A.- SINH HOẠT THIỀN
TÂM THỨC TỰ DO
Trong thiền định , hay nói một cách nôm na là sống thiền thì trước
hết bạn phải có trình độ cao về trí thông minh , sự cố gắng và lòng kiên
nhẫn . Khởi đầu, bạn phải tập một tâm thức hoàn toàn tự do và không bị
giới han . Thứ tự do mà bạn tìm đây là tự do tuyệt đối để tâm thức tìm
được chân lý . Nhưng làm sao bạn đạt được một tình trạng tuyệt đối như
vậy khi đa số chúng ta bắt đầu với sự phán đoán và điều nguy hiểm nhất
là sự phê phán dựa trên tình cảm : quan niệm của tôi , đức tin của tôi ,
kinh nghiệm của tôi ... Như thế bạn không có tự do để tiến bước xa hơn
nữa . Chỉ có cách bạn phải nhìn mọi sự vật với tâm bình đẳng (không định
kiến , khen chê ...), dù đó là triết thuyết, lý tưởng, hoặc ngay cả
công phu tu tập và tiến bộ của mình nữa. Chỉ như thế bạn mới có thể nhìn
sự vật một cách khách quan được. Muốn được tự do bạn chỉ cần hai điều:
tâm hồn im lặng và trái tim cởi mở.
THIỀN TRONG SINH HOẠT THƯỜNG NGÀY
Trong khi tập Thiền Quán, bạn không nhất thiết phải tu để đạt tới tình
trạng an định. Ðiều tối cần là bạn phải có trí tuệ ba-la-mật (panna
paramita) tức là trí thông minh có sẳn. Nếu bạn có trí tuệ ba-la-mật và ở
tình trạng sẳn sàng, thì có thể đắc ngộ ngay sau khi chỉ nghe một bài
giảng. Do đó, với trí tuệ giải thoát, bạn sống tại gia vẫn có thể đắc
ngộ khi quán chiếu vô thường bên trong hay ngoài bản tâm, tại gia hay
ngoài xã hội.( Ledi Sayadaw)
Thiền đem tới sự thư giản nhưng không phải là một phương thức trị liệu
cấp thời để giảm căng thẳng mà là một phương pháp rèn luyện tâm để đạt
đến giải thoát .
Nói đến tu thiền là người ta nghĩ đến tọa thiền (ngồi thiền) . Thật ra
đây chỉ là một hình thức kỹ thuật để hổ trợ cho việc tu thiền . Nhưng
nếu thiền nhằm mục đích để giúp tâm bình an thì thiền phải là một hành
vi linh động trong cuộc sống hàng ngày , giữa các thăng trầm của đời
sống , các xung động của các dục vọng , cảm xúc... Làm sao để kiểm
soát chúng ? Hãy ngắm nhìn tâm mình trong im lặng vì bản chất của tư
tưởng và tình cảm là tạm bợ và tự chúng không có đời sống riêng biệt.
Nếu bạn bám níu chúng thì bạn làm cho chúng ở lại lâu hơn chỉ khi nào
tâm thức bạn không còn bám níu hay vất bỏ thì nó mới có thể nhìn cơn
giận như là cơn giận, ham muốn như là ham muốn. Sự thấy biết nầy gọi là
tuệ giác (Panna) . Chỉ khi nào bạn không còn dính líu với cảm xúc thì
lúc đó bản chất bình an của tâm thức mới hiện ra. Bản chất bình an nầy
làm bạn có thể sống trọn vẹn từng giây phút của đời sống. Với sự thông
hiểu và nhận thức mới tìm được, bạn sẽ có thể sống như một con người
trọn vẹn và nhạy cảm hơn. Bạn sẽ nhìn đời với một quan điểm mới mẻ và
tươi mát. Và kỳ diệu thay, những vấn đề trước kia không còn là vấn đề
nữa.
SỐNG VỚI GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
Như vậy muốn có một tâm thức mới nầy hãy tập có tỉnh giác về bất cứ hành
động nào của mình ngay lúc nầy: đi bộ, ngồi, tắm, hút bụi, ngắm hoa,
vv...Bạn có thể tập điều nầy bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Trong khi
rèn luyện tâm tập trung, bạn sẽ thấy là mình càng ngày càng bớt lơ đãng.
Rồi về sau, khi bạn tiếp tục rèn luyện, bạn sẽ có thể tỉnh giác về tư
tưởng và tình cảm của mình ngay khi chúng mới nổi lên.
Giả sử như bạn đang lái xe. Bạn phải chú ý về hành động lái xe, phải
không? Tâm của bạn phải ở tại chỗ và ngay giây phút đó, chú ý nhìn trên
xa lộ, quan sát các tài xế khác. Bạn không thể nào để mình quá lơ đãng
bởi những tư tưởng khác. Lái xe cũng giống như tập tỉnh giác về hành
động đang làm của mình.. Hoặc giả sử như bạn đang ăn. Nếu tâm bạn lơ
đãng, có thể là bạn không nhận thức mình đang nếm mùi vị của thức ăn,
huống hồ là có thể thưởng thức nó. Chỉ khi nào bạn chú ý trên hành động
ăn thì bạn mới có thể thật sự thưởng thức được mùi vị của thức ăn.
Nhưng thường là bạn không làm những hành động khác một cách tập trung
như vậy .
Sống với giây phút hiện tại chỉ là một cách nói, không phải là một điều
răn phải răm rắp tuân theo , vì nếu bạn quá đeo níu vào giây phút hiện
tại thì bạn sẽ mất đi nghệ thuật sống thư thả. Sống với giây phút hiện
tại chỉ là một cách để tập cho tâm mình thôi xao động , suy nghĩ lung
tung ...
Ðiều quan trọng là học tập bỏ thói quen vọng tâm ( tâm luôn luôn nhảy
chuyền) , luyện cho tâm mình được tập trung và vững vàng hơn. Nhưng
trong thiền định , tập trung chỉ là một phần . Ðiều tối cần là phải bỏ
dục vọng . không phán đoán , thích hay không thích ... tức là bạn phải
đạt đến tâm xã ( Tâm im lặng – Upekha) .
SỐNG VỚI NHIỀU GIÂY PHÚT KHÁC
Trong công việc thường ngày bạn thường làm một cách máy móc . Chẳn hạn
khi đang lặt rau, bạn không nhất thiết phải chú ý đến màu sắc hay hương
vị của rau mà có thể trả lời vài câu hỏi của các con . Không có một
nguyên tắc cứng nhắc nào cả . Nếu công việc quá bận rộn thì bạn đâu còn
chú tâm đến việc khác . Trong tình thế nầy , thay vì để ý đến sự lộn
xộn ở bên ngoài thì dừng lại và nhìn thẳng lại tâm mình ở bên trong .
Ðó là cách để đạt đến một trạng thái cân bằng , để bạn có thể nhìn sự
hỗn loạn bên ngoài một cách khách quan . Ðây gọi là Tuệ Giác (Panna) hay
là giác ngộ xuyên suốt . Khi sự tỉnh giác đã đủ mạnh và trong tâm có sự
im lặng hoàn toàn thì tuệ giác sẽ tức thời hiện đến cho chúng ta biết
cách tốt nhất để đối phó với tình thế trước mắt. Khi tâm không còn thành
kiến, bạn sẽ có thể hành động tức thời, đầy sáng tạo.
THIỀN TRONG HÀNH ÐỘNG
Một cách tổng quát tâm trí của bạn đều bị ngoại giới chi phối và bạn
phản ứng với nó một cách máy móc và theo thói quen . Bạn bị kẹt ở bên
ngoài và bỏ quên tâm mình ở bên trong . Bạn không thể nào quán tâm được .
Chẳn hạn khi lái xe bạn không thể nào vừa quán tâm vừa chú ý đến diễn
biến xẩy ra trên xa lộ . Bạn không làm thế , nhưng bạn có thể tập trung
một cảm xúc nào đó quấy nhiễu chúng ta nhiều nhất . Chẳn hạn một sự tức
giận . Khi bạn bắt đầu quán sự tức giận của mình, bạn sẽ khám phá một
điều lý thú là bạn vừa biết mình đang tức giận thì cơn giận tự nó tan
biến đi. Dần dần sự quán tâm sẽ trở nên tự nhiên hơn. Không bao lâu, bạn
sẽ thấy rằng, đột nhiên giữa một cơn giận dữ, cơn giận của bạn bỗng
nhiên biến đi mà không báo trước. Bạn cần hiểu rất rõ một điểm: phải
tỉnh giác và đừng phê phán. Sự tỉnh giác chính nó sẽ tập cho chúng ta có
được một tâm trí đơn giản và trong sạch, không có phê phán và phân
biệt. Thường thì bạn chỉ phản ứng thay vì hành động. Bạn phản ứng theo
đường lối đã điều-kiện-hóa của tâm bạn. Muốn dừng phản ứng, phải phá vỡ
sự điều kiện hóa đó.
