KINH 1142
Một hôm, Phật ở nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc, tôi nghe như vầy:
Lúc
đó, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã ở lâu tại nước Xá Vệ chỗ sàng tòa vắng vẻ,
râu tóc dài thượt, mặc chiếc y kết bằng vải rách đi đến chỗ Phật. Lúc
đó vây quanh Thế Tôn, đại chúng đông vô số, Phật đang nói pháp, Chư Tỳ
kheo thấy Ma Ha Ca Diếp từ xa đi đến liền khởi tâm khinh mạn nói:
-
Đây là Tỳ kheo gì mà y phục xấu xa, không có nghi dung, đi chậm rãi
đến. Thế Tôn biết tâm niệm các Tỳ kheo liền gọi Ma Ha Ca Diếp:
-
Ca Diếp đến đây ! Đây còn nửa tòa nhường ông, Ta đã biết: Ai đã xuất
gia trước. Ông chăng? Ta chăng? Các Tỳ kheo kia tâm sanh kinh hãi, lông
dựng ngược, cùng nói với nhau :
-
Kỳ thay, Tôn giả, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp kia đại đức, đại lực, Thế Tôn
mời ngồi nửa toà. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp chắp tay bạch Phật:
- Thế Tôn là thầy con, con là đệ tử.
Phật bảo Ca Diếp:
- Như thế, như thế, Ta là thầy, ông là đệ tử, ông hãy tùy chỗ ngồi.
Tôn
giả Ma Ha Ca Diếp cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên. Khi ấy,
Thế Tôn muốn kỉnh ngộ các Tỳ kheo, lại do Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đồng
được công đức thù thắng quảng đại với mình, vì chúng hiện tại nên bảo
các Tỳ kheo:
-
Ta lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, trụ Sơ thiền cụ túc,
hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha Ca Diếp cũng như ta, lìa
dục pháp ác bất thiện, cho đến trụ Sơ Thiền cụ túc hoặc ngày hoặc đêm,
hoặc trọn ngày đêm. Ta muốn trụ đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền cụ túc, hoặc
ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha Ca Diếp cũng lại như thế. Ta
tùy muốn trụ từ bi hỷ xả, Không nhập xứ. Thức nhập xứ, Vô sở hữu xứ, Phi
tưởng Phi phi tưởng xứ, cảnh giới thần thông thiên, nhĩ, tha tâm trí,
túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc
trọn ngày đêm; Ma Ha Ca Diếp cũng lại như thế. Khi ấy Thế Tôn ở trong
đại chúng số đông vô lượng khen ngợi Ma Ha Ca Diếp công đức thắng diệu,
quảng đại đồng với mình, rồi chư Tỳ kheo nghe Phật nói hoan hỷ phụng
hành.
KINH THIỀN VÀ THẮNG TRÍ
1. Trú ở Sàvatthi
2.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng
đạt và an trú Sơ thiền, một tâm trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có
tầm, có tứ...
Tùy
theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng đạt và an trú Sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ...
3.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo. Ta diệt tầm và tứ, chứng đạt an
trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không
tứ, nội tỉnh nhất tâm.
Tùy
theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng diệt tầm và tứ, chứng đạt
và an trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm
không tứ, nội tỉnh nhất tâm.
4.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng
đạt và an trú Thiền thứ ba.
Tùy
theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng ly hỷ trú xả, chánh niệm
tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
5.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta xả lạc khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng đạt và an trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh.
Tùy
theo mong muốn, này các Tỳ kheo Kassapa cũng xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu
đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú thiền thứ tư, không khổ, không
lạc, xả niệm thanh tịnh.
6.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi sắc tưởng, diệt
trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng. Ta nghĩ rằng:
"Hư không là vô biên". Chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.
Tuỳ
theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng vượt lên mọi sắc tưởng,
diệt trừ mọi chướng ngại tưởng không tác ý đối với dị tưởng, chứng đạt
và an trú Không vô biên xứ.
7.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Không vô biên xứ,
nghĩ rằng: "Thức là vô biên" chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng vượt lên mọi Không vô biên xứ... chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.
8.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Thức vô biên xứ,
nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và an trú Vô sở hữu xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng vượt lên mọi Thức vô biên xứ... chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.
9. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng đạt và an trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng... chứng đạt và an trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ.
10. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.
Tùy theo mong muốn... Kassapa cũng... chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.
11.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta chứng đạt các loại thần thông.
Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình biến
hình đi ngang qua vách qua tường, qua núi như đi ngang hư không, độn
thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không
chìm như trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với
bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, oai
thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng chứng đạt được các loại thần thông.... bay đến cõi Phạm Thiên.
