Chúng ta hãy nói một chút về việc hành thiền (thiền tứ niệm
xứ). Quí vị cần phải biết một số điểm quan trọng trước khi bắt đầu thực
hành. Hành thiền có nghĩa là gì? Quý vị thực hành như thế nào? Trạng
thái tâm quan sát ra sao, thái độ thế nào? Mục đích hành thiền của quý
vị là gì? Quý vị cần có một ý niệm và mục đích rõ ràng trước khi bắt đầu
thực hành.
Quý vị không thể bắt đầu thực hành mà không có một số hiểu biết hay
kiến thức về việc mình đang làm. Khi quý vị làm một việc gì đó, quý vị
cần phải hiểu một chút về những nguyên tắc đối với việc mình đang làm.
Chỉ như vậy quý vị mới gặt hái được lợi ích từ việc làm đó.
Có lần Yaw Sayadaw thuyết pháp tại đây, Ngài có nói một câu mà tôi thấy rất sâu sắc : “chúng ta hành thiền vì chúng ta có phiền não. Nếu không còn phiền não nữa, chúng ta sẽ chẳng có lý do nào để hành thiền cả.”
Nếu không còn phiền não, liệu có cần phải hành thiền không ? Chỉ do có
phiền não mà chúng ta phải thực hành. Chúng ta nên sử dụng loại năng
lượng nào? Chúng ta sử dụng năng lượng tâm thiện (kusala). Nếu
chúng ta hành thiền mà có phiền não trong đó, thì phiền não sẽ tăng
trưởng mà thôi. Vậy phải thực hành như thế nào? Chánh niệm cần phải cân
bằng, Định cần phải cân bằng. Hiện giờ quí vị đang chỉ dùng rất nhiều sự
cố gắng. Khi chúng ta nói “tập trung quan sát”, đó là thực hành với tà
tinh tấn (miccha viriya). Vì thế, nếu quý vị không hiểu tất cả điều này, làm sao quý vị có thể thực hành tốt được?
Đối với tôi, về cơ bản, hành thiền là “tu tâm”. Hành thiền
là thay đổi các tâm bất thiện thành các tâm thiện; cải thiện chất lượng
của tâm, vun bồi sự thật và thiện pháp; chắt lọc ra những phẩm chất tốt
lành này của tâm và phát triển chúng chính là hành thiền. Đó là lý do
tại sao hành thiền được gọi là “công việc liên quan tới tâm”.
Không phải là công việc liên quan tới thân, hay là công việc liên quan
tới đối tượng. Đối tượng không hành thiền. Chính tâm mới thực hiện việc
hành thiền.
Tôi muốn nói thêm một số điều về “đối tượng”. Mọi người thường nói, “hãy quan sát đối tượng này hay đối tượng kia.” Vậy, “đối tượng”
có nghĩa là gì? Đối tượng là cái mà tâm có thể nhận biết, quan sát, hay
kinh nghiệm trực tiếp. Bản chất của đối tượng là được nhận biết, cảm
nhận, hoặc kinh nghiệm bởi tâm. Một người bình thường có mấy giác quan?
Có sáu giác quan, không phải chỉ có một! Tâm cảm nhận các đối tượng.
Chính vì vậy, để có thể thực hành tốt, chúng ta cần phải biết rõ về
tâm.
Quý vị có biết rằng mình có tâm không ? Làm sao quý vị biết được
rằng mình có tâm? Quý vị có thể nhận thấy hoạt động của tâm thông qua
những suy nghĩ, kinh nghiệm, cảm thọ, mong muốn hay việc đang chú tâm,
v.v… Ví dụ, bây giờ hãy chắp đôi tay lại. Quý vị có biết rằng hai bàn
tay đang chạm vào nhau hay không? Làm sao quý vị biết được điều đó? Tâm
đang làm gì để quý vị có thể biết điều ấy? Quý vị biết là do quý vị đang
có sự ghi nhận. Quý vị biết là do quý vị đang chú ý đến điều đó. Quý vị
có biết là quý vị đang chú ý không? Liệu quý vị có biết là mình đang
hay biết không? Nếu hai bàn tay quý vị chạm vào nhau, nhưng tâm quý vị
đang nghĩ đến một việc khác, liệu quý vị có biết là chúng đang xúc chạm
hay không? Dĩ nhiên là không. Chính vì vậy, không phải vì chúng xúc chạm
mà quý vị hay biết, mà chính nhờ có sự ghi nhận mà quý vị biết chúng
đang xúc chạm.
