5-
Cần gần gũi bậc tri thức cao tuyệt, đủ tri kiến chân chánh, luôn luôn
thưa hỏi, vâng lời dạy dỗ, theo lời mà làm. Siêng năng chẳng lười, không
bị ngũ dục phiền não ngăn chướng, chẳng bị thói quen xấu ác sai khiến,
chẳng bị bạn ác lay chuyển, chẳng bị duyên ác cướp đoạt, chẳng cho căn
cơ ngu độn mà sanh lui sụt. Phát tâm như thế, dốc lòng như thế, lâu dần
sẽ thuần thục, tự nhiên ăn khớp với chỗ nguyện cầu xưa như hộp với nắp.
Dù
đời này chẳng liễu ngộ, thấy rõ tự tâm, thì trăm kiếp ngàn đời cũng lấy
hôm nay làm nhân đầu tiên. Nếu không thế mà chỉ dùng tri kiến hẹp hòi,
tập khí hèn nhát, rụt rè cầu an, muốn đem thiền đầu môi, tâm cuồng vọng,
hơi dơ dục, gốc rễ tà kiến toan cho là chánh nghiệp xuất gia, lấy đây
mong ra khỏi biển khổ thì vẫn là ưa nước Việt mà đến nước Yên, không
chịu bước mà đòi tiến đến trước.
Than ôi! Đời mạt pháp người chánh
tín hiếm hoi, thiền nhân đã biết được chỗ hướng về, nên xét biết bổn
tâm, lấy quyết định chân thật làm nghĩa đệ nhất. Cố gắng! Cố gắng!
Dạy Thiền Nhân Như Thường
Phật
dạy: “Từ thân xuất gia, biết được tâm, đạt được gốc, hiểu pháp vô vi
gọi là Sa-môn thường hành 250 giới”. Lại nói: “Đoạn dục, trừ ái, biết
nguồn tâm của mình, đạt lý sâu của Phật, ngộ pháp vô vi”. Lại nói: “Cắt
bỏ râu tóc mà làm Sa-môn, thọ nhận pháp Phật, bỏ tài sản thế gian, khất
thực biết đủ, ăn ngày một bữa, ngủ dưới cây một đêm, cẩn thận không trở
lại. Điều khiến người trở thành ngu tệ là ái và dục vậy”.
Những
lời dặn dò tha thiết như thế đều là những điều thiết yếu để làm đệ tử
Phật. Khi xuất gia, việc đầu tiên là lấy ly dục làm hạnh đệ nhất. Con
cháu đời sau, thân tuy xuất gia mà tâm say trong ngũ dục, chẳng biết cái
hại nào cần phải xa lìa, đạo nào là đạo ra khỏi khổ, cứ triền miên mê
muội chẳng tự tỉnh giác, rồi lại giả bộ oai nghi, làm vẻ đạo đức, ngoài
dối người, trong dối lòng, che đậy tỳ vết không chịu tự giác. Người này
muốn được niệm chân chánh thật khó vậy!
Ngài
Tịnh Danh nói: “Trực tâm là đạo tràng”. Như Thường đã có chí cầu pháp
xuất ly, nên lấy trực tâm làm điều trên hết. Trân trọng.
Dạy Thị Giả Huệ
Phật
vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Đó là muốn cho chúng sanh
khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Mà tri kiến của Phật tức là tri kiến
của chúng sanh, tri kiến chúng sanh tức là tri kiến sanh tử. Nên nói:
“Trên tri kiến lập hiểu biết tức gốc vô minh. Trên tri kiến không có
hiểu biết tức là Niết-bàn” (Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến
vô kiến tư tức Niết-bàn). Thế thì tri kiến của phàm và thánh không phải
là hai, mà có mê ngộ chẳng đồng, lỗi ở lập hay là chẳng lập. Tổ sư nói:
“Nếu lập một trần, nước mất nhà tan”. Vì tri kiến vốn không phàm thánh,
nếu có lập, tức có ngã. Có ngã thì các chướng chóng nổi lên, không ngã
thì muôn pháp lặng lẽ. Vậy ngã là gốc rễ sanh tử. Đâu phải riêng phàm
phu tạo tham, sân, si mà bị ngã làm chướng, tất cả thánh nhân, những
người tu hành nếu tri kiến chưa quên đều thuộc ngã chướng. Hơn nữa, vì
gốc sanh tử khó nhổ, nên trong hai chướng có thô tế chẳng đồng.