Giả sử như đứa con nhỏ của bạn đang khóc vì bạn không cho nó vật nó
muốn. Nếu bạn dừng lại để nhìn, bạn thấy sự bực dọc của mình. Bạn còn có
thể nổi giận vì không thể lý sự với đứa nhỏ. Ngay lúc bạn nhìn thấy sự
nóng giận, nó tan đi - và thay vì đáp ứng với con bạn bằng sự giận dữ,
bạn có thể thông cảm nhưng cương quyết đối với nó. Thật là lạ, bởi vì
đột nhiên bạn biết cách đối phó với vấn đề. Bạn không can dự vào sự nóng
nảy của nó, hay của chính bạn. Hình như đứa nhỏ cảm nhận được điều nầy
và nó cũng trở nên bình tĩnh hơn.
BUÔNG XÃ
Buông xã là không bám níu về môt việc gì . Thường đó là động lực ham
muốn một sự thành công, được điều khiển , được vinh danh...Ðừng lẫn lộn
ham muốn với hành động . Buông xả ở đây là buông xả sự bám níu vào tham
dục, chớ không phải buông xả hành động. Bạn hãy dừng lại và nhìn về sự
ham muốn của mình . Khi bạn thấy được sự ham muốn, bạn cũng thấy được sự
bám níu vào ham muốn đó. Và khi bạn nhận ra sự bám níu, bạn thấy nó tan
biến đi và bạn tức thời buông xả. . Hành động nầy là một hành động
không căng thẳng hay bực dọc kèm theo. Ðó là hành động thanh tịnh và
giản dị, bạn có thể hoàn tất được nhiều chuyện hơn và ít bị căng thẳng
hơn. Trong những cơn xúc động - bởi vì diễn tiến tâm lý biến đổi quá
nhanh – bạn chỉ nhận diện được những cảm xúc thô kệch như nóng giận và
thù hận. Sự ham muốn và bám níu thì tế nhị hơn nhiều, nên cần có định
lực mạnh hơn mới có thể nhận ra chúng được.
Cái tôi được hình thành từ từ trong vô thức . Ðến khi khôn lớn thì cái
khái niệm về bản ngã của bạn đã trở nên 'hiện thực' đến nỗi khó phân
biệt được đâu là ảo tưởng và đâu là thực tế. Bạn không nhận cái tôi là
tạm bợ , tương đối và luôn luôn thay đổi , bởi thế bạn cố bám níu vào
chúng và không bỏ đi . Sự ham muốn 'giữ cho mọi sự vật còn mãi' làm cho
việc tu tập 'buông xả' thật là khó khăn.
Nếu bạn buông xả cái 'tôi' và 'của tôi' thì bạn có mất hết lai lịch ,
sẽ trở thành lạnh lùng và vô cảm chăng? Nghe thật đáng sợ, giống như là
sống trong khoảng trống không. Không sao cả , bạn nên hiểu cái bạn mất
đi chỉ là một ảo tưởng. Nó không bao giờ có thật. Bạn trút bỏ trong tâm
cái ảo tưởng về bản ngã. Chỉ buông xả cái ảo tưởng thôi.
<="" b="">
Nếu bạn dừng sự suy nghĩ trong phút chốc và ngồi lại để phản chiếu trên
tâm mình, bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng bạn đang được bình an. Bình an là
bản chất tự nhiên của tâm thức trong mỗi người chúng ta. Bình an đã có
mặt ở đó kể từ ngày chúng ta sanh ra và nó sẽ tiếp tục ở đó cho tới ngày
chúng ta chết đi. Ðó là món quà vĩ đại cho bạn; như vậy tại sao bạn lại
nghĩ rằng mình không được bình an trong tâm? Khi nhìn vào tâm mình bạn
thường chỉ nhận biết các tâm trạng hoạt động, như là các tư tưởng và các
cảm xúc đi chung với chúng. Nhưng bạn có khuynh hướng bỏ quên các
khoảng thời gian bình an ở giữa các tư tưởng và cảm xúc đó. Nếu con
người phải khổ sở hay buồn bực từng phút một trong suốt 24 giờ mỗi ngày,
thì chắc mọi người sẽ điên hết . Thế thì tại sao bạn nghĩ rằng mình
không bao giờ được bình an? Ðó là bởi vì bạn không bao giờ tự cho phép
mình được bình an. Bạn quá say mê đấu đá với chính mình và cảm xúc của
mình đến nỗi sự đấu tranh nầy trở thành bản chất thứ hai của bạn. Thế
rồi bạn lại than phiền rằng tâm mình không được bình an!
Tại sao bạn không gạt qua một bên tất cả những ý tưởng phức tạp nầy trong phút chốc để có thể ngắm nhìn bản chất bình an nầy .
Như vậy cái gì làm cho tâm bạn bất an ? Chỉ khi nào khái niệm về 'tôi'
và 'của tôi' nổi lên thì tâm thức mới bị lôi kéo vào xung đột. Thích và
không thích mau lẹ đi theo những khái niệm chấp ngã đó. Ðây là khởi đầu
của phiền toái. Giả sử như bạn làm mất xâu chìa khóa. Vấn đề bắt đầu khi
bạn bắt đầu phê phán sự kiện bạn làm mất xâu chìa khóa. 'Tôi không
thích bị mất chìa khóa. Bạn còn có thể tiếp tục suy nghĩ: 'Tại sao tôi
lại vô ý quá như thế?” Tất cả những sự phiền hà nầy nổi lên từ phản ứng
của bạn đối với xâu chìa khóa bỏ quên đâu đó. Bạn hãy quay lại điểm khởi
đầu của sự bực bội. Khi bạn có tư tưởng 'Tôi mất xâu chìa khóa', bạn đã
không thể buông xả tư tưởng đó. Thay vào đó, bạn tức khắc nhảy vào
'thích' hay 'không thích'. Cảm xúc, xung đột và bực dọc đều phát xuất từ
nhị nguyên 'thích' và 'không thích' nầy. Bạn đã tự để cho mình bị cuốn
trôi đi bởi những phê phán, cảm xúc và bực bội.Nhưng chúng ta hãy ngắm
nhìn những tư tưởng trong giây lát. Chúng nó nổi lên rồi tự chúng rơi
rụng, trừ phi bạn bám níu vào chúng. Nếu bạn để cho tư tưởng tiếp tục
đi hết đời sống bình thường của chúng, chúng tự nhiên rơi rụng. Tư tưởng
của bạn cũng phải chịu qui luật phổ quát về Vô thường (Anicca). Bản
chất của tư tưởng là tạm bợ, trừ khi cái 'tôi' can thiệp và không cho
chúng ra đi. Bằng cách bám níu vào tư tưởng và cảm xúc, cái 'tôi' tiếp
tục kéo dài quá trình cảm xúc. Chính là cái 'tôi' cố bám níu vào tư
tưởng và cảm xúc và để cho chúng gây bất an.
QUÁN CHIẾU VỀ TÂM BÌNH AN
Nếu thỉnh thoảng bạn nhận thấy có những giây phút bình an, thì bạn đã
bắt đầu rồi đó. Bạn đừng bận tâm nếu những giây phút nầy rất ngắn ngủi.
Bạn có thể dùng những phút bình an nầy làm căn cứ để thăm dò tâm mình.
Ðây có thể tiêu điểm từ đó bạn có thể khám phá tâm. Và đáng ngạc nhiên
thay, bạn sẽ thấy đây cũng chính là ngôi nhà mà bạn tìm về. Giả sử như
muốn thấy vật thể di động trong không gian như thế nào, bạn phải thấy
được trọn khoảng không gian và các vật thể trong đó. Không có không gian
thì vật thể không di động được. Vật thể có thể biến mất trong không
gian, nhưng không gian vẫn còn đó. Tâm của bạn có thể ví như khoảng
không gian , tư tưởng và tình cảm ví như những vật thể di động . Nếu bạn
có thể thấy rõ được khoảng không gian nầy, bạn cũng sẽ thấy rõ hơn cái
gì nổi lên và rơi rụng trong đó. Có thể bạn chưa được bình an trọn vẹn,
nhưng ít ra bạn đã có được một khoảng trống để thở, và nghỉ ngơi .