Quý vị có biết là mình đang hay biết không? Quý vị có thể chuyển
hướng sự chú ý từ lòng bàn tay xuống đôi chân được không? Quý vị có thể
làm được, đúng không? Việc chuyển hướng sự chú ý này là do tâm. Chính
tâm làm việc chú ý ghi nhận. Nếu biết được rằng mình đang chú ý, tức là
quí vị đã biết được tâm. Quý vị có thể nhận ra tâm qua bản chất của việc
hay biết, suy nghĩ, lập kể hoạch, tác ý, v.v….Nhận ra tâm không phải là
một việc quá khó khăn. Mọi người đều ít nhiều biết được điều này. Nhưng
nhận ra tâm dưới góc độ là một đối tượng quan sát thì không dễ như vậy
bởi vì chúng ta thiếu sự thực hành.
Trong việc hành thiền có hai phần: một phần liên quan tới đối tượng
và một phần liên quan tới tâm. Phần đối tượng không quan trọng, mà phần
tâm mới đóng vai trò quan trọng. Đối tượng sinh khởi theo bản chất của
chúng. Quý vị biết được chúng khi có chánh niệm. Quý vị không phải phát
triển việc quan sát đối tượng. Quý vị chỉ cần phát triển các yếu tố liên
quan tới tâm như chánh niệm, sự ổn định , sự an tịnh (samadhi) và trí tuệ (panna).
Cần phải có một cái tâm hiểu biết và chín chắn trong việc quan sát.
Khi các điều kiện (nhân duyên) chín muồi, tuệ giác sẽ sinh khởi.
Đặc tính của tâm là hay biết, trong khi đó, đối tượng là những gì
được nhận biết. Điểm khác biệt giữa đau và không đau là gì? Đau là một
đối tượng, và không đau cũng là một đối tượng. Nếu bị đau quý vị có la
không? Nếu hết đau rồi, quý vị có vui không? Một thiền sinh nhận thấy
rằng đối tượng là đối tượng thì sẽ không còn sân với cái đau nữa. Chỉ
khi nào có sự hiểu biết này, thì mới không còn thích và không thích.
Chừng nào còn vắng mặt sự hiểu biết, là do tâm si đang có mặt, lúc đó
chắc chắn sẽ có tham hay sân.
Quý vị có hiểu vấn đề này không? Quý vị cần có sự hiểu biết này về
đối tượng. Khi thực hành, hiểu biết này sẽ càng trở nên rõ rệt hơn. Quý
vị sẽ nhận ra, “ồ, đây là đối tượng, đây là tâm hay biết”. Bản
chất của chúng thì khác nhau. Khi thực hành, quí vị sẽ thấy rõ điều
này.Việc giải thích ở đây sẽ làm cho quý vị dễ nhận thấy điều đó hơn.
Chẳng hạn, khi đang đơn thuần quan sát, hay biết và chánh niệm. Cái
gì là đối tượng, cái gì là tâm. Liệu quý vị có nên tìm hiểu điều này
không? Cũng giống như là áp dụng cái quý vị đã học từ trước vào kinh
nghiệm hiện tại. Liệu phẩm chất tâm suy xét này có xuất hiện nơi một
người chỉ đơn giản chú tâm vào một đối tượng hay không? Quí vị có cho
rằng sự hiểu biết này sẽ sinh khởi khi người thiền sinh chỉ đơn thuần
hài lòng với một trạng thái tâm bình an? Khi đó trí tuệ sẽ không sinh
khởi. Chính vì thế, hiểu biết là rất quan trọng. Khi quí vị thực hành,
cần phải có ba yếu tố: chánh niệm (sati), tinh tấn (viriya) và trạch pháp (dhamma-vicaya). Có phải định (samadhi) làm công việc thực hành không? Không. Định không phải là nguyên nhân, mà chỉ là kết quả. Định (samadhi), hỷ (piti), lạc (pasadhi) và xả (upekkha), bốn nhân tố này là kết quả. Ba yếu tố đóng vai trò nguyên nhân là chánh niệm (sati), tinh tấn (viriya) và trạch pháp (dhamma-vicaya).