12.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta với thiên nhĩ thanh tịnh siêu
nhân có thể nghe hai loại tiếng : Chư thiên và loài người, xa và gần.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng với Thiên Nhĩ thanh tịnh... xa và gần.
13.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, sau khi đi sâu vào tâm của chúng
sanh, của loài người với tâm của mình, ta có thể biết như sau: "Tâm có
tham biết là tâm có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có
sân biết là tâm có sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si
biết là tâm có si. Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú
biết là tâm chuyên chú.
Tâm
không chuyên chú biết là tâm không chuyên chú. Đại hành tâm biết là Đại
hành tâm. Không phải Đại hành tâm biết là không phải Đại hành tâm. Tâm
chưaVô thượng biết là tâm chưa Vô thượng. Tâm Vô thượng biết là tâm Vô
thượng. Tâm thiền định biết là tâm thiền định. Tâm không Thiền định biết
là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm
không giải thoát biết là tâm
không giải thoát.
Tùy
theo mong muốn, này các Tỳ kheo, sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh,
của loài người với tâm của mình, Kassapa cũng được biết như sau: Tâm có
tham biết là tâm có tham... Tâm không giải thoát biết là tâm không giải
thoát.
14.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta nhớ đến các đời sống quá khứ,
như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời,
30 đời, 40 đời, 50, đời một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại thành kiếp.
Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có tên như thế này, giòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ kia. Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ
ấy, ta có tên như thế này, giòng họ như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ở đây. Như vậy, ta nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết".
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... và các chi tiết.
15.
Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta với thiên nhãn thanh tịnh siêu
nhân thấy các chúng sanh. Ta biết rõ ràng chúng sanh người hạ liệt kẻ
cao sang, người đẹp đẻ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của chúng. Những bậc chúng sanh ấy làm những ác hạnh về thân
ngữ ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà
kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những bậc chúng sanh nào làm những
thiện hạnh về thân, ngữ và ý không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh
kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như
vậy, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống chết của chúng
sanh. Ta biết rõ chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng.
Tùy
theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Kassapa cũng với thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân thấy sự sống chết các chúng sanh... đều do hạnh nghiệp của
chúng.
16.
Và Ta, này các Tỳ kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại tự mình với thắng trí Ta chứng ngộ Vô lậu tâm giải thoát, TUỆ giải
thoát, chứng đạt và an trú.
Này
các Tỳ kheo, Kassapa cũng với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện
tại tự mình với trí chứng ngộ Vô lậu tâm giải thoát, Tuệ giải thoát,
chứng đạt và an trú.
GIẢNG
Kinh
1142 trong Tạp A Hàm thuộc hệ Sanskrit và Kinh Thiền và Thắng Trí trong
Tương Ưng Bộ thuộc hệ Pali có mối liên hệ với Thiền tông đáng lưu ý mà
người tu Thiền chúng ta không thể bỏ qua.
Từ
lâu có sự ngờ vực về việc Phật truyền tâm ấn cho Ngài Ma Ha Ca Diếp.
Đọc các kinh không thấy nói mà trong sử Thiền tông lại có ghi sự truyền
thừa từ trước tới sau. Hôm nay, chúng ta học qua hai kinh này xem Ngài
Ma Ha Ca Diếp có xứng đáng để thừa kế Phật không?
Lúc
đó, tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã ở lâu tại nước Xá Vệ, chỗ sàng tòa vắng
vẻ, râu tóc dài thượt, mặc chiếc y kết bằng vải rách đi đến chỗ Phật.
Lúc đó, vây quanh Thế Tôn đại chúng đông vô số. Phật đang nói pháp. Chư
Tỳ kheo thấy Ma Ha Ca Diếp từ xa đi đến, liền khởi tâm khinh mạn: Đây là
Tỳ kheo gì mà y phục xấu xa, không có nghi dung đi chậm rãi đến. Tôn
giả Ma Ha Ca Diếp là một trong
mười vị đệ tử lớn của Phật, chuyên tu
hạnh đầu đà, Ngài ở một mình nơi vắng vẻ, râu tóc ra dài chưa cạo. Mặc
thì lượm từng miếng vải bỏ kết lại thành y, nên y xấu và thô. Ngài đến
với đức Phật trong lúc chúng tân Tỳ kheo đang nghe pháp. Họ là những
người đến sau nên không biết Ngài, với tâm thiển cận đánh giá người qua
lớp áo bên ngoài, nên khởi tâm khinh mạn chê Ngài ăn mặc thô xấu dung
nghi không tươi đẹp.
Thế Tôn biết tâm niệm các Tỳ kheo liền gọi Ma Ha Ca Diếp:
- Ca Diếp đến đây! Đây còn nửa tòa nhường ông, Ta đã biết: ai xuất gia trước, ông chăng? Ta chăng?.
