Vì vậy, trong giáo lý của mình,
Đức Phật đã phương tiện chỉ bày pháp nhân thừa, khuyến tấn con người
để thực hiện trọn vẹn trách nhiệm công dân, từ việc ứng xử trong gia
đình đến ngoài xã hội của một con người bình thường, và rộng hơn nữa là
cách thức trị quốc an dân của bậc quân vương, người đứng đầu, lãnh đạo
đất nước.
Khi vua Ưu Điền vương hỏi Đức Thế Tôn
về cách thức trị quốc, Đức Phật đã chỉ dạy rằng “Đại vương nên biết rõ
những việc: thất bại, công đức, suy tổn, đáng trân trọng, cần thực hiện
và nhân duyên phát khởi pháp đáng trân trọng, cần thực hiện của người
đứng đầu đất nước và áp dụng nó trong việc trị quốc sẽ được thành công.
Bằng không, tuy nhà vua có kho tàng đầy dẫy, tôi giỏi phụ tá, và quân
đội hùng mạnh cũng không được dân chúng quy ngưỡng, công nghiệp trị
nước cũng bị phá hỏng (*). Trong đó, những điều thất bại của người đứng
đầu, lãnh đạo đất nước là:
1- Chủng tộc không cao sang:
Điều này được hiểu là, vị vua do bậc thứ thần, hay giai cấp hạ tiện
sinh ra, không thuộc dòng dõi sang quý. Kẻ lên làm vua không đúng dòng
long phượng, không phải người được lựa chọn kế vị mà là kẻ tiếm vị hay
nhưng đối tượng khác, nghĩa là không phải người xứng đáng và không được
thần dân lựa chọn, suy tôn.
2- Không được tự tại, chủ động và chính kiến:
Điều này nghĩa là, nhà vua bị quan phụ tướng đại thần khống chế, việc
làm không được tùy ý, thường gặp sự can ngăn, cho nên những thú vui
riêng cũng không được tự do. Kẻ đứng đầu nhà nước như thế khi quyết
định một việc gì cũng bị chi phối bởi các quan khanh, đặc biệt là những
người giữ trọng trách và có bè đảng. Như thế, ý kiến, sắc lệnh của vua
ban ra không thể theo chính kiến và khó vì mục đích phục vụ nhân dân.
3- Tính tình hung bạo:
Điều này chỉ người lãnh đạo, đứng đầu đất nước có tính bạo ác đối diện
và bối diện. Tánh bạo ác đối diện là khi bầy tôi hay kẻ khác có chút
lỗi nhỏ, liền giận dữ la hét, dùng lời thô tháo quở mắng ngay trước
mặt, thêm xử phạt, biếm truất. Tánh bạo ác bối diện là dù kẻ ấy không
có mặt tại đó, cũng vẫn quở mắng (sau lưng), gây mất uy tín, hạ thấp
danh phẩm của khanh tướng, rồi nặng thêm nữa gia hình phạt tội, hoặc
hằng đem lòng giận ngầm không quên.
4- Nóng giận quá đáng:
Chỉ vị quốc vương tính quá nóng, khi thấy bầy tôi phạm lỗi nhỏ, hơi
vượt kỷ luật, liền tước hết bổng lộc, đoạt hết mọi điều kiện đãi ngộ,
đem hình phạt nặng mà phạt tội.
5- Ân huệ hẹp hòi: Mặc
dù kẻ thần thuộc, hầu cận hết sức trung kiên thanh bạch hợp với tâm
mình, nhưng vua chỉ dùng lời nhu nhuyễn an ủi, nếu có ban thưởng cũng
là phần chút ít không xứng đáng với công lao. Hoặc có khi vua lưu dụng
lâu, hay để cho phục dịch nhiều rồi mới thi ân huệ, khen thưởng. Khi ấy
chả còn mấy giá trị của sự khen thưởng, động viên khích lệ người có
công.
6- Nghe lời tà nịnh:
Vị quốc vương không minh mẫn và nghe tiếng ngọt ngào, lời luận bàn a
dua nịnh bợ của một nhóm thần thuộc. Những kẻ này thật ra chẳng phải
hạng trung lương, không hiểu rành quốc pháp, không có tài trị nước, hay
ganh ghét bậc hiền thần, chỉ xu phụ theo vua để gây thế lực bè đảng
riêng. Do bởi quốc vương ưa nghe lời của bọn tà nịnh ấy, mà kho tàng
hao thiếu, công vụ ngưng trệ, thiện chánh không lưu hành, cho đến quốc
thể bị ô nhục và tiếng tốt của vua cũng tiêu tan.
7- Không gìn giữ được pháp chế của tiên vương:
Vị quốc vương không biết xem xét lựa chọn đức tính, khả năng của bầy
tôi. Vì thế, trong việc nước, kẻ không năng lực và đạo đức lại ủy nhiệm
trọng trách, người có thể ủy nhiệm lại không ủy nhiệm, việc đáng phong
thưởng mà hình phạt, việc đáng hình phạt lại phong thưởng. Ðây gọi là
không duy trì nổi luật pháp, không gìn giữ được giáo mạng của tiên
vương.
8- Chẳng nghĩ đến pháp lành:
Nhà vua không tin nhân - quả, không hiểu nghiệp báo lành, dữ ở tương
lai, từ nơi thân, khẩu, ý tùy tình tạo những ác pháp. Ðã thế mà vua lại
không huệ thí, tu phúc, trì trai, học giới, tu hành theo phép Phật và
phát tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả.
9- Không đoái đến việc phải quấy hơn kém:
Vị quốc vương dụng tâm điên đảo, không nhận biết rõ những sự trung
tín, tài năng, trí tuệ của bầy tôi. Vì thế đối với kẻ không trung tín
tưởng là trung tín, kẻ bất tài tưởng là tài năng, kẻ nông cạn sai lầm
tưởng là trí tuệ. Lại đối với hạng thần thuộc có công phụ tá hầu hạ gần
gũi mình lâu năm, thấy họ suy già không còn thế lực, cố ý lơ lãng
không sanh tâm mến trọng, không cấp cho bổng lộc để đền đáp, biết họ bị
kẻ khác lăng miệt cũng bỏ qua không thăm hỏi.
10- Buông lung, phóng dật:
Nhà vua say đắm theo thú vui ngũ dục, không tự dè dặt giới hạn, không
làm những việc đáng làm, không ủy lạo phong thưởng kẻ có công. Nhà vua
như thế không thể làm gương cho thiên hạ, khó có thể nhiếp phục và cai
trị thiên hạ.
Nếu người đứng đầu đất nước vướng phải
mười điều thất bại như trên, tuy có kho tàng đầy dẫy, tôi giỏi phụ tá,
quân đội hùng mạnh, dân chúng cũng không quy ngưỡng, chẳng bao lâu
trong nước sẽ sinh tai họa biến loạn.
Để khuyến hóa các bậc đế vương, người
đứng đầu đất nước thực hiện tốt trọng trách của mình, Đức Thế tôn cũng
chỉ cho những điều đáng trân trọng mà họ cần phải thực hiện để phát
khởi những điều thiện lành trong việc cai trị đất nước, đó là:
1- Ân dưỡng thương sinh:
Chỉ về vị quốc vương, người lãnh đạo tính biết vừa đủ, hay cẩn thận
không tham lam, thành tựu được hạnh trong sạch. Kho tàng có bao nhiêu,
vua đều tùy phận đem ra cấp thí cho những kẻ nghèo khổ côi cút, lại
thường nhẫn nhục nhu hòa, đem lời êm dịu mà hiểu dụ trong dân chúng.
Các bầy tôi nếu ai phạm pháp, vua lường công tội mà tha thứ, dù phải
trách phạt cũng hợp thời, hợp lý, và có bằng chứng rõ ràng. Do nhà vua
dùng ân đức, chánh đạo mà trị hóa thương sinh như thế, nên được dân
gian yêu kính.