Thô
thì dễ đuổi, tế thì khó trừ. Vì rễ tri kiến trong tâm khó nhổ, nên kinh
nói: “Còn ngã giác ngã đều là chướng ngại”. Đây chính là Tri kiến lập
tri tiềm ẩn sâu xa như tính mạng, chẳng thể đoạn dứt. Do đó cổ nhân hai
ba mươi năm tham học, dù cho ngộ được tự tánh đầy đủ như trăng sáng nơi
đầm lạnh, tiếng chuông đêm vắng tùy ý gõ đánh không hề khuyết, chạm ba
đào mà không tan, cũng vẫn là việc đầu bờ sanh tử. Đây là chỗ người xưa
thật chẳng tự dối. Nếu tự dối mình dối người thì tự mình bị hoại và làm
hoại người vậy.
Thị
giả Phước Huệ sớm theo hầu lão nhân xuất gia. Lúc mới gặp lão nhân, ông
là một người xuẩn xuẩn, biệt đi mười năm lại càng xuẩn xuẩn thêm, nhưng
thường vui vì trong cái xuẩn xuẩn có chỗ tỉnh tỉnh không xuẩn. Đây là
thị giả đem cái “xuẩn không xuẩn” này làm mạng căn. Nay đã được năm năm,
cái xuẩn này ngày càng tăng, cái không xuẩn cũng âm thầm lớn lên. Do
đây, người ta thấy thị giả xuẩn, thị giả cũng tự thấy mình xuẩn càng
thêm xuẩn, mà người người chẳng tự biết đó là xuẩn. Hạ năm nay, lão nhân
từ Tây Việt trở về núi, thị giả chợt ra khỏi tình trạng xuẩn, lão nhân
cả cười. Cái xuẩn này không còn có lúc ló ra được nữa. Nếu bảo đây là
người xuẩn lập xuẩn là đã lỗi rồi. Nếu có thể lấy xuẩn này làm chỗ thọ
dụng cũng có lẽ tự đủ, cũng có thể liễu thoát sanh tử, cũng không phụ
việc xuất gia hành khước. Còn nếu lấy đây để lập thêm cái xuẩn thì bệnh
chẳng khác gì Tri kiến lập tri. Thị giả nếu có thể đẩy ngã cái xuẩn này
thì chẳng lo gì không được cùng lão nhân kết chặt lông mày.
Dạy Hành Nhân Khoan Lưỡng
Người
xưa vì sanh tử đi hành khước. Người nay chỉ hành khước mà không biết
sanh tử, rất đáng thương! Đó là dùng hàng ngày mà chẳng biết vậy. Lỗi
tại không biết mình sẵn có, nếu người biết có, liền biết tự trọng, thì
không bị vật chuyển mà có thể chuyển được vật. Có câu thơ: “Tâm ta chẳng
phải đá, không thể chuyển”. Phải biết nếu không phải tâm địa kim cương
thì đều bị vật chuyển, đã bị vật chuyển thì đi theo nó, còn xưng là nạp
tử hành khước được sao?
Khoan
Lưỡng từ Bắc đến Nam, tới đây tức là đã an ủi ta vậy. Ông không bị
chuyển vì đường xá gian nan, đói lạnh khổ sở. Lão nhân chỉ biết gót chân
này cứng nên gọi là CHÂN SẮT, nay thấy tâm ông chẳng đổi, nên lại đem
hai chữ LÒNG SẮT khen ông. Nhưng lòng sắt là lão nhân biết, còn việc
hành khước thì nhất định ông không biết. Nếu biết hành khước thì chẳng
thình lình đi thẳng như thế. Lão nhân thương ông ngu, sợ ông không biết
nên gửi thư này cho ông. Hành khước nữa đi! Nếu sau này rờ chẳng nhằm lỗ
mũi, ngày nào đó chắc chắn khó gặp gỡ được như ngày hôm nay.