Bản thể của tâm bình an rất đơn giản. Nhưng bạn làm cho nó phức tạp bằng
cách nghĩ rằng phương pháp tìm nó phải là khó khăn. Bạn bị điều kiện
hóa để đạt được điều nầy, thành tựu điều kia, vv...Tâm bạn lúc nào cũng
động. Dĩ nhiên bạn phải làm ăn, nuôi gia đình, kết bạn, đưa con tới
trường, vv...vì đó là đời sống. Nhưng nếu bạn cứ tiếp tục nếp sống vội
vã như là cách để tìm bình an, bạn sẽ không tìm được bình an.Ðiều chúng
ta cần quan tâm là nên sống chậm lại...để cho bạn có thể tự hiểu mình và
kinh nghiệm được những gì đã có sẳn trong tâm bạn.
TÂM IM LẶNG
Tâm im lặng không phải là tâm chết cứng trái lại rất nhạy cảm với môi
trường chung quanh .
Tâm im lặng thoát khỏi sự thù ghét, nóng giận, ganh tỵ, lầm lẫn và xung
đột nghiã là nó thoát khỏi quan điểm nhị nguyên . Nói chung, bạn nhìn
thế giới qua một khung khái niệm dựa trên lối suy nghĩ nhị nguyên. Khi
vừa nhận thức một sự vật, bạn phê phán nó liền. Thí dụ , phê phán là nó
tốt. Ngay khi ta vừa phê nó tốt, thì những cái gì trái lại tự nhiên trở
thành xấu. Bạn đã chia thế giới khái niệm theo sự phân cực nầy; bạn dựng
lên thiện và ác, tốt và xấu, đúng và sai, theo tiêu chuẩn riêng của bạn
.
“Nhưng chúng ta phải phân biệt thì mới có thể sinh hoạt trong đời sống
thường ngày được. Tôi sẽ không ăn một quả táo thối. Nó sẽ làm tôi bị
bịnh. Tôi phải phê phán rằng quả táo nầy thối, quả kia thì chín và ăn
rất tốt.” Dĩ nhiên là bạn cần phải phê phán để có thể sinh hoạt trong
thế giới nầy. Bạn cần phải phân biệt một quả táo ngon lành và một quả
táo thối. Ðây là phê phán dựa trên lý luận chớ không phải cảm xúc. Nhưng
thường thì chúng ta không dừng lại ở phê phán dựa trên lý luận. Chúng
ta tiếp tục áp đặt thêm phê phán cảm xúc về 'thích' hay 'không thích'
trên nhận thức về quả táo. Quả táo chỉ là quả táo, tốt hay thối. Bạn có
thể lấy nó hay bỏ nó. Bạn có thể có phán đoán luận lý về nó. Nhưng vấn
đề là chúng ta lại phán đoán dựa trên cảm xúc. Ðây là điều mà chúng ta
cần hiểu rõ. Khi chúng ta phê phán dựa trên cảm xúc, chúng ta làm cho
tâm bị gợn sóng. Những gợn sóng nầy tạo thành sóng lớn hơn và phút chốc
bão tố có thể nổi lên, làm cho tâm bị xáo động. Tựu trung là chúng ta
mất liên lạc với sự im lặng bên trong, tức tâm bình an.
Nên nhớ nhị nguyên tạo ra tâm khái niệm. Chúng ta thích bám níu vào
những gì chúng ta đã tạo ra. Nhị nguyên do chúng ta tạo đã trở thành một
vật sở hữu . 'Tôi' muốn bám giữ ý tưởng 'của tôi' về cái đúng, cái đẹp,
cái tốt lành. Do đó tâm chúng ta bị cứng ngắc, và cuối cùng chúng ta
nhìn thế giới qua những khe hở nhỏ hẹp. Bằng tỉnh giác , sự phê phán sẽ
dừng lại. Khi không còn phê phán thì bạn nhìn sự vật đúng như thật tế ,
đây là cách duy nhất để bạn thoát ra khỏi nhị nguyên , thế giới sẽ mở
rộng ra và Từ Bi Hỉ Xã sẽ đem lại sự cảm thông với người khác .
TỨ DIỆU ÐẾ TRONG ÐỜI SỐNG THƯỜNG NGÀY
Tứ Diệu Ðế là cột trụ của Phật giáo. Hiểu chúng sẽ giúp cho đời sống
thường ngày của bạn được tốt đẹp hơn . Chân lý thứ nhất về Khổ ( Dukkha)
phải được hiểu là bao gồm kinh nghiệm của con người từ sự bất mãn nhỏ
nhoi đến sự đau khổ tột cùng . Ðó là sự kiện không thể tránh được của
Sinh – Lão – Bệnh - Tử . Trong ý nghĩa thâm sâu nhất, Khổ là không hiểu
được tính giả tạm của mọi vật , chính nó là nguyên nhân của Ðau Khổ và
như thế các chân lý còn lại chỉ là con đường thoát khổ .
Giả dụ bạn phiền hà vì tiếng động và muốn chấm dứt nó . Sự ham muốn nầy
nổi lên từ sự bất mãn của bạn với hiện tại . Sự ghét bỏ đó là một tình
trạng căng thẳng . Nhưng bạn không nhận thức được sự ghét bỏ và sự đau
khổ nó đem đến. Bạn cho Khổ là do người nào hay việc nào khác gây nên.
Sự thiếu nhận thức nầy gọi là Vô Minh hay Ngu Dốt, ngu dốt về Tứ Diệu Ðế
. Sự ngu dốt nầy được diễn tả là tình trạng thiếu tỉnh giác. Ngay lúc
này bạn hãy nhìn vào tâm của bạn . Và khi bạn ý thức về sự bực bội, sự
ghét bỏ tan đi. Nó tan mất vào tâm. Sự bực bội sẽ bớt đi nhiều vì vấn đề
không phải là đem sự bực tức ra khỏi tâm. Vấn đề là chấp nhận sự kiện
mình đang bức rức và bực bội. Vấn đề không phải là tiếng ồn, mà là phản
ứng của bạn với nó. Bạn phải đối phó với mình trước khi đối phó với
tiếng ồn là phải làm gì đây? Trong đời sống có nhiều trường hợp mà bạn
không thể loại trừ được những yếu tố bên ngoài. Chúng ta không thể loại
trừ hay kiểm soát hầu hết ngoại duyên trong đời sống, nhưng chúng ta có
thể làm một cái gì cho chính mình. Bạn bắt đầu với chính bạn. Bởi vì bạn
được sinh ra với ý chí tự do, nên bạn có thể làm bất cứ điều gì với
chính mình. Bạn không thể chấm dứt tiếng ồn, vậy bạn phải lựa chọn chấp
nhận nó . Bạn phải phân biệt giữa chấp nhận một cách mù quáng và chấp
nhận một cách thông minh. Chấp nhận chỉ có thể được trọn vẹn nếu bạn
không chứa chấp sự phê phán. Bây giờ bạn hãy nhìn lại trong tâm của bạn
xem sao ? Sự bực bội đã biến mất . Bạn đã thấy là mình có thể phá vỡ
được chu trình đau khổ bằng cách chỉ nhìn vào trong tâm trạng của mình.
Ðây thực ra là sự tỉnh giác của tâm, là căn bản của sự tu tập 'thiền
quán tâm' (Sati-patthana) trong Phật giáo. Sự chấp nhận tiếng ồn là kết
quả của sự tỉnh giác. Sự tỉnh giác là hành động siêu thoát. . Sự chấp
nhận mà chúng ta đang nói đây là sự tự nhiên và tức thời hòa nhập và làm
một thể với môi trường .
Sự bất mãn của bạn với tình trạng ồn là chân lý thứ nhất về Khổ - tức
Dukkha. Sự ham muốn hay khao khát được yên tịnh là chân lý thứ hai -
Samudaya - tức Tập, hay là nguyên nhân của Khổ. Giây phút bạn được tự do
thoát khỏi sự bực bội về tiếng ồn là Nirodha (Diệt) tức chân lý thứ ba.
Khi bạn tu tập tỉnh giác, thực ra bạn đang thực hành Magga, hay Bát
Chánh Ðạo. Bạn đang Chánh Tinh Tiến (gọi là Samma Vayama) để tu tập Tỉnh
Giác tức Chánh Niệm (gọi là Samma Sati ) về sự bực bội của bạn. Do đó
tâm bạn được tập trung, tức Chánh Ðịnh (gọi là Samma Samadhi ). Khi bạn
siêu việt sự không thích tiếng ồn và không còn khó chịu, ngay lúc đó bạn
có thể nghe tiếng ồn như thực tế , đây là Samma Ditthi hay là Chánh
Kiến. Khi bạn không mong đợi nó chấm dứt hay trở nên ồn hơn, đó là Chánh
Tư Duy (samma sankappa). Bạn có thể nói lên tình hình với nhận thức
đúng đắn, gọi là Chánh Ngữ (samma vaca). Bây giờ bạn không muốn có những
hành động bậy bạ, đó là Samma Kammanta, tức Chánh Nghiệp. Từ Chánh
Nghiệp nầy , bạn đã thực hiện Chánh Mạng (samma ajiva).