2- Ðầy đủ anh dũng: là
vị quốc vương mưu lược và võ bị đều đầy đủ, kẻ chưa hàng phục có thể
hàng phục, người đã hàng phục lại gia sức hỗ trợ việc trị nước.
3- Phương tiện khéo léo:
Đó là vị quốc vương biết rành rẽ việc trị nước, khéo dùng phương tiện
mà điều hòa nhiếp phục những cường đảng, nên hay dẹp yên được tất cả
oán địch.
4- Giỏi về việc điều nhiếp:
Người đứng đầu đất nước khéo suy tính sự tăng giảm của kho tàng, nên
việc chi dụng được đầy đủ. Vị quân vương như thế không xa hoa hoặc bỏn
sẻn, biết tùy thời mà chu cấp cho trong thân quyến, bầy tôi, và tất cả
kẻ thuộc hạ. Khi những người nầy hay chính mình đau yếu, lại khéo lo
việc thuốc thang, biết lựa chọn các thức đáng ăn hay không đáng ăn. Lúc
có muốn ăn ngon thì đem phân chia đồng nhau, khiến cho những người tùy
thuộc đều hoan hỷ.
5- Siêng tu pháp lành:
Người đứng đầu đất nước, muốn trăm họ lê dân hòa hợp, đồng lòng, tránh
xa những việc xấu ác, thường làm các việc thiện thì vị quốc vương đó
phải có lòng tin trong sạch, nhận chắc có đời sau và những quả báo lành
dữ. Trong ngày lục trai mỗi tháng và ba tháng trường trai mỗi năm, vua
đều thọ trì và giữ các tịnh giới như: không sát sanh, không trộm cắp,
không tà hạnh, không nói vọng, không uống rượu và buông lung theo các
việc vui chơi. Vua lại ưa nghe học về lý nhân - quả, pháp Bát - nhã và
các diệu môn của thánh đạo, siêng năng nghiên cứu cho thông đạt cùng
tiến tu đức nghiệp. Ðối với những kẻ quan, quả, cô, độc, nghèo khổ, tật
bệnh, vua thường thi hành việc làm nhân đạo, mang quốc khố để cứu vớt
không có chút tâm bỏn sẻn, hối tiếc. Với những bậc Sa - môn học rộng,
có giới hạnh, vua thường gần gũi hỏi han, và xa lánh các giáo phái tà
ác. Chẳng những thế vua còn đốc suất quyến thuộc, quần thần cùng trì
trai giữ giới, bố thí làm lành. Trên đây là những điều: chánh tín, giữ
giới, cầu học, bố thí, tịnh huệ của nhà vua biết siêng tu pháp lành.
Trên đây là những điều căn bản cần
thiết đối với người đứng đầu đất nước, Đức Phật đã tùy thuận người hỏi
là một vị quân vương mà chỉ dạy cho đạo trị quốc. Nếu thực hiện được
những điều ấy thì không những đất nước cường thịnh, chư hầu quy thuận
mà trăm họ lê dân còn một lòng quy ngưỡng tuân phục sự lãnh đạo và gia
sức cống hiến cho sự phát triển vững bền của quốc gia. Trong đó, có
những điều là phương pháp trị quốc an dân, nhưng có những điều lại gắn
với việc tôi rèn, tu sửa và vun bồi nhân cách cho bản thân người giữ vị
trí lãnh đạo. Đất nước cường thịnh hay suy vi còn phụ thuộc vào thời
cuộc và nhiều lý do khách quan, chủ quan, nhưng không thể không đề cập
đến vai trò quan trọng nhất của người đứng đầu đất nước. Những nội dung
và lời lẽ trên đây đã được Đức Phật nói ra cách nay đã mấy nghìn năm
nhưng nếu suy xét kỹ nó vẫn đáp ứng được tính thời sự của đòi hỏi xã
hội hiện nay, và chúng ta vẫn thấy nó còn nguyên giá trị thực tế dù đã
qua hơn 2.000 năm tồn tại và phát triển./.
Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