Quý vị cần phải thực hành cùng với ba yếu tố này. Trong ba yếu tố
này, nếu bỏ sót yếu tố cuối cùng (trạch pháp), tức là không có sự tìm
hiểu, khám phá, thiền sinh sẽ cố gắng tinh tấn (viriya) – và nếu tinh tấn đó là tà tinh tấn (miccha viriya),
sẽ chẳng còn gì nữa cả. Vì lẽ đó, thực hành với trạch pháp là rất quan
trọng. Quý vị sử dụng cái quý vị đã học để nghiên cứu, tìm hiểu trong
quá trình thực hành của mình. Quý vị sử dụng cái quý vị đã được học,
được biết vào trong sự thực hành. Đó là cách phát triển trí tuệ. Vì vậy
cần phải có trí tuệ trong việc hay biết quan sát hiện tượng. Cần phải có
chánh kiến (samma ditthi). Cần phải có sự tìm hiểu khám phá và tư duy chân chánh. Chỉ khi đó, tuệ tu (bhavanamaya panna) mới sinh khởi.
Tuệ giác không thể sinh khởi nếu hành giả chỉ chú tâm vào một đối
tượng duy nhất mà thiếu đi việc suy nghĩ hay tìm hiểu đối với hiện
tượng. Vì vậy, quý vị phải biết cả đối tượng và tâm. Người nào chỉ tập
trung vào phía đối tượng sẽ không thấy được tâm. Quý vị cũng cần phải có
hiểu biết về phía đối tượng. Tuy nhiên, đối tượng không hành thiền mà
tâm hành thiền. Do đó, quý vị phải biết về tâm. Quý vị đang hành thiền
với loại tâm nào?
Người nào tập trung vào phía đối tượng sẽ không thấy được tâm. Nó
giống như đeo kính vậy; nếu quý vị chỉ nhìn vào cái quý vị muốn thấy,
quý vị sẽ không biết là mình đang đeo kính. Quý vị có thể thấy được khi
tham không có trong tâm. Nếu không tập trung vào cái mình muốn thấy, ít
ra quý vị cũng biết là mình đang đeo kính. Nếu quá chú tâm, có thể quý
vị sẽ không biết cái kính đang ở trên mũi. Tâm là như vậy đấy. Nếu có
quá nhiều sự chú tâm vào một thứ, quý vị sẽ không thấy tâm được nữa. Vì
thế tôi nói đừng chú tâm. Nếu quý vị nhìn với sự hiểu biết, thật sự quý
vị không cần qua tập trung.
Hãy nghĩ về điều này một cách kỹ lưỡng. Quý vị có thể nói hành
thiền tức là khi quý vị ngồi xuống và chú tâm vào một đối tượng, hay khi
quý vị chánh niệm về đối tượng? Không phải như vậy. Đó chỉ là đang tập
trung vào một đối tượng hay đang ghi nhận đối tượng mà thôi. Quý vị sẽ
làm gì khi tâm đang hay biết đó chứa đầy phiền não?
Tinh tấn, chánh niệm và tâm quan sát, tất cả cùng phải hoạt động cùng với pháp và tâm thiện.
Nếu quý vị thực hành với các tâm bất thiện, quý vị đang không thực
hành với pháp. Chỉ khi nào thực hành với tâm thiện, quý vị mới đang thực
hành một cách đúng đắn. Khi quý vị thực hành với rất nhiều ham muốn,
mong cầu, đó là quý vị đang hành thiền với tâm tham. Khi thực hành với
sự bất mãn và không hài lòng, quý vị đang hành thiền với tâm sân. Khi
thực hành mà không có sự hiểu biết thực sự về cái mình đang làm, quý vị
đang hành thiền với tâm si. Những kiểu thực hành như vậy được gọi là
không đúng đắn. Quý vị phải học cách thực hành với pháp và tâm thiện.