TÍNH HỢP NHẤT CỦA BÁT CHÁNH ÐẠO
Trong Phật giáo, Bát Chánh Ðạo là con đường dẫn tới sự giải thoát. Muốn
hiểu Bát Chánh Ðạo và áp dụng nó vào đời sống, chúng ta phải nhìn nó với
sự hợp nhất của thân, khẩu và ý và trên bình diện Tuệ - Giới – Ðịnh
(Panna, Sila và Samadhi.)
Mục đích chánh của Giới là để tránh làm tổn hại người khác bằng ngôn ngữ
và hành động xấu - nhưng bạn phải giới hạn mình tới mức độ nào trong
mọi lúc đây? Hành động của tâm, khẩu và thân xảy ra liên tiếp nhau rất
nhanh đến nỗi hình như là không có khoảng trống ở giữa. Khi tư tưởng vừa
nổi lên thì chúng ta thấy mình nói năng hay làm chuyện gì rồi. Chúng ta
thấy mình không thể kiểm soát lời nói và hành động mình đủ nhanh để
tránh làm tổn hại đến người khác. Nhưng sự tỉnh giác (sati) của bản tâm
sẽ làm cho nó cảnh giác về hành động và lời nói của chính nó. Làm sao
chúng ta có thể quay ngược sự chú ý vào bản tâm? Con đường tu tập tỉnh
giác là cách phá được thói quen bận tâm về ngoại cảnh để có ý thức về
những gì xảy ra bên trong, trong tâm chúng ta khi chúng ta sinh hoạt
thường ngày. Khi sự tỉnh giác hay chánh niệm (samma sati) xảy ra, chúng
ta thấy tâm mình không còn hành động nữa, nó dừng lại như là một chứng
nhân để nhìn vào trạng thái bên trong. Khi sự quán tâm nầy đã trở thành
thói quen cố định, như là bản chất thứ hai, thì chu trình phản ứng vô ý
thức đối với ngoại cảnh bị phá vỡ. Trong giây phút đột phá nầy, sự 'thấy
biết' hay 'ý thức' xảy ra: đó là sự nhận thức trong sáng như pha-lê về
sự vật đúng như thực tế, về tình huống và nhân vật trong nhãn quan vô
phân biệt, không có 'thích và 'không thích'. Từ tuệ giác mới mẻ nầy -
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp sẽ tiếp theo - tương đối và
thích ứng với mỗi trường hợp, không còn vấn đề tuyệt đối đúng hay tuyệt
đối sai nữa. Do đó, Giới Ðịnh Tuệ có thể được bao gồm trong từng giây
phút tỉnh giác của đời sống thường ngày - ngay khi bạn ăn uống, làm
việc, giải trí hay phấn đấu. Tóm lại, đời sống của bạn chính nó đã trở
thành Bát Chánh Ðạo.
NĂNG ÐỘNG CỦA TÍNH THIỀN
Trong một vài hình thức tọa thiền, người ta có thể đạt tới một tình
trạng mà tâm thức hoàn toàn vắng lặng, tập trung và tự chế, gọi là Vô
Tưởng Ðịnh (jhanic samadhi). Trong tình trạng thiền định nầy, hành giả
không thể sinh hoạt được. Ðây chỉ là một tình trạng tạm thời mà hành giả
sẽ ra khỏi. Nhưng chúng ta đã nói về một lối thiền định khác, không qua
tình trạng Vô Tưởng Ðịnh. Nếu bạn tu tập tỉnh giác trong đời sống
thường ngày như là bạn đang kinh nghiệm ngay lúc nầy, bạn không phải đi
qua tình trạng tự chế đó. Tiến trình thiền định luôn luôn tích cực mặc
dù bạn tọa thiền hay thiền trong sinh hoạt thường ngày. Trong lối thiền
tĩnh tọa, mặc dù thân thể ngồi yên, tâm chúng ta vẫn tích cực quán, nó
có tỉnh giác về thân hay tâm. Thiền định là kỷ luật nội tâm cuối cùng sẽ
đưa tâm ta về tình trạng thanh tịnh hóa.
Thiền định không làm cho bạn trở nên một người ù lì, vô tưởng hay vô cảm
. Thật ra thiền định đem lại những gì tốt đẹp nhất trong bạn - tình
thương, sự nồng ấm và nhạy cảm đối với mọi chúng sinh. Sự tu tập tỉnh
giác, mặc dầu là trong lối tọa thiền hay sinh hoạt thiền, là một tiến
trình tích cực và tiếp diễn. Trong tọa thiền, mặc dầu thân ngồi yên, tâm
ta vẫn tích cực quán và có ý thức về thân tâm. Trong sinh hoạt thiền
cũng thế, tâm tích cực tự quán mà không phụ thuộc vào cử động hay thời
gian. Cái kỷ luật tâm linh trong mỗi hình thức là điều tối quan trọng sẽ
đưa tâm chúng ta tới tình trạng thanh tịnh. Không phải tư thế ngồi đưa
tới sự giác ngộ, mặc dầu tư thế cũng hữu ích khi giúp cho tâm tự an
định. Nếu bạn hiểu rõ điều nầy, bạn có thể thiền định bất cứ ở đâu và
bất cứ lúc nào.
B.- PHẢN ÁNH THIỀN
TẬP TRUNG VÀ THIỀN ÐỊNH
Ðối với nhiều người, hành động tập trung tâm ý được coi như đồng nghĩa
với thiền định. Chẳn hạn khi họ làm việc gì một cách tập trung - đọc
sách, làm việc, chơi gôn - là họ đang thiền định rồi. Ðiều nầy chỉ đúng
một phần thôi. Thật ra, tập trung tâm ý (gọi tắt là Ðịnh) chỉ là một
phần của thiền định. Tinh yếu của thiền định là nhằm đạt tới một sự hiểu
biết cao hơn, tức là trí tuệ (panna), là tỏa rộng tâm mình ra khỏi
những giới hạn của trí thức để đi vào lãnh vực của trực giác, của trí
tuệ (hay tuệ giác).
Mục tiêu của việc tập trung ý trong làm việc hay tiêu khiển hoàn toàn
khác với mục tiêu của thiền định . Trong khi làm việc , bạn chỉ quan tâm
đạt đến một cái gì ở ngoài bạn như như là làm ăn thành công, thắng
cuộc chơi gôn, hoàn tất một thí nghiệm khoa học, vv...Trong thiền định,
trái lại, sự thành tựu là ở bên trong, sự thành tựu của tự ngộ và tuệ
giác tâm linh. Trong những giai đoạn đầu tiên của thiền định, có thể bạn
cần tập trung tâm ý trên một đối tượng ở ngoài tâm, như là chót mũi,
hay là cử động lên xuống của bụng dưới, cho đến khi tâm được tập trung ở
một điểm. Sự tập trung tâm ý ở một điểm nầy cũng xảy ra khi chúng ta
làm việc hay vui chơi, nhưng sự tương đồng giữa tập trung và thiền định
chấm dứt ở đây. Trong khi thiền định là tâm tập trung đang tiến về hướng
triển khai tuệ giác, tức là tu Quán (vipassana, cũng gọi là Minh Sát
Thiền). Nhận thức của tâm tự động chuyển về trên chính tâm đó, và tâm
nầy tự ý tập trung trên những hoạt động hay tiến trình của chính nó, để
cuối cùng đưa hành giả đến tự giác thật sự (tức đắc ngộ). Sự giác ngộ
do thiền định có tính cách trực giác và tâm linh.
Trong sự xuất thần của các hoạt động như vẽ tranh hay phổ nhạc, vv...
người biết, cái bị biết và sự biết không hoàn toàn biến mất. Ðiều xảy ra
là, trong những giây phút hoạt động nghệ thuật cao độ đó, người nghệ sĩ
kinh nghiệm được một loại hạnh phúc trong đó ý niệm về cái 'tôi' tan đi
một phần lớn, nhưng không hoàn toàn. Ngoài ra, nhà nghệ sĩ cũng còn có ý
thức về đối tượng, dù đó là vẽ tranh, phổ nhạc hay cái gì khác. Do đó,
cái bị biết cũng không hoàn toàn tan mất. Tôi gọi loại kinh nghiệm nầy
là 'kinh nghiệm bán-tâm-linh' bởi vì nó gần với kinh nghiệm xuất thần
của thiền định, nhưng không hoàn toàn giống. Trên phương diện khác, loại
hạnh phúc do
miệt mài nghệ thuật nầy làm cho người nghệ sĩ trở nên nhạy cảm và tâm
linh hơn đa số người khác.
Như vậy, hai loại hiểu biết nầy hoàn toàn khác nhau về tính chất, và nhằm những mục tiêu hoàn toàn khác nhau.
TỈNH GIÁC VÀ NHẬN THỨC
Thông thường, sự nhận thức của chúng ta rất bận bịu với tình thế bên
ngoài, với những gì mà chúng ta tiếp xúc qua sáu căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý). Nói chung, chúng ta đều phản ứng đối với những cảm xúc
nầy theo thói quen. Con người lập đi lập lại việc nầy mà không nhận thức
được những gì đang xảy ra trong tâm. Trong Phật giáo, điều nầy gọi là
vô minh (avijja). Ðây không có nghĩa là ngu dốt về trí thức, mà đặc biệt
là sự thiếu sót tuệ giác về chính mình .
Bình thường bạn cũng có thể biết bản tâm của bạn . nhưng chỉ là một cách
lười biếng. Thí dụ như khi bạn trải qua một cảm xúc sôi nổi, bạn chỉ
nhận biết nó khi biến cố đã xong. Ngay trong lúc náo động thì bạn bị lạc
mất trong sự rối loạn. Bạn thường chú tâm đến những yếu tố bên ngoài mà
bạn nghĩ là đang ảnh hưởng đến bạn . Thí dụ như trường hợp bạn đang ăn.
Sự chú tâm của bạn tập trung trên thức ăn: mùi vị và hình sắc của nó.
Nếu thức ăn không đúng như yêu cầu, bạn lập tức phản ứng lại với sự bực
bội - hay cả đến sự nóng giận nếu gặp lúc bạn không vui. Rồi bạn có thể
trút sự giận dữ của mình trên người hay vật mà bạn tiếp xúc.
Tâm tỉnh giác là tâm tự nhiên nhận thức. Không có hành động nào ở đây,
chỉ là một sự tập trung và tức thời nhận biết mà nó 'thấy' được. Ở đây,
sự tỉnh giác là nguyên nhân mà sự nhận thức là hậu quả. Bạn không thể tu
tập hậu quả được. Bạn chỉ có thể tu tập cái gì tạo ra nó. Bạn phải bắt
đầu tu tập Tỉnh Giác để cho Nhận Thức xảy ra bên trong bạn.
Thường thì tâm chúng ta luôn luôn di động, suy nghĩ, cảm xúc, lan man từ
đối tượng nầy sang đối tượng khác. Bởi vì sự di động liên miên nầy mà
ít có chỗ cho sự nhận thức xảy ra. Sự nhận thức có thể thoáng qua, nhưng
nó rất nhát nhúa. Nó lười biếng và cùn nhụt. Thường thì những tư tưởng
ồn ào và cảm xúc chế ngự bản tâm. Tâm bạn phải thoát khỏi chu kỳ miên
viễn nầy để cho sự nhận thức có thể xảy ra hoàn toàn , tâm phải tự điều
chỉnh, quay sự chú ý bên ngoài vào sự tỉnh giác về chính nó. Khi bạn
hướng tâm như thế, bạn thay thế các hoạt động khác của tâm bằng sự tỉnh
giác. Thay vì bị kẹt trong những hoạt động tâm lý đó, bạn chỉ còn lại sự
'chú tâm'. Ở mỗi giây phút, tâm chỉ có thể ở một trạng thái nào đó. Thí
dụ như, khi có sự nóng giận trong tâm thì không còn chỗ cho hạnh phúc.
Khi có sự tỉnh giác chiếm ngự toàn tâm thì không còn chỗ cho tư tưởng
hay cảm xúc nổi lên ngay lúc đó. Chỉ có sự chú ý hoàn toàn. Khi sự chú ý
nầy được trọn vẹn, cái trạng thái giao động của bản tâm bị phá vỡ, tâm
bạn tìm được chỗ đứng cân bằng trong chính nó. Thế rồi sự nhận thức sẽ
tự nhiên xảy tới.
TRONG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
Tại sao bạncảm thấy rất tươi mát khi đến một nơi hoàn toàn khác lạ với
khung cảnh quen thuộc? Ðiều nầy rất thông thường. Thông thường bạn cảm
thấy ngột ngạt và tù túng bởi nếp sống. Bạn cảm thấy cần rời xa tất cả,
để nghỉ ngơi và để tìm những kinh nghiệm mới và có thể duy trì bản
thân.
Nhưng bạn nên hiểu rằng không phải chính là cảnh sống ngột ngạt thúc đẩy
bạn đi tìm thư giãn tạm thời, mặc dù điều nầy cũng giúp phần nào.
Nguyên nhân chính là vì tâm bạn không được tự do nên bạn không thể kinh
nghiệm được trọn vẹn và đầy đủ giây phút hiện tại.
Nhưng, bạn thử nghĩ xem, cái gì làm cho bạn cảm thấy hài lòng và thỏa
mãn? Bạn chỉ được hài lòng và thỏa mãn khi nào bản tâm không còn ham
muốn và bám níu, bởi vì chỉ có một tâm hồn tự do mới có thể kinh nghiệm
được giây phút hiện tại một cách trọn vẹn và đầy đủ.
Ðối với một tâm hồn không còn ham muốn, không còn xung đột và bực bội,
mỗi giây phút trôi qua đều tươi mát và mới mẻ. Nếu tâm bạn lúc nào cũng
nặng trĩu đấu tranh và bực dọc thì bạn không thể kinh nghiệm giây phút
hiện tại một cách trọn vẹn được. Không có sự trong sáng và chỗ trống cho
kinh nghiệm thực tại. Trong tình hình như thế thì bạn sống trong quá
khứ hay tương lai; kinh nghiệm hiện tại chỉ là một phần thôi. Bạn chỉ
nhận thức được một phần của hiện tại, tạm nói như thế. Bạn không kinh
nghiệm được sự tươi mát của giây phút hiện tại, và niềm hoan lạc của mọi
sự vật mà bạn tiếp xúc. Do đó bạn đi tìm sự tươi mát ở nơi khác, với
những người khác và những mối liên hệ khác, vv...Tuy nhiên, chu trình
buồn chán vẫn tiếp tục vì cội rễ của vấn đề không phải ở hoàn cảnh mà là
ở chính bên trong bạn.
THIỀN VÔ THIỀN
Bạn thấy, hình thức thiền quán định-chế đã trở nên cực kỳ phổ thông
trong các xứ Phật giáo Á châu và ở Tây phương. Dù các viện chủ và thiền
sư dùng phương pháp nào, ta thấy cũng có một điểm chung: một hệ thống
hay hình thức trong đó thiền sinh tu tập thiền định. Do đó, thiền định
đã trở nên đồng nghĩa với tọa thiền.
Bạn thấy, tư thế ngồi chỉ là công cụ cho một kỷ luật quan trọng hơn của
bản tâm. Tư thế ngồi tự nó không phải là để luyện thân, mà là để luyện
tâm trong nghệ thuật tỉnh giác, và tiến xa hơn nữa. Trong lối thiền
chính thức, bạn chú tâm ở một điểm trên trên thân thể - có thể là hơi
thở hay cảm giác - để loại trừ mọi tư tưởng, cảm xúc hay hoạt động trí
thức khác của bản tâm. Trong tiến trình nầy, bạn học cách quán tâm mà
không phê phán hay phân biệt, và cũng học cách buông xả.
Bạn có thể quán tâm trong khi ngồi yên lặng trong tư thế tọa thiền, hay
là bạn cũng có thể quán tâm trong khi sinh hoạt thường ngày. Cách nào
cũng được, tùy theo cá tính của bạn.
Trong lối thiền không định chế, bạn phải đối diện với chính mình rất
thường. Muốn buông xả, trước hết bạn phải đối đầu với bản ngã và niềm tự
hào của mình. Không ai muốn đối đầu với bản ngã, vì điều nầy quá đau
đớn. Cần có sức mạnh tâm linh lớn mới có thể làm được. Trong lối thiền
không định chế nầy, sự đối đầu với bản ngã chính nó là hành động thiền
của bản tâm. Nó đòi hỏi sự tỉnh giác (sati), cố gắng, định (samadhi: tâm
tập trung) và xả (upekha: tâm bình thản). Có thể là nó không cần kỷ
luật nghiêm khắc cho thân thể, nhưng nhất định là nó đòi hỏi sự kiên
nhẫn và kỷ luật nghiêm khắc cho bản tâm.
Chúng ta phải có đủ can đảm đối diện với chính mình. Ðó là một sự phấn
đấu lớn lao, nó đòi hỏi sự cố gắng và lòng can đảm để thực hành. Nhưng
thật ra, đây là một sự cố gắng mà không cần cố gắng. Trong Phật giáo gọi
là Vô Vi (viriya). Ðiều nầy có thể xảy ra trong sinh hoạt thường ngày
hay trong khi ngồi thiền. Ðường lối thực hành của thiền vô thiền không
có một hình thức nghiêm khắc hay định chế nào, nhưng tất cả những phẩm
chất của Thất Bồ Ðề Phần (bojjhanga) - tức là Bảy Yếu Tố Cho Sự Giác Ngộ
- đã được gồm đủ trong tiến trình học tập. Ðó là Tỉnh Giác, Tham Cứu,
Năng Lực, Niềm Vui, An Tịnh, Tập Trung và Bình Thản. Bạn đã học tập tỉnh
giác với sự kiên nhẫn trong nội dung của sinh hoạt thường ngày, điều
nầy làm cho tâm bạn càng ngày càng được tập trung hơn, tức là Ðịnh
(samadhi). Không những thế - hành động tỉnh giác trong sinh hoạt thường
ngày cũng là một tiến trình tham cứu với sự bình thản vào trong tính
chất của bản tâm.
C.- LỐI SỐNG SÁNG TẠO
LỐI SỐNG SÁNG TẠO
Nhiều người cho Phật pháp có tính cách cá nhân nhưng chúng ta không phải
là những sinh vật cô lập. Chúng ta sống trong xã hội. Như vậy những gì
ảnh hưởng tới cá nhân sẽ ảnh hưởng tất cả những người chung quanh. Phật
giáo tập trung rất nhiều trên sự giác ngộ của mỗi cá nhân. Mặc dầu Phật
giáo không bỏ quên cộng đồng, nó phải bắt đầu với cá nhân. Khi mỗi cá
nhân được chính trực và hoàn toàn được cân bằng ở nội tâm, tự nhiên kéo
những người khác vào sự hài hoà đó, và cả cộng đồng nữa. Ðiều nầy xảy
ra do hai yếu tố căn bản : kiên nhẫn và trí tuệ (panna) .
Nếu bạn kiên nhẫn và bao dung nhưng thiếu trí tuệ, sự kiên nhẫn và bao
dung đó có thể mang hình thức thụ động. Trong trường hợp đó, bạn có thể
tự để cho mình bị người khác lạm dụng bằng nhiều cách. Ðó không phải là
lối sống thông minh, bởi vì sống thông minh là phải tránh hai thái cực:
thụ động và nóng nảy.
Thời nay, người ta luôn luôn sống vội vàng và có khuynh hướng bị bịnh
thiếu kiên nhẫn. Bạn bị lây bịnh thích hành động tức khắc, làm liền,
khởi sự liền, và làm cái gì trong sự hối hả. Bạn không dành thì giờ để
suy tư, dừng lại, nghiền ngẫm, và để cho sự vật tự chúng phô diễn. Bạn
có khuynh hướng phản ứng bằng một tâm thức có nề nếp rối loạn - thay vì
hành động một cách bình tĩnh và tập trung - do đó bạn tạo thêm rắc rối.
Hành động nào thiếu trí tuệ thì có tính phá hoại. Sống thông minh có
nghĩa là quán xét và nhìn thấy giây phút thích hợp, cơ hội thích hợp và
tình thế thích hợp để có thể hành động. Trong Phật giáo, đây gọi là
Chánh Nghiệp (samma kammanta), tức hành động khôn khéo và trọn vẹn. Tóm
lại, sống thông minh có nghĩa là sống khôn khéo và sáng tạo.
THƯƠNG VÀ GHÉT
Thương và ghét không khác nhau. Chúng là hai khía cạnh của tâm phân
biệt, giống như hai mặt của một đồng xu. Ban đầu chúng khác nhau, nhưng
chúng đều phát xuất từ thói quen phân biệt, và đều dẫn tới đau khổ. Bạn
thương hay ghét một người nào là căn cứ trên sự 'thích' hay 'không
thích'. Bạn tự động phân loại người khác tùy theo những định kiến của
bạn. Nếu họ đáp ứng được lý tưởng của bạn và có vẻ hợp với sở thích thì
tâm bạn lập tức bám níu vào họ; nhưng nếu họ thuộc loại không hợp với sở
thích thì tâm bạn bắt đầu chối từ họ. Bằng cách nầy, bạn đi tới Thương
và Ghét. Ðiều nầy có nghĩa là tình thương của bạn thay đổi với tình
huống, có nghĩa là cảm xúc của bạn là vô thường, tương đối với thời gian
và nơi chốn. Ðây là điều mà Ðức Phật gọi là Maya, ảo tưởng của tâm
thức. Cảm xúc của bạn là ảo tưởng sinh ra từ tâm khái niệm; chúng phát
xuất từ bản ngã. Theo Phật giáo, bởi vì bản ngã chỉ là ảo tưởng, tất cả
những gì phát sinh từ tâm khái niệm cũng đều là ảo hóa. Nó không có thực
chất, thường tính và bình an tính. Do đó tình thương thế tục là không
bền, nó có thể trở thành sự ghét. Chúng ta tự mình không có thương và
ghét. Chỉ khi nào bạn bắt đầu thích hay không thích thì bạn mới bị rắc
rối bởi cảm xúc sau đó. Ngay khi bạn vừa nhận ra rằng chúng nó chỉ là ảo
tưởng do bạn tự tạo ra, bạn được tự do. Bạn đã trở về tình trạng ban
đầu trong đó không có thương và ghét.
HẠNH PHÚC
Không có cái gì gọi là cảm giác hạnh phúc thường trực và vĩnh cữu trong
cõi đời nầy. Khi bạn gặp người, sự vật, hoặc biến cố làm bạn hài lòng –
bạn có cảm giác sung sướng hay khoái lạc - nhưng đó chỉ là tạm bợ.
Bạn mơ ước cảm giác khoái lạc, nghĩ rằng nếu chúng ta có được tất cả
những gì mong muốn thì bạn sẽ được hạnh phúc. Khi bạn cố tìm hạnh phúc ở
bên ngoài, cuối cùng bạn ở trong vòng lẩn quẩn. Bạn không bao giờ có
được sự thỏa mãn trọn vẹn từ người khác, và bạn cũng không thể cho họ
điều đó được. Ngay khi bạn cố tìm hạnh phúc, thì bạn đã ở trên con đường
không hạnh phúc rồi. Bạn chỉ tìm được hạnh phúc khi bạn ngưng đi tìm
nó. Ðó là mâu thuẫn. Ngay giây phút bạn muốn hạnh phúc, bạn bắt đầu bám
níu vào nó trong bản tâm. Trước tiên, bạn bám níu vào ý niệm riêng của
con người về hạnh phúc. Bạn liên hệ với thế giới bên ngoài như là suối
nguồn thỏa mãn và bạn đi tìm những gì bạn cho là có liên hệ với hạnh
phúc - như là gom chứa tài sản, thành công, danh vọng hay quyền thế.
Ngay khi bạn bám níu với bất cứ ý niệm nào - hạnh phúc, thành công hay
cái gì khác – bạn đã bị căng thẳng rồi. Sự bám níu chính nó là một tình
trạng căng thẳng, và những gì phát xuất từ nó cũng là căng thẳng. Thí dụ
như bạn nắm tay lại thành một nắm. Ngay khi bạn bắt đầu nắm tay lại,
bạn phải dùng năng lượng để giữ cho các ngón tay liền chặc với nhau. Khi
bạn buông nắm tay, bàn tay bạn lại được tự do. Tâm của bạn cũng thế.
Khi nó ở trong tình trạng nắm chặc, nó không bao giờ có tự do. Nó không
bao giờ có thể kinh nghiệm được bình an và hạnh phúc, dù cho bạn có được
tất cả tài sản, danh vọng và quyền lực trên thế gian nầy.
Vậy thì làm sao chúng ta có lối thoát? - Chỉ có cách buông xả thôi , buông xả dục vọng muốn được hạnh phúc của bạn.
LÒNG TỪ BI
Tâm Bi (karuna trong tiếng Pàli) là một trong bốn vô lượng tâm (brahma
viharas), tức là bốn đức tính tự có sẳn của Trí Tuệ (panna). Ba đức tính
khác là tâm Từ (metta: tình thương vô điều kiện), tâm Hỉ (mudita: tâm
hoan hỉ, không ghen ghét) và tâm Xả (upekha: tâm bình thản). Một hành
động bi mẫn không phải biệt lập, mà nó cũng biểu hiện những đức tính
khác của Trí Tuệ. Bạn cũng phải phân biệt giữa việc làm tròn bổn phận
một cách lãnh đạm, và hành động với tâm Từ và tâm Bi. Chỉ có một sự cách
biệt rất nhỏ giữa hai loại hành động nầy. Sự lãnh đạm là kết quả của
sự thiếu quan tâm, thiếu tình thương. Trong khi đó sự bình thản phát
sinh từ trí tuệ và tình thương. Tự nó không phải là một đức tính biệt
lập. Nó là một phần trong toàn bộ của Trí Tuệ, tâm Từ, tâm Bi và tâm Hỉ.
Cũng thế, tâm Bi không phải là cảm xúc biệt lập. Nếu nó biệt lập thì đó
có thể chỉ là cảm xúc phát sinh do sự điều-kiện-hóa hạnh kiểm dựa trên ý
tưởng về lòng Bi, chớ không phải thật sự là lòng Bi. Lòng Từ và lòng Bi
thật sự, là những biểu hiện tức thời của Trí Tuệ (panna). Nếu có Trí
Tuệ thì đã có Từ, Bi, Hỉ và Xả rồi. Như vậy ,trí tuệ và tình thương sẽ
kiểm soát và quân bình tâm Xả .Tình thương giữ cho bạn còn dấn thân vào
tình thế; lòng Bi làm cho bạn hòa đồng với người khác, sự bình thản (tâm
Xả) giúp bạn siêu thoát cảm xúc và nhìn sự vật một cách khách quan; và
trí tuệ giúp bạn nhận ra giải pháp đúng đắn cho vấn đề hay tình thế, có
lợi cho chính bạn và người khác.
Tâm Hỉ là niềm vui có thể đến trong toàn bộ hành động nầy . Một hành
động sẽ không có niềm vui nếu nó được làm trên căn bản bổn phận thuần
túy. Niềm vui cũng thiếu nếu bạn giúp người vì thương hại. Bổn phận và
sự thương hại thì chưa đủ cho lòng Bi thật sự. Niềm vui chỉ có mặt khi
hành động phát xuất từ trí tuệ, tình thương, lòng bi mẫn và sự bình
thản. Hành động đó đầy niềm vui vì nó không bị câu thúc bởi sự bám níu
hay đè nặng bởi lo âu và căng thẳng.
Tình thương và niềm vui làm cho lòng Bi được vững bền. Người ta không bỏ
cuộc dễ dàng cho đến khi đạt được kết quả tốt trong nghịch cảnh. Một
hành động đầy niềm vui không bám níu vào cảm xúc sẽ làm cho sự dấn thân
được hoàn mãn.
Tâm thức phải hoàn toàn không bị bám níu thì lòng Bi mới thật sự đến.
Mỗi tình thế là duy nhất và không giống với tình thế khác, nên chúng ta
phải đối phó với nó một cách khác biệt, tùy theo yêu cầu và lợi ích của
tình thế cá biệt đó. Nếu không có tuệ giác sáng tỏ và nếu hành động của
bạn đem lại tai hại, thì bạn và người khác phải đau khổ một cách vô ích.
TÂM BÌNH THẢN VÀ TÂM LÃNH ÐẠM
Trước đây, bạn bị điều kiện hóa để bám níu vào tất cả. Khi bạn học Phật
pháp, bạn được dạy cách tách ly hay buông xả; tuy nhiên thay vì bám níu
vào mọi sự vật, bây giờ bạn lại bám níu vào ý niệm buông xả. Do đó bạn
bị điều kiện hóa quá mức theo chiều ngược lại. Bạn buông xả hầu như tất
cả. Do đó khi phải đối diện với một tình thế, bạn có khuynh hướng buông
xả cả tình thế lẫn nhân vật. Kể cả buông xả cũng có thể trở thành thói
quen. Ý niệm buông xả cũng chỉ là một khái niệm. Khái niệm nầy có ích
khi bạn bắt đầu học Phật, hay khi bạn tu tập thiền định. Nhưng cuối cùng
bạn trở thành quá giỏi trong việc tách ly, đến nỗi bạn không nhận ra là
mình đang bám níu vào một khái niệm khác. Từ khái niệm bản ngã bạn
chuyển qua khái niệm vô ngã, cái ý tưởng là 'nó không can hệ gì đến
tôi'. Ðiều nầy dẫn đến sự dửng dưng và thiếu quan tâm đến người khác. Do
đó, bạn có thể vô tình đóng kín lòng mình và cả trái tim đối với những
người thân nhất. Ðiều nầy tạo ra ngăn cách giữa bạn và những người liên
hệ. Ðây chính là sự lãnh đạm . Tình thương chỉ đến trong một tâm hồn
hoàn toàn tự do, không bị dính níu với bất cứ khái niệm nào - ngay cả
với khái niệm buông xả. Bạn phải học cách tự giải thoát mình khỏi khái
niệm buông xả bằng cách tỉnh giác về giây phút hiện tại. Chỉ trong những
giây phút tâm được hoàn toàn tự do thì sự bình thản (tâm Xả) mới siêu
thoát được cả hai tình trạng tâm thức dính níu và tách ly.
LẠC THÚ GIÁC QUAN
Rõ ràng là xã hội tân thời đã quá chú trọng đến lạc thú xác thân đến nỗi
trở thành nô lệ cho chúng. Chúng ta hãy nhìn một cách khách quan vào
cội rễ của vấn đề. Bằng không, chúng ta lại rơi vào cạm bẫy của sự chối
bỏ thế giới giác quan hay chạy trốn nó, và cuối cùng thì điều nầy cũng
tai hại như là làm nô lệ cho chúng. Có thể chúng ta bị kẹt cứng trong sự
chối từ thế giới giác quan.
Nếu bạn nghĩ rằng quá chú tâm tới thế giới giác quan là cội rễ của vấn
đề, thì bạn có thể có cảm giác tội lỗi khi hưởng thụ lạc thú. Bạn có thể
trở nên sợ hãi việc kinh nghiệm lạc thú giác quan. Ðiều nầy dẫn tới sự
trốn tránh và ám ảnh sợ hãi, nếu bạn không cẩn thận.
Sự khao khát lạc thú xác thân phần lớn là do cảm giác bất an và sự thiếu
tuệ giác. Bạn không biết mình thiếu cái gì, nên chạy tìm ở bên ngoài.
Bạn cố lấp đầy khoảng trống cảm xúc bằng đủ loại giải trí. Và dĩ nhiên,
với ngành thương mại ào ạt hiện nay, việc thuận tiện nhất cho bạn là đắm
mình vào đủ loại kinh nghiệm đem lại lạc thú giác quan. Nhưng rồi thế
nào bạn cũng nhận thấy là chu trình trụy lạc - tìm kiếm không có chấm
dứt. Không thể có sự thỏa mãn tuyệt đối và bền lâu từ lạc thú xác thân,
bởi vì bạn không có tự do trong giây phút hiện tại.
Tâm trong tình trạng bất an, cần phải bám níu vào một cái gì - sở hữu
vật chất, lạc thú giác quan, giải trí, tài sản, danh tiếng, thành công,
...gần như bất cứ thứ gì trên thế gian nầy - để lấp đầy khoảng trống cảm
xúc. Thật ra, những thứ nầy chỉ cho bạn cảm giác an ninh giả dối hay sự
thỏa mãn tạm thời thôi.
Chính là sự tìm kiếm an ninh đã làm cho tâm bạn bất an; bởi vì tâm bị
trói buộc vào sự tìm kiếm cho nên nó không được tự do kinh nghiệm những
gì có thể tìm được trong giây phút hiện tại. Bạn có khuynh hướng phóng
tâm vào tương lai, cho nên bạn không thể sống hoàn toàn trong giây phút
hiện tại; chúng ta chỉ kinh nghiệm được hiện tại phần nào thôi. Do đó
bạn không kinh nghiệm được sự tươi mát của giây phút hiện tại. Nhưng nếu
mỗi giây phút xảy tới được kinh nghiệm trọn vẹn, vẻ đẹp và niềm vui của
khung cảnh chung quanh sẽ trở nên rất hiển nhiên đến nỗi bạn không cần
tìm sự thỏa mãn ở nơi nào khác.
Bạn hãy trở lại cách sống tỉnh giác với giây phút hiện tại.
Tỉnh giác về thân thể giúp bạn hiện hữu trong giây phút hiện tại, nhưng
điều quan trọng nhất là nhận biết sự tự do của chính mình trong giây
phút đó. Nếu bạn bắt đầu muốn nầy muốn nọ, nghĩ về quá khứ và nghĩ cách
hưởng thụ trong tương lai, bạn không còn tự do. Giây phút hiện tại bị
dục vọng xâm chiếm và do đó sự tự do bản nhiên của bạn trong giây phút
đó sẽ bị mất đi. Từ đó, bạn trở về với sự tự do bản nhiên trong giây
phút hiện tại, và bạn có thể kinh nghiệm mọi sự liên hệ một cách tươi
mát, trong đời sống thường ngày. Ngay cả những sự vật bình thường nhất
cũng trở nên hoàn hảo, và bạn không cần phải đi tìm tự do ở nơi nào khác
hay lệ thuộc vào những kinh nghiệm mới và lạc thú xác thân. Bạn thấy,
sự tự do bản nhiên trong chúng ta là một cái gì vĩnh cữu, bởi vì nó là
bản chất bẩm sinh của sự hiện hữu nơi chúng ta; nó là một món quà thiên
nhiên của đời sống. Tất cả những gì bên ngoài chúng ta đều là giả tạo và
kém khuyết.
Như vậy, để có tự do đối với lạc thú giác quan không phải là bám níu hay
chạy trốn nó, mà bạn phải học cách để được tự do nội tâm. Từ căn bản tự
do bên trong nầy, các giác quan không còn đe dọa hay lôi cuốn bạn được
nữa. Do đó bạn có khả năng kinh nghiệm lạc thú giác quan mà không trở
thành nô lệ cho chúng.
HÌNH THỨC BÊN NGOÀI
Xã hội chúng ta cần vài loại hình thức. Người ta mong đợi bạn xử sự theo
cách nào đó, và ăn mặc theo một lối nào đó. Chân lý tương đối nầy gọi
là Pannati. Nó có nghĩa là hiểu biết hình thức nào thích hợp cho tình
thế đó. Nhưng nếu bạn bám níu vào hình thức, tâm bạn trở nên cứng ngắc
và bạn làm nô lệ cho hình thức. Ngược lại, nếu bạn chối bỏ hình thức mà
bạn đang ở trong đó, bạn cũng bị nô lệ hóa vì khi bạn chối từ cái gì,
bạn đang bám níu vào sự chối từ đó. Tâm bạn bị dính níu vào sự chối bỏ.
Dù bám níu hay chối bỏ, tâm bạn bị dính níu và không bao giờ thoát khỏi
sự xung đột. Bạn phải siêu thoát nhị nguyên của hình thức và không hình
thức.
Bạn bám níu hay chối bỏ bởi vì bạn đã dựng lên sự 'thích' hay 'không
thích' trong tâm. Có thể là bạn chối bỏ một hình thức qui định. Mặc dù
chân lý nầy là tương đối, nó vẫn là qui tắc được chấp nhận trong lúc đó.
Nếu bạn nổi loạn chống lại hình thức, bạn không thể chấp nhận sự vật
đúng như thực tế. Chính là vì sự phán đoán giá trị mà bạn không thể nhìn
sự vật 'như chúng là'. Bạn nhìn sự vật theo lối suy tư của bạn Sự thích
và không thích trở thành khuôn mẫu định chuẩn của bạn. Bạn chối bỏ ngay
những gì không thích hợp với khuôn mẫu. Ngược lại nếu cái gì hợp khuôn
thì bạn ôm lấy làm sở hữu. Tâm bạn luôn luôn nhảy chuyền giữa hai thái
cực nầy, bám níu và chối bỏ. Khi nào bản tâm còn bị phân cực như thế,
bạn luôn luôn bị dính níu vào thích và không thích, thì làm sao bạn có
thể nhìn hình thức đúng như thực tế? Bạn không cần làm gì khác trừ việc
học cách giữ tâm im lặng, không phán đoán hình thức. Khi bạn ngưng phán
đoán thì thích và không thích cũng ngưng, và bám níu hay chối bỏ cũng
không còn. Một khi dừng phán đoán, bạn sẽ thấy hình thức là hình thức,
không hơn không kém. Bạn sẽ thấy nó 'như nó là' và bạn có thể liên hệ
với nó một cách tự do.
Không bị cản trở bởi chối bỏ hay bám níu, bạn có thể hoạt động với cả hình thức hay không hình thức.
NHẬN THỨC BÌNH THƯỜNG
Khi bạn nhận thức được một sự yên tịnh thật là bình an và tuyệt vời bên
trong, đến nỗi bạn cảm thấy như là mình đang sống trong một tổ kén. Ðấy
chỉ là một giai đoạn. Nó sẽ trôi qua, và sau đó sẽ trở thành bình
thường. Sự bình an không có gì đặc biệt. Ðây chỉ là lúc ban đầu. Cảm
giác tuyệt diệu nầy - hay bạn gọi nó là cái gì cũng được - sẽ tan đi
giống như mọi chuyện khác. Ngay lúc nầy, bạn cảm thấy mình cách biệt với
người khác, và có thể nghĩ là mình ở trên họ. Thật ra, không có trên
hay dưới. Chúng ta đều là con người. Mỗi người trong chúng ta đều có sự
yên tịnh nội tâm. Chúng ta không hơn hay kém người khác trên phương diện
nầy. Bạn chỉ được may mắn hơn người khác là bạn được ở trong hoàn cảnh
có thể học tập để kinh nghiệm được tính bản nhiên nầy.Hầu hết người ta
không nhận thức được sự bình an nầy bởi vì họ bị kẹt cứng với cảm xúc và
những gì xảy ra bên ngoài họ. Trong Phật giáo gọi đây là lầm lạc
(moha). Sự kiện bạn biết quán tâm không làm bạn khác biệt với người
khác. Nếu bạn nghĩ mình khác biệt, bạn tạo ra một hố sâu giữa họ và bạn.
Bạn tạo ra một phân cách tâm lý và không bao giờ có thể hòa đồng với
họ.
Bạn không bao giờ đánh mất bình an, nó lúc nào cũng ở đó. Chỉ vì bạn quá
bận bịu với cảm xúc nên không nhận thức được tình trạng bình an của bạn
. Tình trạng bình an nầy không có gì đặc biệt. Nhưng bạn phải rất cẩn
thận ở đây. Nếu bạn cứ nghĩ sự yên tịnh nầy là đặc biệt, bạn bám níu vào
nó. Sự bám níu nầy rất tế nhị và tinh vi nên rất khó nhìn ra trong tâm.
Bạn không nhận ra là mình vẫn còn đi trên con đường bản ngã vi tế. Khi
điều nầy còn xảy ra thì, dù cho bạn có kinh nghiệm được an tịnh qua Ðịnh
đi nữa, vẫn không có cơ hội cho Trí Tuệ (panna) xảy tới.
Một tâm thức rất tập trung, nếu chưa được hoàn toàn tự do, vẫn cản trở
sự xuất hiện của trí tuệ. Bạn thấy, khi đạt được định, mặc dầu bạn có
thể phá trừ phiền não phần nào, chúng vẫn chưa dứt tuyệt. Sự tập trung
(định) giúp tâm mình có được sự nhạy bén hơn bình thường. Sự nhạy cảm là
cái gì kinh nghiệm được bình an và im lặng một cách rõ ràng. Nhưng an
tịnh do sự nhạy cảm đem lại có khuyết điểm là rất độc đáo và tuyệt vời
nên người ta hay bám níu vào nó. Do đó mình trở thành quan trọng. Nhiều
người bị kẹt cách nầy và không thể tiến xa hơn từ đó. Ngay cả trong định
tọa thiền (jhanic samadhi), sự đạt ngộ hay vô ngã (anatta) chỉ là tạm
thời. Sau đó, ta trở về ý thức bình thuờng.
Sự xuất hiện của tuệ giác trong 'định tạm thời' thì xảy ra với ít hay
không có những kinh nghiệm huyền diệu hay cảm giác hạnh phúc tuyệt vời
thường gặp trong 'định tọa thiền'. Do đó hành giả không có cơ hội bám
níu cảm giác hạnh phúc. Trước khi họ biết nó, thì họ đã trở lại với ý
thức bình thường rồi.
Tinh yếu của con đường tâm linh chỉ là ở cái đẹp của sự bình thường,
trong vòng thế tục và trong sự siêu thoát ngăn cách giữa tâm linh và sự
bình thường. []
LÊ TẤN TÀI tóm lược