Thế
Tôn biết các vị tân Tỳ kheo đang khởi tâm kiêu mạn, khinh chê xem
thường Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Để cảnh tỉnh họ, Thế Tôn bèn kêu Ngài lại
nhường cho nửa tòa ngồi. Nếu thực chất đức hạnh và trí huệ của Tôn giả
Ma Ha Ca Diếp còn kém, dù cho Phật có muốn cảnh tỉnh răn dạy hàng tân Tỳ
kheo, Phật cũng không thể làm như vậy được, vì làm như thế không đúng ý
nghĩa, mà Phật thì không nói hay làm một điều gì vô nghĩa. Chính vì
Phật đã thấy trí tuệ và đức hạnh của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp xấp xỉ với
Phật, nên mới kêu lại ngồi cùng tòa. Đọc lại những bài kinh nói về những
vị đệ tử lớn của Phật, chúng ta không thấy vị nào được Phật kêu ngồi
cùng tòa, chỉ có bài kinh này Phật kêu Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nhường cho
nửa tòa ngồi. Điều này chứng minh rằng: khả năng của Tôn giả Ma Ha Ca
Diếp đủ sức kế thừa mạng mạch Phật pháp về sau.
Các Tỳ kheo kia tâm sanh kinh hãi lông dựng ngược, cùng nói với nhau:
- Kỳ thay! Tôn giả, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp kia đại đức đại lực, Thế Tôn mời ngồi nửa tòa.
Thấy
Phật xử sự với Tôn giả Ma Ha Ca Diếp như vậy, các vị tân Tỳ kheo hốt
hoảng, bàn với nhau không biết Tôn giả đó là ai, ắt phải có khả năng, có
trí tuệ vĩ đại mới được đức Thế Tôn quý trọng mời ngồi chung tòa.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp chấp tay bạch Phật:
- Thế Tôn là thầy, con là đệ tử.
Phật bảo Ca Diếp:
- Như thế, như thế, ta là thầy, ông là đệ tử, ông hãy tùy chỗ ngồi.
Tuy
được Đức Phật xử sự ngang hàng với Phật nhưng Tôn giả Ma Ha Ca Diếp vẫn
thủ lễ của một người trò, không nhân cơ hội Phật ưu đãi mà sanh tâm cậy
thế cầu cao. Phật thấy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp giữ lễ mới bảo: Nếu ông
thấy ông là đệ tử thì thôi tùy ý ông muốn ngồi đâu thì ngồi.
Tôn
giả Ma Ha Ca Diếp cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên. Khi ấy,
Thế Tôn muốn kỉnh ngộ các Tỳ kheo, lại do Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đồng
được công đức thù thắng quảng đại với mình, vì chúng hiện tại nên bảo
các Tỳ kheo:
-
Ta lìa dục pháp ác bất thiện có giác, có quán, trụ sơ thiền cụ túc,
hoặc ngày hoặc đêm hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha Ca Diếp cũng như Ta, lìa
dục pháp ác bất thiện, cho đến trụ sơ thiền cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm,
hoặc trọn ngày đêm. Ta muốn trụ đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền cụ túc, hoặc
ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha Ca Diếp cũng như thế. Ta tùy
muốn trụ từ bi hỷ xả, Không nhập xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập xứ,
Phi tưởng Phi Phi tưởng nhập xứ, cảnh giới thần thông thiên nhĩ, tha tâm
trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí cụ túc hoặc ngày hoặc đêm,
hoặc trọn ngày đêm, Ma Ha Ca Diếp cũng lại như thế.
Khi
ấy, Thế Tôn ở trong đại chúng số đông vô lượng khen ngợi Ma Ha Ca Diếp
công đức thắng diệu, quãng đại đồng với mình rồi, chư Tỳ kheo nghe Phật
nói hoan hỷ phụng hành.
Phật
cảnh ngộ để các Tỳ kheo hiểu rõ công đức trí tuệ của Tôn giả Ma Ha Ca
Diếp thù thắng quãng đại, có thể tương đương với Phật: Phật đã lìa dục,
lìa các pháp bất thiện, có giác có quán, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng lìa
dục, lìa các pháp bất thiện, có giác có quán. Phật chứng tứ thiền (sắc
giới), Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng chứng tứ thiền. Phật trụ tứ vô lượng
tâm. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng trụ tứ vô lượng tâm. Phật nhập tứ định
(Vô sắc giới). Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng nhập tứ định, cho đến lục
thông tứ trí Phật chứng tới đâu thì tôn giả Ma Ha Ca Diếp chứng tới đó.
Phật nói giữa chúng như thế là công khai thừa nhận tôn giả Ma Ha Ca Diếp
có khả năng, có trí tuệ thù thắng, gần tương đương với Phật. Trước Phật
mời Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ngồi chung tòa với Phật, kế Phật nói thể
trạng tu
chứng của Phật đến đâu là tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng tu
chứng đến đó. Giả sử không có những bài kinh nói về việc truyền pháp cho
tôn giả Ma Ha Ca Diếp , nhưng qua lời xác chứng của Phật trong bài kinh
này, chúng ta thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp là người xứng đáng kế thừa
Phật, cho nên Phật mới nói như vậy.
Kinh
Thiền Và Thắng Trí trong Tương Ưng bộ tập II trang 241 do Hòa Thượng
Thích Minh Châu dịch không có giai thoại Phật mời Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp
ngồi nửa tòa . Song, Phật xác nhận với chúng Tỳ kheo là, tùy theo mong
muốn, Phật lìa dục, lìa các pháp bất thiện, chứng đạt và an trú từ sơ
thiền cho đến tứ thiền ở sắc giới, tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng tùy theo
mong muốn chứng từ sơ thiền cho đến tứ thiền. Phật chứng đạt tứ thiền ở
vô sắc giới thì tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng chứng tứ thiền ở vô sắc giới.
Phật an trú diệt thọ tưởng định, chứng sáu thắng trí.Tôn giả Ma Ha Ca
Diếp cũng an trú diệt thọ tưởng định, chứng sáu thắng trí. Đức Phật xác
định khả năng trí tuệ của tôn giả Ma Ha Ca Diếp rất rõ ở đoạn 16: " Này
các Tỳ kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình
với thắng trí, ta chứng ngộ vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng
đạt và an trú."
"
Này các Tỳ kheo, Kassapa cùng với sự đoạn tận các lậu hoặc ngay trong
hiện tại, tự mình với trí chứng ngộ vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, chứng đạt và an trú".
Qua
đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ ràng Đức Phật thừa nhận Tôn giả Ma Ha
Ca Diếp có khả năng như Phật. Đó là lý do mà các thiền sư nói Phật
truyền tâm ấn cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Tuy ở kinh không nói truyền tâm
ấn mà Phật xác nhận khả năng chứng đắc của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp trước
chúng Tỳ kheo, thì có khác gì truyền tâm ấn. Vì truyền tâm ấn là một lối
xác nhận thầy chứng đắc tới đâu, trò chứng đắc tới đó.
Thiền tông thường đề cập việc Tôn giả Ma Ha Ca Diếp được Phật truyền tâm ấn ba lần.
Lần
nổi bật nhất là ở hội Linh Sơn trên núi Kỳ Xà Quật, Phật cầm cành hoa
sen đưa mắt nhìn khắp chúng, cả hội đều ngơ ngác. Chỉ có Tôn giả Ma Ha
Ca Diếp nhìn thấy chúm chím cười. Phật bảo: "Ta có chánh pháp nhãn tạng,
Niết bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý
truyền riêng, nay giao phó cho ngươi, ngươi khéo gìn giữ, truyền trao
mãi đừng cho dứt mất, đến
sau sẽ truyền cho A Nan". Phật ở trên nhìn
xuống, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ở dưới nhìn lên, tâm Phật tâm Tôn giả Ma
Ha Ca Diếp khế hội nhau, thông cảm nhau nên được Thiền tông coi sự kiện
đó là truyền tâm ấn.
Lần
thứ hai ở tháp Đa Hòa, như kinh 1142 hay Thiền và Thắng Trí mà chúng ta
vừa đọc qua. Bài kinh tuy Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ kheo
xem thường Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Nhưng dưới mắt Thiền tông thì đức Phật
đã khen ngợi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp có đầy đủ công đức và trí tuệ thù
thắng cũng như Đức Phật đã có và xứng đáng cho Phật nhường nửa tòa ngồi.
Theo
Thiền tông, truyền tâm ấn là việc xác chứng thầy chứng đắc tới đâu, trò
cũng chứng đắc tới đó. Như vậy, không phải truyền tâm ấn là gì?
Lần
thứ ba, tại đền Makuta bandhana, thành Kusinàrà, khi Thế Tôn nhập diệt,
nhục thân được liệm vào kim quan và đưa lên giàn hỏa để trà tỳ, châm
lửa thiêu ba lần mà vẫn không cháy. Trong khi hai đệ tử lớn là Anuruddha
và Ananda có mặt tại đó mà không làm cho lửa cháy được. Mãi đến khi Tôn
giả Ma Ha Ca Diếp từ núi Kỳ Xà Quật đến, đi nhiễu quanh kim quan ba
vòng rồi cởi mở chân và cúi đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn. Khi Tôn giả
Ma Ha Ca Diếp đảnh lễ Thế Tôn xong, thì giàn hỏa tự bắt lửa cháy.
Sự
kiện vừa nêu đã nói lên sự tương quan cảm thông rất lớn giữa Phật và
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ở giờ phút cuối cùng. Dưới mắt Thiền tông coi sự
tương quan cảm thông đó là truyền tâm ấn.