Tôi nói: Nếu đạo hữu bắt được
những vọng tưởng ấy đem tới đây, tôi quất cho nó mấy roi. Bằng như đạo
hữu không bắt được, tôi cũng không biết làm sao hơn. Hòa thượng thường
dạy: Vọng tưởng không thật, đừng theo nó thì yên. Ngày xưa một thiền sư
Trung Hoa nói với người học trò hỏi đạo thế này: Ma quỷ nào dẫn ông tới
đây hỏi đạo?. Ông đệ tử không trả lời được. Thật ra niệm tưởng là gì? Nó
là những dấy niệm. Chữ niệm là nhớ nghĩ. Sự nhớ nghĩ thì đa dạng, nó ra
sao mình không biết, dài ngắn thế nào không hình dung được. Nó có mặt
vào những lúc mình không thích tí nào hết. Lúc nghỉ ngơi, ăn uống, tụng
niệm, tọa thiền v.v.. nó cứ trào dâng với đủ thứ hình thức, cái còn lại
trong chúng ta sau khi nó tới viếng là phiền não. Bởi vì nó tới quấy rầy
choáng hết một khoảng thời gian, sự an tĩnh của chúng ta mất hết. Cho
nên nghĩ đến công phu tu hành mình không vui. Như người khách mình không
thích tiếp, không muốn tới mà họ cứ tới hoài, quý vị sẽ phiền não chứ
gì. Mình muốn nói thẳng: Tôi không thích ông nữa. Nhưng có ai mà dám nói
thẳng đâu, nên nó xìu xìu ểnh ểnh, chùng chùng, thẳng thẳng, thành ra
phiền não, bất ổn.
Cho nên điều mà ở đây chúng ta cần trao
đổi là công phu. Chúng ta phải làm sao có được một chút thiền định. Như
nghe người nào nói: Sao con cứ bị vọng tưởng quấy rầy hoài, mình biết
công phu của vị đó chưa được định. Bây giờ chúng ta phải làm sao để được
thiền định? Trong công phu tu hành, nếu mình có thiền định thì trí tuệ
phát sinh, bấy giờ vọng tưởng lăng xăng không làm gì được ta. Thật ra
chúng tôi cũng còn niệm tưởng, nhưng tôi không quan trọng nó. Nó muốn
tới thì tới, muốn đi thì đi, tôi không quan tâm, việc tôi tôi cứ làm.
Những lúc nào chúng ta làm chủ được thì nó đứng ngoài cửa ngó thôi,
không làm sao động đến ta nổi.
Bây giờ tôi đề nghị quí Phật tử khi vọng
tưởng lăng xăng đến mình cứ mặc kệ nó, không phiền, không bận tâm, không
nghĩ ngợi gì về nó. Miễn làm sao tâm chúng ta vững, tròn đầy thì tự
nhiên vọng tưởng không làm gì được mình. Đó là một cách để chúng ta nuôi
dưỡng công phu. Theo lời Phật dạy, người tu thiền mạnh trị vọng tưởng
rất dễ. Do sức thiền định của chúng ta yếu nên khó yên ổn, vọng tưởng cứ
quấy rầy hoài. Quý vị nghiệm lại xem trong một ngày, sự tu tập của mình
cứ loay hoay với ba thứ gì đâu. Cuối cùng chúng ta thấy hôm ấy trôi qua
một cách vô lý, mình không làm được gì.
Nghĩ cho cùng không ai bắt chúng ta đi
mãi trong luân hồi, mình cũng thừa biết vòng luân hồi luẩn quẩn, lọt vô
đó rồi thì cứ loay hoay mãi, không ai gỡ ra được. Đức Phật thị hiện nơi
đời chỉ dạy những phương pháp để chúng ta dừng, cắt đứt vòng loay hoay
luẩn quẩn đó, nhưng chúng ta làm chưa được. Bởi thực tế hiện tại những
niệm tưởng ta chưa dứt được, những lăng xăng dấy niệm vẫn còn. Bây giờ
chúng ta phải cố gắng! Nghĩ lại coi ai bắt mình đi trong đó? Tại sao
mình đi tu? Thật ra đâu có ai bắt, vọng tưởng cũng không đem dây đem hèo
gì tới bắt mình theo nó, tự nhiên mình cứ như vậy. Cuối cùng quả thật
vì định tuệ của mình yếu quá, nên chúng ta bị loay hoay như vậy.
