Hòa bình là một đặc tính mà thế giới hiện tại đang bàn
bạc và đây là điều quan tâm nhất của các nhà lãnh đạo và các tổ chức
trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn có một số đông quần chúng không có
tin hẳn vào bức thông điệp do Ðức Phật tuyên bố, vì hai lý do:
Một là thông điệp hoà bình, tình thương và hạnh phúc của Ðức Phật
cho tất cả chúng sanh đã được tuyên thuyết ở một giai đoạn khi mà
các châu lục bị phân chia bởi vật lý, địa lý, ngôn ngữ, và chủng
tộc. Sự cô lập của địa lý, sự giới hạn của thông tin và bị hạn chế
theo từng vùng đã khiến cho mê tín tràn lan và Phật pháp không được
san sẻ. Trong một tình hình như vậy cái không biết (tri thức) lấn át
cái biết thì dù các nước hiện tại đã phát triển nhiều về khoa học
kỹ thuật trong thế giới hiện đại thì cũng sẽ trở nên không phát
triển hoặc đang phát triển, vì dân chúng sống trong các lục địa rộng
lớn này sẽ không có cơ hội để nghe, biết và hiểu những tinh hoa của
giáo lý Ðức Phật.
Một yếu tố khác chống lại sự phát triển truyền bá thông điệp của
Ðức Phật là phương thức phổ biến tôn giáo. Có tôn giáo đã truyền bá
bằng gươm đao và chiếm đoạt. So với điều này, Ðạo Phật là một tôn
giáo không có lực lượng vũ trang, cũng không có thánh chiến trong
việc truyền bá giáo lý. Ðạo Phật đã lan rộng một cách từ từ nhưng
vững vàng chắc chắn đến tất cả các trục lộ giao thông của các nước
mà Ấn Ðộ có quan hệ ngoại giao như: Tây Tạng, Trung Quốc, Ðại Hàn,
Nhật Bản và Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ. Hoàng đế A-dục cũng đã gởi những
đoàn truyền giáo Phật giáo gồm tu sĩ và cư sĩ tới các kinh đô ở phía
Ðông và Tây. Vua A-dục cũng phái hai người con của mình là Hoàng tử
Mahinda và công chúa Sanghamitta tới Tích Lan để truyền bá Phật
giáo. Chính công chúa Sanghamitta dã mang một cây Bồ-đề con (Ficus
religiosa) của cây Bồ-đề nơi Ðức Phật thành đạo tới Tích Lan. Cây
này cho tới nay vẫn còn sum suê xanh tốt và được xem là một cây
Bồ-đề có lịch sử cổ xưa nhất trên thế giới. Cây Bồ-đề này là biểu tượng của sự giác ngộ. Từ Tích Lan và Ấn Ðộ, Phật giáo lại được truyền đến Miến Ðiện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Cam-pu-chia và Nam Dương.
Ngày nay thế giới đang được thu hẹp trong kích thước. Các quốc
gia đang phát triển và chưa phát triển đã có tiến bộ về khoa học kỹ
thuật, trong khi các nước đã phát triển rồi lại trở nên đang phát
triển. Trong kỷ nguyên này, việc đi lại trở nên dễ dàng, nhanh chóng
và thuận lợi. Thông tin thì nhanh tức thời. Vì vậy sự phong phú về
kiến thức là di sản chung của tất cả mọi người và do đó thông điệp
của Ðức Phật đã được lan truyền đến các nơi trên thế giới.
Vài Nhận Xét
Mặc dù với kiến thức sẳn có ở mỗi người nhưng vẫn còn có sự phê
bình chỉ trích Phật giáo cũng như nhưng quan niệm và nhận thức sai
lầm đối với các lời dạy của Ðức Phật. Cũng còn có những người có học
thức hiểu biết đã cố gắng đánh đồng Phật giáo với Ấn Ðộ giáo. Cũng
có những người uyên bác đã nghĩ rằng Phật giáo đã không có khác với
các tôn giáo hữu thần khác. Thậm chí, có một số người cho rằng Phật
giáo thì đầy những niềm tin và tu tập mê tín. Nhìn từ bên ngoài, các
điều này dường như là mâu thuẫn khiến ngăn trở sự hòa hợp về ý thức
hệ của các tôn giáo. Sự dường như khác nhau này đúng hơn là chỉ do
sự hiểu lầm, thông tin sai lạc và sự trình bày không đúng với những
di sản văn hóa và những động lực xã hội mà những mô hình phức tạp
của nó đồng thời tồn tại trong một cách thức không phô trương trong
xã hội đa dạng. Do đó, để hiểu bản chất của lời dạy Ðức Phật thì rất
cần thiết và là điều cốt lõi để nghiên cứu sự khác biệt giữa Phật
giáo và các tôn giáo đang tồn tại khác để chúng ta có thể làm rõ hơn
lời dạy của Ðức Phật.