Quý vị cần có sự thông minh và kiến thức để có thể hành thiền mà không
có phiền não trong đó. Chỉ khi nào đạt được điều đó, quý vị mới thực sự
đang hành thiền.
Nếu quý vị không hiểu biết chút nào về một chủ thể, làm sao quý vị
có thể suy nghĩ về nó hay làm việc gì đó liên quan đến nó? Chỉ khi nào
quý vị có hiểu biết, quý vị mới có thể thực hành. Có ba loại tuệ: văn
tuệ (suttamaya panna), tư tuệ (cintamaya panna) và tu tuệ (bhavanamaya panna). Chỉ đơn thuần ghi nhận không thôi thì chưa đủ.
Đức Phật gọi đó là “chánh niệm- tỉnh giác” (sati- sampajanna).
Có nghĩa là trước khi bắt tay vào thực hành, quý vị cần có một số thông
tin chính xác và đầy đủ. Nếu không, quý vị sẽ gặp phải khó khăn trong
việc thực hành. Để làm điều đó, quý vị cần nghe để nắm được kiến thức
pháp học, hỏi những chỗ chưa hiểu và bàn luận về pháp. Sau khi đã tư
duy, quý vị thực hành.
Giả dụ quý vị đang giải quyết một việc quan trọng trong đời sống.
Để có hiệu quả, quý vị phải nghĩ và lên kế hoạch trước khi thực hiện. Đó
là sử dụng trí thông minh. Sử dụng trí thông minh cũng được coi là thực
hành.
Vậy có nên suy nghĩ hay không nên suy nghĩ trong khi thực hành? Quý vị không nên suy nghĩ những điều làm tăng trưởng tham (lobha) hay sân (dosa). Tuy nhiên, quý vị nên suy nghĩ cách mình thực hành ra làm sao và xem mình đang thực hành như thế nào.
Để có thể suy nghĩ như vậy, trước tiên quý vị cần có một số kiến
thức và thông tin. Những gì tôi đang cung cấp là để cho quý vị một số ý
tưởng về cách thức thực hành. Có hai cách thực hành. Một cách là làm cho
tâm tĩnh lặng và an lạc. Cách thứ hai là phát triển tâm để thấy sự vật
theo đúng bản chất của nó. Quý vị muốn được gì từ sự thực hành? Mục tiêu
tu tập của quý vị là gì? Những tư tưởng chủ đạo và cách thức thực hành
sẽ khác biệt tùy vào mục tiêu của quý vị.
Các thiền sinh nói họ muốn biết sự thật, nhưng đến khi thực hành,
họ lại chỉ muốn làm cho tâm an lạc. Điều này sẽ không mang đến chút hiểu
biết nào. Khi lấy an lạc làm mục đích, quý vị phải giữ tâm mình tập
trung vào một đối tượng. Khi lấy hiểu biết làm mục đích, quý vị phải để ý
đến cái tâm quan sát.
Câu hỏi: Đối tượng và tâm, cái gì quan trọng hơn?
Trả lời: Tâm quan sát quan trọng hơn.
Quý vị có thể mong ước có được trí tuệ, nhưng làm sao nó có thể
sanh khởi trong khi tham, sân, hoặc si đang có mặt? Chính vì lẽ đó, quý
vị phải chú ý đến tâm nếu quý vị muốn biết được chân lý. Quý vị đang
thực hành với thái độ nào? Quý vị cần liên tục kiểm tra xem mình đang
thực hành như thế nào, luôn kiểm tra thái độ của mình. Đừng dán chặt vào
đối tượng. Đối tượng luôn có ở đó. Đối tượng không còn quan trọng nữa.
Chúng chỉ giúp duy trì sự hay biết. Quý vị sử dụng đối tượng để giữ cho
sự hay biết được liên tục.
Một thiền sinh có sự hiểu biết sẽ sử dụng đối tượng để phát
triển chánh niệm, định và tuệ. Với những thiền sinh sơ cơ, đối tượng
chỉ làm phát sinh tham, sân và si!