Bây giờ tập trung tu hành làm sao để
chúng ta có sức mạnh. Sức mạnh bằng trí lực, dũng lực, bằng sự tỉnh táo.
Có sức mạnh ấy ta mới trị được những thứ kia. Tu làm sao để không bị
luân hồi sanh tử nữa, đừng loay hoay lẩn quẩn nữa, thật là khó ghê lắm.
Bởi vì thói quen lăng xăng mình chưa chịu dừng. Nhiều vị nói: Thưa thầy
con đến thiền viện là nhất định tu đến chết thôi. Tôi bảo: Tốt! Phải có
tinh thần, có tâm mãnh liệt như vậy mới tu được, mới xứng đáng. Nhưng ở
trong chùa đâu được mười ngày, lại thưa: Thầy ơi! Ở nhà kêu con về. Hỏi
về làm gì? Nói không biết nữa, cứ điện thoại lên kêu con về, nhất định
phải có mặt con mới giải quyết được. Đó, cứ như vậy thôi. Lần nầy điện
thoại kêu về, lần sau tự dưng tới khoảng đó quí vị tự về.
Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa. Chẳng
hạn nhức đầu quá phải đi bác sĩ, hổm rày ăn không được phải đi bác sĩ,
hai chân đau phải đi bác sĩ, con mắt lem nhem phải đi bác sĩ v.v.. trăm
ngàn thứ việc. Như vậy làm sao tập trung được tỉnh lực để yên tu, đạt
được định tuệ. Với cuộc diện này, nhìn chung chúng ta yếu thế hơn vọng
tưởng. Nghĩ cũng lạ, phải chi mấy thằng vọng tưởng nó to lớn hay hung
tợn mạnh mẽ nên mình ngán mình sợ, đằng này không thấy mặt mày nó ra
sao, nhưng nó lôi tới đâu là mình theo tới đó, mà chẳng thể làm gì nổi
nó.
Bây giờ đối với vọng tưởng chúng ta phải
làm gì? Phải khởi lên một sự quyết tâm, một niệm kiên quyết mình không
chơi chung với nó, không chấp nhận nó, nó rủ mình đi mình không đi, có
điện thoại tới liền cắt đứt v.v.. như vậy mai ra mới có thời gian tu.
Tôi nghĩ ngày xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta ở trong khổ hạnh lâm sáu năm, nếu
ngài cứ bị triều đình gọi điện thoại về hoài chắc là không thiền định gì
được. Không đắc cả những pháp tu của ngoại đạo, hà huống là định tuệ,
trí lực của pháp giác ngộ giải thoát. Nhờ Bồ tát Sĩ Đạt Ta kiên quyết
một phen qua sông, ngài quyết liệt tăng tiến cho tới thành Phật. Sau khi
thành Phật rồi, ở nhà năm lần bảy lượt cho người mời về, chớ không phải
gọi bằng điện thoại nha, bấy giờ Phật mới chịu về. Khi về ngài chủ
động, chớ không phải bị sắp đặt chỗ này chỗ kia. Đọc lại những đoạn sử
này mình thấy thích thú làm sao.
Tin đức Thế Tôn trở về Ca-tỳ-la-vệ, Tịnh
Phạn vương và thần dân, hoàng thân quốc thích chuẩn bị một cuộc đón rước
thật long trọng. Tuy nhiên Phật không báo trước về lúc nào, đón rước ở
đâu, ăn nghỉ ra sao. Triều đình cũng cho người hỏi han tin tức nhưng
Phật không nói. Ngài về bất ngờ trong hình ảnh một vị khất sĩ hướng dẫn
tăng đoàn đi khất thực từng nhà. Thành ra sự chuẩn bị linh đình của
triều đình không dính dáng gì tới Thế Tôn cả. Ngài dẫn đệ tử đi khất
thực, khất thực đầy bát rồi về, cứ cơm sẵn đó mà dùng đúng như pháp.
Hình ảnh này cho chúng ta một bài học
thật quí báu. Chúng ta đi đâu sắp về là điện thoại báo "Trưa nay nấu cơm
nha, thầy đi với mấy chục Phật tử nữa đó. Ra chợ coi cái gì ngon mua về
nấu". Do vậy ở nhà phải tính toán đúng giờ, tất bật chuẩn bị đủ thứ.
Thấy như bình thường nhưng rõ ràng mình mất chủ động. Đáng lẽ trên đường
mình tự do, muốn đi thì đi, muốn ngừng thì ngừng, chừng nào về tới thì
tới, không quan trọng việc đặt định ở nhà phải cơm nước, như vậy khoẻ
hơn không. Mình đi đứng tự tại, nói làm tự tại, không bị lệ thuộc bởi
điều gì cả. Đàng này dính mắc cơ sở, sự sắp đặt... đủ thứ. Nghiệm từ
những việc nhỏ rồi tới những việc lớn, sự tu hành vì thế khó giải thoát
quá. Rất khó, chớ không phải đơn giản.
Ngày về của đức Thế Tôn ở cung thành
Ca-tỳ-la-vệ, bao nhiêu người trọng vọng, đón rước, cả vua Tịnh Phạn cũng
thế. Nhưng Thế Tôn thực hành đúng theo nghi luật của một đức Phật. Ngài
không để sự thân thương của gia đình, tổ quốc làm trở ngại phép ứng xử
của một đức Phật. Người tu chúng ta bây giờ không khéo còn dính mắc hơn
ai hết. Như từ đây tôi về Đà Lạt thăm Hòa thượng, vừa tính đi thì mấy
chú thị giả biết, liền điện thoại lên Trúc Lâm báo: Bữa nay thầy về đó
nha, khoảng mấy giờ đó là tới. Mỗi lần thông tin như vậy, có khi Hòa
thượng lo. Ngài trông Ủa! Nghe nói chú đi hồi sáng mà tới chiều mới tới,
xe có sao không, đi gặp chuyện gì không... Quý vị thấy, những vướng mắc
của mình ảnh hưởng đến chung quanh. Cho nên chúng ta cố gắng làm sao
gói gọn lại, tháo gở lần ra, để cho hơi thở, cho sự sống của mình được
tự do tự tại một chút.
Bây giờ chúng ta phải định vị lại, định
vị cái gì? Định vị chúng ta là một chúng sanh còn trong luân hồi sanh tử
hay đã giác ngộ giải thoát? Nghe thầy dạy tất cả chúng sanh đều có tánh
giác, ta phải sống được với tánh giác thì mới tự tại, mới giác ngộ giải
thoát. Nhưng bây giờ chúng ta biết được tánh giác ấy chưa, sống được
với nó chưa, hay chỉ nghe và nói qua danh từ? Với người tu, tôi nghĩ
mình phải biết mình. Người xưa dạy chúng ta phải phản quan, phải biết
mình như thế nào. Tôi nghĩ trong công phu, sự tỉnh giác mạnh mẽ và sự
khiêm cung trên bước đường tu tập sẽ giúp cho hành giả đẩy lùi vọng
tưởng một cách có hiệu quả.
Hòa thượng thường động viên chư tăng: Mấy
chú phải tỉnh, nghe tiếng kiểng liền ngồi dậy, cuốn mùng liền, dù muỗi
mòng gì cũng cuốn lại. Rửa mặt rồi đi tới đi lui, hít thở. Nếu thấy hơi
lừ nhừ, uống thêm vài hớp trà rồi đi ngồi thiền. Trong những thời điểm
mình thấy mắt không muốn mở ra, chân không muốn đứng lên, dậy cứ ngồi đó
không chịu rửa mặt, nếu mình chìu theo nó, thì nó dẫn đi đâu? À, ngồi
đó một chút là ngã ra, nằm xuống. Nằm xuống rồi không biết gì nữa. Tới
chừng giựt mình thức dậy nghe đâu năm giờ, người ta xả thiền rồi. Như
vậy suốt hai tiếng đồng hồ, mình ở trong si mê, tăm tối. Cho nên thiền
sư nói hôn trầm là ma quỷ, quả đúng như vậy. Mình đâu biết gì nữa, nó
dẫn đi tuốt luốt không hay. Cũng tại tâm không quyết liệt, xìu xìu ểnh
ểnh mà ra nông nổi ấy.
Nếu chúng ta cố gắng, mãnh tỉnh một chút
thì sẽ vươn lên, vượt qua những trạng thái đó. Nghiệp tập chúng ta vốn
sâu dày mà công đức cạn mỏng, nếu không cố gắng làm sao tu được. Các
thiền sư thường nhắc: Ông đợi tới chừng nào mới kết thúc sanh tử? Lúc
còn tỉnh táo, có thể kiên quyết, có thể lập định thế này thế khác thì
phải cố gắng thực hiện cho bằng được. Chớ đợi tới khi không làm chủ nổi
thân này, đầu óc mù mờ, thân thể mệt mỏi thì đâu có tu được nữa. Cho nên
chúng ta phải định vị để cố gắng vươn lên, nhất định chúng ta phải
thoát ra khỏi con đường trầm luân sanh tử .
Bồ tát Sĩ Đạt Ta khi ngài khổ hạnh triệt
để, thân thể gầy còm, không thể tưởng tượng nổi. Trong sách diễn tả, hai
ánh mắt của ngài sâu hóm như đáy giếng. Thân chỉ còn một chuỗi xương
sống thôi, ngài biết con đường tìm đạo của mình trước đây chưa rốt ráo,
chưa viên mãn. Do vậy ngài kiên tâm quyết chí phải đi cho tới viên mãn.
Từ đó ngài nhận bát sữa của nàng mục nữ và đi tới dưới cội Bồ-đề, trải
cỏ ngồi với một lời thề kiên quyết: Dù thịt nát xương tan, nếu chưa đạt
được đạo quả vô thượng thì ta nhất định không rời khỏi chỗ ngồi này.
Phải ý chí lẫm liệt như vậy mới có một ngày mai giác ngộ rực rỡ. Chúng
ta ngược lại, cứ chấp nhận ngã xuống rồi ngáy lên, tới chừng trời rực
sáng là đã năm giờ. Bửa nào rũi ro như vậy, sáng mai nghe đánh bảng ăn
cơm, mình tự thấy xấu hỗ làm sao, thấy không xứng đáng tí nào hết. Anh
em dậy tu, người nấu cơm chịu nóng, chịu lạnh, dọn lên cực khổ, bây giờ
nghe bản mình lên ăn tỉnh bơ. Ngày nào cũng như vậy thì biết thành cái
gì?
Đối với tâm sanh diệt, nếu chúng ta dứt
được thì làm chủ vấn đề sanh tử. Thật ra chỗ này rất khó nói. Khi Hòa
thượng giảng, có người hỏi: Người tu Tịnh độ, lúc lâm chung niệm Phật A
Di Đà thì được Phật rước, mình tu thiền tới lúc lâm chung ai rước? Các
thiền sư nói đó là lúc tự tại chọn đường mà đi, chứ không ai rước hết.
Chỗ nào chúng sanh cần đến độ thì tới độ. Tới như một sứ giả chứ không
phải bị nghiệp dẫn. Rõ ràng như vậy, khi niệm lăng xăng dứt được thì
sanh tử dứt được. Đi đứng nằm ngồi trong mọi giờ giấc kiểm nghiệm, mình
thấy niệm lăng xăng chưa dứt, thì biết vòng luân hồi chưa thể dứt.
Chúng ta muốn dứt niệm lăng xăng khó hay
dễ? Rất dễ cũng rất khó. Đừng chạy theo nó thì dễ, còn chạy theo nó thì
khó. Hoà thượng dạy chúng ta phải chủ động, đừng để nó chủ động mình,
phiền lắm. Chúng ta đều biết vòng luân hồi sanh tử nếu không dừng được
thì chúng ta còn khổ. Biết sẽ khổ mà cứ lao tới, đó là người không có
trí tuệ. Các thiền sư nói khổ lại thêm khổ. Thành thử bây giờ phải làm
sao dừng được lăng xăng. Nghiệm lại quá trình tu tập, đối với những dấy
niệm chúng ta còn nhiều hay ít thì đoán được kết quả của mình. Từ đó cố
gắng, chứ khỏi cần trông cậy vào ai.
Có một đệ tử đến hỏi thiền sư: Thưa thầy
con có Phật tánh không? Thiền sư đáp: Không có. Vị đệ tử ngạc nhiên hỏi
lại: Tại sao Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà thầy lại
nói con chó không có Phật tánh? Thiền sư đáp: Tại vì có mà không dám
nhận thì cũng như không có. Quý vị thấy phải vậy không? Mình biết dễ mà
tu không được kể như khó chớ gì. Dễ mà khó. Khó nhưng rất dễ. Đây là chỗ
ách yếu trong công phu tu hành của chúng ta.
Trong cuộc sống hiện tại, nếu chúng ta
không chỉnh đốn công phu, cứ để ngày qua ngày, trôi theo các sự duyên,
trong tâm luôn dấy niệm loạn tưởng, thì làm sao tự chủ để đi con đường
mình chọn. Thiền sư thì phải làm chủ, không bị nghiẹâp dẫn. Nghiệp là
cái gì? Nghiệp là năng lực tạo tác từ thân khẩu ý. Thân làm gì, miệng
nói gì, ý nghĩ gì, các thao tác ấy tạo thành năng lực, năng lực đó hình
thành nghiệp lực. Nghiệp lực dẫn mình đi thọ báo. Ví dụ chúng ta hay nói
lời gì, làm gì, lâu dần thành quen, nó dẫn mình đi theo hướng đó. Rồi ý
nghĩ, như xưa nay mình chuyên môn nghĩ xấu thiên hạ, thì ý nghĩ ấy tạo
thành năng lực, đẩy mình đi tới chỗ hễ nghĩ là nghĩ xấu thiên hạ.
Người tu phải chủ động ba nghiệp thân,
khẩu, ý. Đó là cách chúng ta khống chế năng lực xấu. Được thế ta mới tự
tại, còn không khống chế nó, không có năng lực gì hết thì đâu thể tự
tại. Nếu muốn trước giờ phút lâm chung tự tại chọn đường đi thì ngay đây
ta phải tự tại. Bây giờ mình chưa tự tại nên ngồi nghĩ một hồi thì toát
mồ hôi lạnh. Thiền định chưa vững, thầy dạy phải tỉnh mình cũng chưa
tỉnh, xìu xìu ểnh ểnh, buổi khuya ai nấy đều dậy ngồi thiền còn mình nằm
ngủ. Thói quen xấu chưa dừng được tức là còn bị nghiệp lôi.
Chư huynh đệ nhớ, khi thấy tay chân quờ
quạng, hơi thở yếu, ta không còn chủ động được là biết lúc này mình sắp
từ giã. Đừng sợ, đừng hoảng hốt thì mới không đi vào các đường dữ. Bằng
ngược lại, nghiệp lực sẽ dẫn chúng ta thọ sanh ở những nơi tương ưng.
Trong kinh nói rằng người vừa nhắm mắt, tự nhiên thấy trời nổi sấm sét,
rồi tiếng hú, tiếng gầm của cọp beo thật ghê gớm, đương sự mất tự chủ.
Bấy giờ bên cạnh không có đệ tử, cũng không thân thuộc, không có cha mẹ,
hoảng quá rồi chạy lẩn quẩn. Thấy có lùm tre gai nào đó liền tới núp
cho cọp beo đừng xơi. Nhưng vừa núp vô, mở mắt ra thấy mang lông đội
sừng, chuyển sang đời khác. Nghiệp dẫn chúng ta đi chớp nhoáng như vậy.
Nguy hiểm ghê chớ đâu phải chuyện đơn giản. Do vậy cần phải định vị kiểm
thấy mình chưa sáng, còn nghiệp nào xấu nhiều thì phải lo tu sửa, đừng
để tới lúc sắp lâm chung, không thể tu kịp nữa.
Huynh đệ nghĩ rằng, khi mình lâm chung có
những bậc thầy, những huynh đệ đến nói lời khai thị, nếu ???c như thế
thì tốt. Giả như không có thì sao? Cho nên ngay trong khi sống, mình
luôn nhớ những lời khai thị thì mới đảm bảo lúc lâm chung an ổn. Thầy tổ
chúng ta thường dạy, người tu phải quan tâm vào việc chính của mình,
không để dính mắc chuyện bên ngoài. Có ông thầy nào dạy đệ tử tu thì cứ
tu, nhưng chuyện làm ăn lỗ lã của ai con phải biết dùm không? Không có.
Chẳng có thầy nào dạy kỳ vậy. Chỗ này chúng ta chính chắn nghiệm lại,
xem mình có làm đúng lời thầy dạy chưa, hay mình còn quan tâm nhiều thứ
bên ngoài? Thiù dụ chiều chiều ra ngồi gốc Bồ-đề, thấy xe chạy rần rần,
thiệt là sảng sốt. Rồi nghĩ, không biết mấy anh em chạy tới đâu, có
chuyện gì không? Nghĩ rồi tưởng tượng, vẽ thêm sự việc. Có một người
trong nhóm năm bảy huynh đệ nói chuyện xe đụng ở bên tây bên tàu gì đó.
Chuyện vừa dứt thì chuyện xe đụng ở Sài Gòn hay Vũng Tàu được kế tiếp.
Hết Sài Gòn, Vũng Tàu tới các tỉnh miền nam rồi miền bắc. Tự nhiên buổi
chiều hôm đó xe đụng tùm lum hết. Cuối cùng đứng dậây ngơ ngác, vọng
tưởng dẫn cả đám đi nhà thương. Việc người ta chạy báng mạng ngoài đường
có dính dáng gì tới mình đâu, mà suốt buổi chiều xúm nhau, cấm đầu vô
đó mà tưởng tượng, mà nói thôi là nói. Đó là gì? Là điên đảo vọng tưởng,
là không soi xét lại chính mình mà chiếu lộn ra bên ngoài. Thành ra tầm
bậy, khiến cho ba nghiệp không thanh tịnh.
Là người tu, chúng ta phải quan tâm vào
việc của chính mình ngay bây giờ. Ta đang ngồi đây, làm gì? Đang ngồi tự
tại, không làm gì hết. Nhớ luôn quan tâm như vậy, không để niệm lăng
xăng phóng ra, thì mới làm chủ được. Còn nếu ngồi đó mà nói chuyện năm
trên năm dưới thì tu không biết chừng nào cho xong. Đó là ta không chiếu
cố, không chủ động, không xoay lại, không quan tâm chính mình. Việc làm
của chúng ta là vừa nghĩ tới chợ Phước Thái liền chặt, nghĩ Sài Gòn
chặt, nghĩ Vũng Tàu chặt, nghĩ Đà Lạt cúp luôn. Như vậy mình mới yên.
Nếu chúng ta chỉ chuyên tâm chiếu cố việc của mình, đừng chạy ra ngoài,
thì ngay đó trí tuệ rực sáng, mình có thể dừng bớt vọng tưởng dễ dàng.
Bây giờ chúng ta có thể đoán biết tại sao
mình nhiều vọng tưởng? Tại vì mình cứ nghĩ ngợi, cứ lo ra hoài. Bộ phận
đầu não cứ lao lư hoài, từ đó hình thành những dấy niệm, vọng tưởng thế
này thế khác. Bây giờ làm sao đừng để như vậy nữa. Đó là điều rất khó
nhưng không phải là không làm ???c, nếu chúng ta chịu làm. Hoà thượng
dạy niệm vừa dấy lên liền biết, thì cái biết đó là chân tâm. Ngài chỉ
thẳng như vậy cho chúng ta tu, nhưng nếu huynh đệ không chịu thực hiện,
cứ xìu xìu thì tới lúc bỏ thân này chúng ta sẽ quờ quạn. Cho nên bây giờ
phải hạ quyết tâm nỗ lực tu hành.
Chúng ta biết rằng mình đã lang thang
trong luân hồi sanh tử nhiều đời kiếp rồi, bây giờ là lúc phải dừng.