Các tôn giáo khác có chủ trương để thỏa mãn các khuynh hướng tâm
lý, các thái độ hoài nghi và hiếu kỳ của những người khác; các
phương pháp tư duy và lòng tin của họ thì quá nhiều đến nỗi mọi sự
nghi ngờ đều được giải quyết với phương pháp tốt nhất. Một số những
lời giải thích này là dựa trên trí sáng suốt của Ðấng Tạo hóa, dựa
trên lòng từ bi bác ái quãng đại của Ngài. Người ta cũng nói rằng
một số các yếu tố nền tảng này thì không được đặt thành vấn đề nữa.
Vài người chấp nhận tôn giáo dựa trên đức tin mù quáng hoặc trên
những giáo điều độc đoán. Tuy nhiên, những yếu tố này là nhằm thỏa
mãn tâm linh của những người mộ đạo. Ðối với họ không có vấn đề gì.
Lo-gic và lý lẽ phải đưa đến lòng sùng đạo. Lòng tín duy lý, lý luận
khoa học, và cách giải thích hợp lý ở mỗi tôn giáo thì có khác
nhau. Ðiều này khẳng định rằng các phương pháp và các kỹ xảo hiện
đại không có chủ định và không thể áp dụng trong trường hợp của tôn
giáo. Về cơ bản, tôn giáo được coi là khác với khoa học, bởi vì với
họ tôn giáo chính là sự mặc khải - mệnh lệnh của Thượng Ðế. Còn
ngược lại, Phật giáo thì lại rất hoan nghênh, khuyến khích tinh thần
nghiên cứu, suy tầm, quán sát nội tâm một cách hợp tình, hợp lý và
đầy khoa học. Ðiều này đã được minh chứng trong kinh Kalama nổi
tiếng mà trong đó Ðức Phật đã dạy như sau:
"Này các Kalama, đừng nên dựa vào những gì đã được nghe nhiều
lần, cũng không dựa trên truyền thống, trên tin đồn, chân lý, triết
lý lô-gích, thành kiến, năng lực và sự quan tâm của người khác, cũng
như không dựa vào ngay cả thầy của chúng ta."
Thông thường, có người nói chống Phật giáo vì rằng họ cho rằng
Phật giáo tin vào Thượng đế, chấp nhận đức tin tầm thường và thờ
phượng cây cối, những hình tượng, trời đất, mặt trăng và các tinh
tú. Ở đây những người chỉ trích này đã phạm lỗi là trộn lẫn các giá
trị văn hóa, các tập quán xã hội và những đức tin truyền thống trong
nhiều giai đoạn khác nhau của sự thăng hoa lịch sử xã hội. Những
người chỉ trích này đã quên hoặc không biết rằng đạo Phật không bao
giờ loại bỏ cách sống hiện hữu và các giá trị văn hóa của đời sống
bằng cách áp đặt một cách sống mới lên trên đó mà trái lại đạo Phật
uyển chuyển tìm cách thích nghi đời sống văn hóa của mỗi xã hội mà
không lạc mất tinh thần của mình.
Trong tính cách như thế, nếu những người có hoài nghi, chỉ trích
và quán sát như vậy sẽ chất vấn một Phật tử, liệu vị ấy có tin vào
một mớ hỗn độn của những khái niệm này không, thì vị Phật tử sẽ trả
lời là "có" và cũng có thể là "không," bởi vì lòng tin con người thì
dễ dàng thích hợp, sẽ không có điều gì không hợp lý trong cách tư
duy, lô-gích, trong tổ chức của các lực lượng và năng lực cơ bản của
cũ và mới, của không biết và huyền bí. Ðối với cá nhân này, Phật
giáo và các giới luật đứng trên nền tảng đỉnh cao của niềm tin và mê
tín cũ và Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) được đặt ở vị trí cao nhất.
Một trong những điểm đáng lưu ý nhất của Phật giáo là ở chổ có
Phật tử đã tin có thần thánh trong tôn giáo của mình. Cho nên vị ấy
cầu nguyện thì hẳn chúng ta không nên lầm lẫn với Phật tử chân chánh
là những người đang tu tập chuyển hóa mình đến trạng thái tâm hoàn
thiện- Niết-bàn. Vị ấy ắt hẳn chưa có phẩm chất tư lực như Ðức Phật
đã dạy. Người có đức tin chân chánh trong niềm tin tôn giáo của họ,
thì tin có năng lực thiện ác, thiện thần và những năng lực siêu
nhiên nhân từ và Ðức Phật chiếm giữ vị trí cao nhất trên tất cả các
thiện thầnẨ
Trong một ý muốn mạnh mẽ để cải đạo, những nhà truyền giáo của
tôn giáo khác đã phá hủy tinh thần xã hội, biến họ thành ngu đần và
trở thành một mẫu văn hóa và chủng tộc xa lạ. Sự hăm hở của họ là để
thay đổi giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống, và những luân lý
xã hội sẽ trở thành các hình thức, sắc thái tinh thần của sự nỗ lực
thay đổi đó để bắt buộc tôn giáo khác cùng với các văn hóa của nó
thành những gì mà họ nghĩ là một nhóm thấp hơn. Vì vậy, họ đã nỗ lực
thay đổi văn hóa, xã hội và tinh thần quốc gia của một dân tộc.
Những tình trạng như vậy gây ra sự thiệt hại mà không thể phục hồi
được về mặt xã hội và tâm lý bởi vì các nhà truyền giáo đã khử trừ
sức sống, và lần lượt làm tê liệt ý chí vươn lên. Bề ngoài, sự cải
đạo như vậy dường như có vẻ thành công nhưng bên trong, các lãnh vực
tâm lý của con người, niềm tin và các giá trị cũ vẫn còn tiềm ẩn
làm mờ đi tất cả những ánh sáng bên ngoài của các tôn giáo mới. Từ
đó, trong xã hội này sẽ nảy sinh một sự mâu thuẫn không chỉ về văn
hóa và chủng tộc mà còn cả về tôn giáo nữa.
Bất kỳ nơi nào, Phật giáo cũng được nhìn nhận là các lời dạy của
Ðức Phật không bao giờ xung đột với các giá trị truyền thống của xã
hội mới. Cũ và mới, cổ và tân đồng tồn tại bên nhau. Khi tâm đã
hướng thượng và đạt tri kiến cao, thì những phạm vi bùa chú và mê
tín, y học và khoa học trở nên yếu đi. Sự tổng hợp này xảy ra toàn
bộ hay từng phần và tiến trình được tiến triển cho đến ngày nay. Do
đó đối với những người quan sát thiển cận, nhà phê bình và những nhà
truyền giáo cứng nhắc, thì những điều này dường như mâu thuẫn không
thể hòa hợp với nhau được. Kết quả là họ lên án Phật giáo là vô
minh và có sự khác biệt khi họ quán sát lời Ðức Phật dạy. Họ đã suy
diễn liên hợp với ảo tưởng, ngay cả chỉ như một phương tiện kỹ xảo
tạm thời của con người để đáp ứng sự căng thẳng tâm lý hoặc những
khủng hoảng tình cảm thì không phải không là những tín ngưỡng cần
thiết. Thêm vào đó, thật là tức cười, vì họ vẫn chấp nhận nhu cầu
của con người cho sự sống còn để đạt đến trạng thái hạnh phúc an lạc
tối thượng và điều này chỉ đạt được khi diệt trừ các điều ác. Trái
lại Phật tử biết rằng tất cả các pháp là vô thường, khổ và vô ngã.
Hiểu Giáo Lý Của Ðức Phật
Muốn khẳng định rằng tôn giáo trên căn bản có khác với sự hợp lý
hóa của khoa học, thì chúng ta có thể lấy lập luận của A-tỳ-đàm để
trả lời cho vấn đề này. Về cơ bản, các giáo lý thâm sâu của Ðức Phật
gần gủi với khoa học như là sắc và tâm (nama-rupa). Lời dạy chính yếu của Ðức Phật là:
"Không làm các điều ác,
Vâng giữ các điều lành,
Làm thanh tịnh tâm ý
Ðó lời chư Phật dạy"
Ðiều này xin được nói rộng thêm rằng tất cả các pháp do kết hợp mà thành thì đều là vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta).
Vì vậy một chúng sanh không gì khác hơn là danh và sắc. Sắc là sự
biểu thị của những năng lực. Người xưa đã xem chúng như nguyên tử (paramanu).
Ðức Phật thì coi chúng như là những thành tố nền tảng của sắc chất.
Từ đó chúng ta biết rằng Phật giáo thì rất cập nhật với những khám
phá của khoa học mới đây nhất về bản chất của sự sống.
Theo Phật giáo, sanh được xem là sự hiện hữu. Tiến trình của hiện
hữu sẽ được tiến hóa theo dòng thời gian khởi đầu do bởi vô minh
rồi tạo ra một chuỗi mắc xích nhân duyên (paticca-samuppada). Chuỗi nhân duyên đó được thành lập như sau:
1. Do vô minh, hành khởi
2. Do hành, thức khởi
3. Do thức, danh sắc khởi
4. Do danh sắc, lục nhập khởi
5. Do lục nhập, xúc khởi
6. Do xúc, thọ khởi
7. Do thọ, ái khởi
8. Do ái, thủ khởi
9. Do thủ, hữu khởi
10. Do hữu, sanh khởi
11. Do sanh, lão tử khởi.
Một cách tất yếu, nếu nhân diệt thì duyên diệt. Ðiều này nghĩa là, nếu vô minh diệt hoàn toàn thì sanh tử cũng chấm dứt.
Sau khi đã giải thích nguồn gốc của các pháp hữu vi, sự tham ái
và tình cảm con người, Phật giáo đã cố gắng giải thích sự biến đổi
đời sống giống như một dòng tương tục của hiện hữu. Tiến trình này
không bao giờ thỏa mãn. Vì vậy, điều này chứng minh rằng ngay cả
việc đạt được những tiến bộ kỹ thuật cao nhất của thế giới hiện đại
vẫn phải chịu chi phối bởi quy luật phổ quát 12 nhân duyên này, vì
chính đời sống cũng tùy thuộc vào lý duyên khởi. Không ai có thể
tránh và thoát khỏi nó.
Từ giai đoạn này Ðức Phật tiếp tục phân tách trạng thái hiện tại
và tìm phương cách để chấm dứt vô thường, khổ của tất cả các pháp
hữu vi. Thế nên thông điệp của Ngài rất rõ ràng, đây không phải là
cách trốn thoát trong sợ hãi do thiếu can đảm và phấn đấu. Ðây chính
là cách tìm giải pháp cho vấn đề - vấn đề con người sanh tử và biết
cách tháo gở ra khỏi tình trạng khổ đau đó. Ðiều này luôn luôn hiện
hữu trong thế giới hiện tại và tương lai. Ðể hiểu điều này một cách
cụ thể chúng ta nên dùng ví dụ để minh họa như sau: ví như có người
đang bị vây hãm trong lửa. Cách thoát duy nhất là ra khỏi lửa và
không nên đứng yên trong đó. Hoặc ví như bị nước lụt hay băng qua
sông thì cách duy nhất để khỏi bị chìm là leo lên thuyền và chèo đến
nơi an toàn. Hoặc ví như có người muốn chế ngự khỏi bị rắn cắn thì
phải nên lánh xa nó.
Cũng vậy lửa sân hận có thể tránh và dập tắt bởi tình thương.
Dòng thác tham ái phải được vượt qua bằng tâm buông xả và dòng sông
luân hồi phải đi qua bằng tâm trong sáng. Sự não hại của vọng tưởng
có thể được xóa tan bằng cách phát triển chánh tư duy. Về điểm này,
Ðức Phật đã dạy chúng ta không nên dính mắc vào hai cực đoan (quá
khổ hạnh và quá hưởng lạc) mà nên theo con đường lý trí thực tiễn
gọi là trung đạo. Nếu bám lấy cực đoan khổ hạnh hoặc cực đoan hưởng
lạc thì có khả năng đưa chúng ta đến nguy hại. Sự nguy hại về tinh
thần này vẫn còn là điều phổ biến trong thế giới hiện đại ngày nay.
Ðiều này không giới hạn ở thời cổ đại mà ngay thời khoa học kỹ thuật
hiện đại cũng không thể vượt qua nó bởi vì nó liên quan đến trạng
thái tâm và các trạng thái này không phải là vật chất để dể loại bỏ.
Vì vậy con đường đảm bảo hạnh phúc nhưng tu tập rất khó khăn đó
là con đường trung đạo. Ðây là con đường chân chánh và được gọi là
Bát Chánh đạo (Thánh đạo tám ngành). Ðây chính là một đáp án cho
những vấn đề phức tạp mâu thuẫn trong mỗi con người chúng ta. Nó bao
gồm 8 đặc tính và được sắp xếp thành ba cột là: giới (sila), định
(samadhi) và tuệ (panna).
Giới gồm có: Chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
Ðịnh gồm có: Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Tuệ gồm có: Chánh kiến và chánh tư duy.
Chứng nghiệm Bát chánh đạo sẽ đưa chúng ta đạt được trạng thái cứu cánh Niết-bàn.
Ở đây vấn đề được đặt ra là: Tại sao chúng ta lại chối bỏ chính
những điều tốt đẹp nhất của cuộc đời. