pháp về một, một về chỗ
nào?”.
Triệu Châu trả lời:
- ” Khi ở Thanh Châu, tôi có may được
cái áo nặng 7 cân”.
Câu trả lời không ăn nhập gì với
câu hỏi, rất bất ngờ này, là cơ xảo của bậc thày, hoàn toàn ra ngoài dự đoán của
người nghe. Nó có thể gây nên sự sửng sốt khiến cho vọng tâm sinh diệt của đương cơ đang miên man trôi chảy bỗng khựng
lại, hoặc nếu tâm hành
giả chưa chín mùi thì câu trả lời vô nghĩa cũng gây nên một khối nghi, hành giả
ôm khối nghi đó cho
đến khi ngưng bặt tâm ý thức, rồi nếu có một đột biến nào xảy ra, thí dụ tiếng sỏi chạm, ly bể,
sét đánh, vân vân, hành giả sẽ bỗng nhiên bừng tỉnh.
Sau này, dường như các cơ xảo không
còn khiến cho người nghe cảm thấy ngạc nhiên, ngơ ngác nữa, cho nên chư Tổ Sư
mới phải chế ra những câu hỏi vô nghĩa, không thể dùng tâm ý thức mà trả lời được,
thí dụ :
- “Con trâu chui qua cửa, đầu và
thân đều lọt, tại sao cái đuôi không lọt?”.
Câu hỏi vô lý như thế nhưng do một
bậc thày đáng kính hỏi, người đệ tử không thể coi là trò đùa, và cứ thế mà nghiền
ngẫm.
Trong khi nghiền ngẫm như vậy
thì tâm ý thức giảm hoạt động dần, cho đến khi thành khối, gọi là Nghi Tình (hoặc Nghi Đoàn), rồi
khi tình cờ gặp một đột biến nào đó, khối nghi tan rã, hành giả bừng tỉnh, tức
là Kiến Tánh, là Ngộ.
Tuệ Đăng