Một câu hỏi đặt ra ở đây: đối tượng nào tốt hơn, hơi thở ra/vào ở
mũi hay phồng, xẹp ở bụng? Cả hai đều không! Không có đối tượng nào tốt
hơn đối tượng nào. Đối tượng chỉ là đối tượng mà thôi. Nếu quý vị nghĩ
rằng đối tượng này tốt hơn đối tượng kia, quý vị sẽ tự động trở nên dính
mắc với đối tượng đó. Hậu quả là, khi quý vị không thể chú ý đến đối
tượng đó, quý vị sẽ không thực hành được.
Khi quý vị chọn lựa một đối tượng ưa thích, tham chắc chắn sẽ sinh
khởi. Nếu quý vị không tìm thấy cái mà quý vị cho là một đối tượng tốt,
sân sẽ sinh khởi. Cho rằng một đối tượng nào đó là tốt chính là vô minh
(si) !Vậy quý vị có lấy chính tâm biết làm đối tượng?
Đối tượng luôn có đó theo bản chất tự nhiên của chúng; quý vị cần
phát triển sự hay biết trong tâm. Quý vị không cố thay đổi bất cứ điều
gì đang xảy ra. Hiện giờ sự hay biết trong tâm chưa thực sự mạnh mẽ. Vì
thế, quý vị phải tăng cường chánh niệm và làm cho nó trở nên mạnh mẽ.
Hiện giờ, trí tuệ còn yếu ớt, tinh tấn còn kém cỏi, thiếu sự tín tâm, và
định cũng chưa mạnh mẽ. Chúng ta hành thiền để nuôi dưỡng tất cả các
phẩm chất này cho chúng ngày càng trở nên mạnh mẽ.
Người thiền sinh muốn đạt được sự an lạc sẽ lựa chọn một đối tượng.
Người đó sẽ phải tạo ra một đối tượng. Nếu sự chú tâm bị sao lãng, anh
ta sẽ phải cố tập trung. Nếu sân sanh khởi, anh ta phải thay đổi đối
tượng. Vì thế, anh ta cần rất nhiều sự tinh tấn. Người thích an lạc chỉ
quan tâm và làm việc với một đối tượng.
Hơn nữa nếu muốn làm cho tâm an tịnh, quý vị cần phải bám chặt vào
đối tượng. Quý vị phải trụ tâm trên đối tượng trong một thời gian dài.
Do đó, quý vị phải dùng nhiều đến sức. Tức là quý vị phải duy trì sự trú
tâm trên đối tượng để có thể đạt được sự an tịnh. Vậy cái nào khó thực
hiện hơn? Điều gì xảy ra khi tâm đã an tịnh? Quý vị phải tiếp tục ra
sao? Nếu không biết tiếp tục ra sao, quý vị sẽ rơi vào hôn trầm.
Làm cho cái không an tịnh trở thành an tịnh khó hơn. Chú tâm làm
cho mệt mỏi. Hãy hay biết cái gì đang xảy ra. Đừng cố làm an tịnh cái
không an tịnh. Chỉ cần nghi nhận sự không an tịnh. Quan sát, nhận biết
rằng tâm đang trạo cử và phân tán. Chính sự quan sát, ghi nhận đó là
công việc của thiền tập. Biết cái xảy ra theo đúng bản chất của nó, đó
chính là chánh kiến. Theo cách thức như vậy là thực hành vipassana (thiền minh sát).
Những thiền sinh muốn đạt tuệ giác thì họ chú ý đến tâm của mình.
Những thiền sinh đó sẽ quan sát nhiều đối tượng. Nếu quý vị muốn có sự
hiểu biết, quý vị phải biết càng nhiều đối tượng càng tốt. Chỉ biết một
đối tượng không thể đưa đến tuệ giác, trí tuệ sẽ vẫn còn non yếu. Quý vị
cần phải khám phá tất cả những gì đang xảy ra, và liên hệ với mọi đối
tượng. Chỉ khi ấy tri kiến của quý vị mới được mở rộng, tầm mắt của quý
vị mới được mở xa, và tuệ giác sẽ phát triển. Mặt khác, một thiền sinh
muốn có hiểu biết sẽ không cố làm cho tâm an tịnh hay loại bỏ đối tượng.
Anh ta chỉ duy trì thái độ chân chánh và ghi nhận những gì đang xảy ra.
Nếu sự an tịnh không có mặt, anh ta ghi nhận đúng như vậy.
Quý vị có thể áp dụng với bất cứ đối tượng nào đang sanh khởi. Nếu
quý vị muốn hiểu biết, đừng lựa chọn hay bám víu vào một đối tượng cụ
thể nào đó. Hãy làm việc với bất cứ đối tượng nào đang sanh khởi; quý vị
chỉ cần quan sát mà thôi. Để làm được điều đó, quý vị cần phải sử dụng
trí thông minh.
Nếu quý vị muốn phát triển tuệ giác, đừng dính mắc vào bất cứ đối
tượng nào. Quý vị lùi lại và quan sát vì quý vị muốn biết chân lý. Quý
vị có cái tâm quan sát tìm hiểu, và cùng với thái độ chân chánh.
Hãy tự hỏi: Cái này tốt hay xấu? Nó có thực sự tốt hay xấu không? Đúng hay sai? Cái gì đang diễn ra? Tại sao nó xảy ra?
Bởi vì muốn biết, nên quý vị quan sát và tìm hiểu. Hãy sử dụng trí
thông minh thay cho chỉ đơn thuần tinh tấn. Lúc đó sự hướng tâm hay biết
đã có mặt. Tâm tìm hiểu cũng phải có mặt. Và cuối cùng, cần phải có
thái độ chân chánh. Bây giờ quý vị đã hiểu sự khác biệt giữa “chú tâm” và “đợi, ghi nhận, và quan sát”.
Khi sân sanh khởi, đừng cố loại bỏ nó. Đừng cố gạt bỏ cơn sân. Quý
vị quan sát nó vì quý vị muốn hiểu bản chất thật sự của sân. Quý vị muốn
nghiên cứu nó vì quý vị muốn học hỏi từ nó. Vì thế, quý vị đừng cố tạo
ra hay loại bỏ bất cứ cái gì. Quan sát bất kỳ hiện tượng nào đang diễn
ra. Đừng quên điều này. Hành thiền chính là như vậy. Đó là lý do tại sao
có sự khác biệt giữa “chú tâm” và “đơn thuần quan sát.” Bản chất của hai việc đó khác nhau.
Đừng cố xua đuổi sân. Chừng nào quý vị càng cố xua đuổi sân, sân
lại càng tăng trưởng. Sân luôn có tính tiêu cực, nó có đặc tính xua đuổi
đối tượng. Việc nhận ra rằng cái gì đó là “không tốt” rất khác biệt với việc niệm cái đó là “không tốt”.
Khi tâm cho rằng cái gì đó là “tốt”, thì tham đã có mặt rồi. Với bất cứ
đối tượng nào xảy đến, tham và sân đều có mặt ngay đó. Si cũng đã xuất
hiện. Vậy bạn sẽ hành thiền thế nào đây?
SATI
Sati (chánh niệm) có nghĩa là “không quên”. Nó không có nghĩa là chú tâm.
Quý vị hiểu và định nghĩa sati như thế nào? Nó có nghĩa là ghi nhớ;
chú tâm không phải là chánh niệm. Quý vị không quên cái gì? Quý vị
không quên cái đúng, cái phải. Nó có nghĩa là không quên “đối tượng đúng”
và thái độ đúng. Việc không quên đó chính là chánh niệm, chứ không phải
là chú tâm. Khi chúng ta nói sử dụng chánh niệm, nó không phải là đặt
sự hay biết ở một nơi nào đó (hay trên một cái gì đó). Nó có nghĩa là
không quên. Bản chất của sự vật chỉ là danh và sắc. Chỉ có thế thôi.
Trong ngũ uẩn, luôn có danh và sắc. Nếu quý vị không quên tức là quý vị
đang có chánh niệm. Nếu quý vị hay biết điều gì đang xảy ra, quý vị cũng
đang có chánh niệm. Quý vị phải làm gì để không quên? Quý vị làm gì để
có chánh niệm? Phần lớn mọi người cho rằng, để có chánh niệm, họ phải đưa sự hay biết vào. Tôi sẽ nói cho các quý vị một phương pháp thư giãn hơn: nhắc nhở mình. Khi quý vị đưa “chánh niệm trở lại”, hoặc “đưa chánh niệm vào”, quý
vị phải đặt sự hay biết trên một đối tượng. Điều đó đòi hỏi sự chú tâm.
Tâm phải tóm cái tâm đang suy nghĩ linh tinh, rồi đưa chánh niệm về một
đối tượng. Điều đó đòi hỏi cố gắng chú tâm.
Nhắc nhở mình tức là tư duy. Tâm tư duy về tâm và thân. Và sự hay
biết tự động tới. Nếu quý vị không tin tôi, hãy tự hỏi mình. Nếu quý vị
hỏi, “cái gì đang xảy ra trong tâm hiện nay”, gần như chắc chắn
quý vị sẽ thấy cái gì đó. Vậy cái gì đang xảy ra trong tâm hiện giờ? Sự
bình an? Trạo cử? Bất bình? Cái gì đang xảy ra? Nếu quý vị thấy được cái
đó, quý vị có thể nói được điều gì đang xảy ra trong tâm, dù chỉ sơ sài
mà thôi. Quý vị có thể thấy rằng, nếu quý vị nghĩ về tâm, sự hay biết
sẽ hướng về tâm. Nói một cách rõ ràng, thiền về cơ bản là quay tâm vào
bên trong. Đó là ý nghĩa của chánh niệm.
Tâm có thói quen nắm bắt các hiện tượng bên ngoài. Ta luôn chú ý
đến bên ngoài, và thường là qua nhãn căn (mắt). Như vậy, tâm thường sử
dụng nhãn căn và luôn nhìn ra bên ngoài. Cái mà chúng ta làm chỉ là quay
cái tâm luôn hướng ra bên ngoài vào bên trong việc hành thiền. Sẽ dễ
dàng hơn nếu quý vị hiểu điều này. Vậy quý vị quay nó vào bên trong như
thế nào? Chỉ cần quý vị nghĩ đến việc quay vào trong, tâm đã quay vào
trong rồi. Bản chất của tâm là lấy cái nó nghĩ đến làm đối tượng. Nếu
quý vị nghĩ đến cái đang xảy ra trong tay mình, chẳng phải tâm đi thẳng
tới tay sao? Nếu quý vị hỏi, “cái gì đang xảy ra trong đầu tôi”, lập tức
tâm đã ở đầu. Quý vị có phải tập trung nhiều cho việc đó không? Sẽ mệt
mỏi hơn khi quý vị phải “đưa chánh niệm về” mỗi khi nghĩ, “ôi, mình lại mất chánh niệm rồi, mình phải chánh niệm lại mới được.”
Hãy nghĩ tới mình ngay từ giây phút quý vị thức giấc. Hành thiền
bắt đầu kể từ khi quý vị thức giấc, chứ không chỉ khi quý vị tới thiền
đường hay khi ngồi lên tọa cụ. Hãy coi xem quý vị sẽ sống thế nào với
chánh niệm. Chính vì vậy quý vị phải đặt những câu hỏi này kể từ lúc
thức giấc. Nếu quý vị nghĩ về mình, quý vị sẽ có chánh niệm. Nghĩ đến
mình ở đây có nghĩa là gì? Là nghĩ đến ngũ uẩn (khanda), mà ở đây
là tâm. . Nói đến mình, tức là nói đến khanda, đến tâm. Tâm đang cảm
thấy gì? Tâm đang nghĩ gì? Tâm đang ở đâu? Nó đang làm gì? Không cần
thiết phải dùng nhiều năng lượng để chánh niệm. Như vậy chẳng phải quý
vị có thể thực hành mọi lúc, mọi nơi hay sao? Quý vị cũng cần sử dụng
cái mình biết về bản chất của tâm. Bản thân tôi cũng khởi đầu như vậy.
Bản chất của tâm là nắm bắt cái nó nghĩ tới làm đối tượng. Nếu quý
vị nghĩ đến tâm, tâm sẽ quay về tâm. Nếu quý vị nghĩ đến thân, tâm sẽ
quay về thân. Thân thì đơn giản, nó rất dễ nhận ra, dễ thấy. Với sự thực
hành, ta cũng dần thấy được tâm. Tôi chú ý hơn đến cái tâm quan sát.
Tại sao chúng ta không thể thấy cái tâm quan sát này? Vậy, chớ có chú
tâm vào đối tượng. Chỉ cần hỏi, “cái gì đang xảy ra trên tâm?”. Quý vị
vừa hỏi là lập tức tâm sẽ hay biết một cái gì đó. Nó hay biết về cái gì
cũng được.
ĐỊNH
Định (samadhi) có nghĩa là một cái tâm vững vàng, ổn định, định không có nghĩa là chú tâm.
Liệu tâm bình an có sinh khởi mỗi khi quý vị chú tâm vào một đối
tượng hay không? Nhiều thiền sinh bị đau đầu và cứng ở gáy bởi họ sử
dụng quá nhiều sức để tập trung hay chú tâm vào một đối tượng, chú tâm
vào một đối tượng làm ta mệt mỏi.
Định phát sinh như thế nào? Nó không phát sinh qua sự chú
tâm. Định phát sinh khi có thái độ đúng đắn. Định phát sinh cùng với
chánh kiến.
Khi quý vị gặp khó khăn trong cuộc sống và quý vị không thể suy
nghĩ một cách tỉnh táo, quý vị trở nên mất bình tĩnh. Nhưng khi quý vị
có thể suy nghĩ về một tình huống một cách thông minh, quý vị sẽ giữ
được bình tĩnh. Cũng như vậy, tâm định phát triển khi có thái độ đúng
đắn, không phải với thái độ sai hay qua sự tập trung. Chính vì vậy, hiểu
biết về thái độ đúng, về chánh kiến rất quan trọng.
Có hai loại định: định do tập trung và định do tư duy chân chánh.
Khi quý vị tập trung vào một đối tượng trong một thời gian dài và
hòa nhập trong đó, tâm không còn tỉnh giác nữa. Chánh niệm và hiểu biết
trở nên yếu đi. Vì tâm chỉ lo đến việc phải tập trung vào một đối tượng,
tâm quên không nghiên cứu hay tìm hiểu cái đang diễn ra hoặc không có
một cái nhìn tổng thể. Khả năng suy nghĩ cũng trở nên chậm chạp. Kiểu
định do tập trung này sẽ phát triển sự an tịnh, nhưng không phát triển
trí tuệ được.
Định do trí tuệ bắt đầu với hiều biết và được đầu tư bằng hiểu
biết. Vì có chánh kiến, chánh tư duy và thái độ chân chánh, tâm không
phản ứng với tham, sân hoặc si. Không có sự dính mắc hay chối bỏ đối
tượng. Tâm an tịnh, bình lặng và không khuấy động. Đây là loại định của vipassana (vipassana samadhi).
Khi quý vị có một cái tâm vững vàng, tĩnh lặng như vậy, nó cảm thấy nhẹ
nhàng và tỉnh giác. Quý vị cảm thấy sảng khoái. Quý vị không thấy nặng
nề, ù lì. Chỉ có loại định này mới phát triển được trí tuệ.
Chẳng hạn, một thiền sinh cảm thấy bị làm phiền bởi tiếng động. Một
thiền sinh khác coi nó là một đối tượng để nghiên cứu, một hiện tượng
tự nhiên. Quý vị nghĩ ai trong số hai thiền sinh này sẽ phát triển được
định. Người thiền sinh có khó khăn với tiếng động sẽ càng thấy khó khăn
hơn bất cứ khi nào thiền sinh này nghe thấy tiếng động. Cái sân của
thiền sinh này tiếp tục sinh khởi và tăng trưởng.
Nếu tiếng động không bị coi là một phiền nhiễu, sẽ không có tham
hoặc sân. Tâm sẽ luôn được bình an. Nếu quý vị không coi tiếng động là
một trở ngại, sẽ không có thích và không thích đối với nó. Tâm sẽ được
bình an. Quý vị cần phải có thái độ đúng đối với định.
Sayadaw Ashin Tejaniya
Nguồn: thienvacuocsong.info