Biết luân hồi sanh tử khổ, đã nếm cái khổ đó nhiều rồi, bây giờ phải tự ý
thức, tự dừng, tự mình làm chủ, đừng để nó kéo lôi lang thang nữa. Như
hôm nay, huynh đệ chúng ta đang ngồi lắng nghe cách hành trì tu tập để
được tự tại đối với các pháp, không bị luân hồi sanh tử nữa. Đó là một
bước tiến. Do đó chúng ta biết cách dừng, biết sợ luân hồi sanh tử thì
kết quả sẽ bớt trôi lăn. Như Phật nói: Người tại gia bị gia duyên ràng
buộc như gông cùm, biết như vậy rồi quí vị không để cho những thứ đó bận
bịu mình nữa. Đó là một cách vươn lên, vùng lên để được giải thoát.
Đã có cách rồi, bây giờ chúng ta phải gì?
Phải nỗ lực, phải tinh cần. Vọng tưởng không có hình tướng gì hết,
nhưng nó có sự hấp dẫn, vì vậy mình dễ lao theo. Bây giờ ta phải giành
quyền làm chủ. Làm chủ ban ngày, làm chủ ban đêm, làm chủ luôn cả trong
giấc ngủ và tất cả các sinh hoạt của mình. Dĩ nhiên thời gian đầu chưa
quen ta bị rối loạn, không được như ý, nhưng không nản chí cứ tiếp tục
thực hành như thế, dần dần ta sẽ làm được. Trước tiên chúng ta dừng được
một số niệm tưởng lăng xăng, từ từ hạ quyết tâm phải chiến thắng toàn
bộ bọn chúng.
Thiền sư Phù Dung thường nhắc nhở: Các
ông đi trong luân hồi sanh tử đã nhiều lần, bây giờ cố gắng ngay trong
đời này phải giải quyết cho xong, đừng đi theo lối mòn đó nữa, chỉ toàn
khổ ách mà thôi. Biết khổ thì đừng lao tới, phải dừng, phải tự khắc phục
lấy. Các ông hạ thủ công phu giống như người trồng hoa trên đá. Chúng
ta luôn quan tâm, xét lại việc bổn phận của mình, dù khó khăn bao nhiêu
cũng cố gắng, nhất định sẽ thành công. Tóm lại, làm sao dứt được luân
hồi sanh tử, đó là điều cốt yếu nhất của người tu.
Muốn dứt luân hồi sanh tử phải làm chủ
được những dấy niệm, đừng để nó chi phối mình. Làm chủ cách nào đây? Quí
vị sắp đặt trong nhà có tấm bảng nhỏ, trên đó ghi rõ năm giờ sáng thức
dậy ngồi thiền, sáu giờ ăn cơm, bảy giờ làm việc, mười một giờ nghỉ...
sắp cho tới năm giờ chiều. Đã ghi trên đó thế nào thì làm y như vậy.
được thế là tập trung, là có sức mạnh. Chúng ta muốn tu đạt kết quả tốt
thì phải đủ bản lĩnh giải quyết việc của mình, không để lơ lững nữa. Ví
dụ năm giờ là giờ tọa thiền, gần năm giờ có bà bạn điện thoại tới nói:
Chị ơi! Bữa nay mình đi chơi chỗ này vui lắm. Nếu quý vị có quyết tâm
trong việc tu hành, sẽ trả lời: Cảm ơn chị, năm giờ em có việc. Cắt một
cái rụp, khỏi giải thích gì hết. Làm được như vậy nhất định quý vị có
sức mạnh, nhất định sẽ thành công.
Việc tu hành hằng ngày phải cương quyết
đối với các dấy niệm, các vọng tưởng. Chúng ta cố gắng chủ trì nó, đừng
để nó dẫn mình đi. Trong những việc đời thường, ta làm một cách an ổn,
không để phiền não len vô, đó là sự định tỉnh thường nhật. Sự định tỉnh
nếu được thực tập thường xuyên sẽ có sức mạnh phi thường. Như khi chúng
ta ngồi thiền được định, đó là chuyện dĩ nhiên. Nhưng xả thiền ra mình
còn định hay không, mới là chuyện đáng nói. Người có sức định tỉnh sâu,
trí tuệ sáng suốt, thấy rõ các sự kiện trước mắt trong mọi thời điểm,
mọi sinh hoạt. Đó mới là nội lực chắc thực.
Hành giả tu thiền không được ai đón như
hành giả tu Tịnh độ, thì mình phải tự tại mà đi. Nếu không, khi thấy
mưa, gió, sấm chớp, tiếng la hét, kêu thương của người thân v.v
làm
mình không yên. Những thứ đó sẽ kéo lôi mình vào các đường xấu. Như vị
nào trước phút lâm chung mà sân thì đi vào cõi ngạ quỷ. Thường thường
khi gần chết, người ta nhớ lại đủ thứ chuyện cũ. Có người nhớ lại rồi
sân, hoặc thân thể đau nhức quá cũng sân. Nhiều người đau quá không thể
niệm Phật mà kêu trời, vì họ không làm chủ được thân đau nhức. Chúng ta
đôi khi cũng vậy, vì hằng ngày không quen làm chủ nên tới lúc hấp hối,
cận tử nghiệp quay mình. Bây giờ phương pháp tu hành chúng ta đã nắm,
chỉ còn tích cực gầy dựng năng lực trong công phu, để đảm bảo có thể chủ
động được trước phút lâm chung. Lúc này phải có sức mạnh mới cắt được
dòng cận tử nghiệp.
Các thiền sư Việt Nam luôn dạy chúng ta
phản quan tự kỷ, đó là việc bổn phận của mình. Xem xét lại chính mình,
không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng
ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn. Chính mỗi
người nghiệm xem coi mình làm chủ được chưa, rồi những huynh đệ chung
quanh có làm chủ được không? Trong huynh đệ chúng ta có người làm chủ
được, đó là tin vui, giúp mình tin tưởng rồi tất cả sẽ làm chủ được hết.
Chúng ta tu thiền, Tổ bảo phải được định, có trí tuệ, chúng ta cố gắng
tu cho ???c như vậy. Chớ biểu được định, chúng ta không định, không định
làm sao có tuệ, mà không có định tuệ thì đâu làm chủ được.
Trong số các Phật tử đây, có nhiều vị đâu
phải mới đi chùa ngày hôm nay. Tôi biết quý vị đã đi chùa nhiều năm
tháng rồi, đã học Phật, đã có tâm tu hành mong cầu giác ngộ giải thoát,
nhưng tại sao không được kết quả tốt. Đó là vấn đề quí vị phải suy nghĩ.
Các thiền sư nói: Mỗi chúng ta đều có chân tâm, có bản lai diện mục, có
Phật tính. Phật tính là gì? Là chất Phật thật. Có sẵn tánh Phật chúng
ta mới tu thành Phật được. Nếu không có tánh Phật mình tu không thành
Phật đâu. Chúng ta có sẵn nhưng vì bỏ quên, ngược xuôi theo trần cảnh
bên ngoài nên lắm lem. Bây giờ cố gắng xoay về, nhận lại tánh Phật ấy
thì hết khổ, hết lang thang trôi dạt trong sáu nẻo luân hồi. Đó là chúng
ta biết tu.
Thiền sư Hoàng Bá có lời răn nhắc thế này:
Muốn thoát trần lao việc phi thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Mình phải là người gìn giữ lập trường.
Bởi vì muốn tu, muốn được hết khổ, được giải thoát thì phải giữ vững lập
trường. Nhưng chỉ giữ vững lập trường không đủ chưa? Chưa. Ví chẳng một
phen xương lạnh buốt, nghĩa là nếu chúng ta không có công phu, không có
sự gắng gổ, thì không thể nào giác ngộ. Câu chót ngài nói: Hoa mai đâu
dễ ngửi mùi hương, tức là không có công phu chắc thực thì trí tuệ không
sáng suốt, không nhận ra được tánh Phật sẵn có nơi mình.
Trên đường tu, chư huynh đệ chúng ta hữu
duyên kết được chủng Phật và ít nhiều gì chúng ta đã có một quá trình tu
tập. Ngày hôm nay mình nhận ra lẽ chân ngụy là đã khá lắm rồi, bây giờ
chỉ cần cương quyết lên, nỗ lực công phu thấu xương thấu tuỷ thì lo gì
không có ngày đạt đạo. Kính chúc toàn thể chư huynh đệ dừng được tâm
sanh diệt của mình, để rồi tất cả chúng ta tích cực bảo vệ sự tu tập của
mình đạt được kết quả viên mãn, vĩnh viễn an vui, tự tại.
HT. T.N.Q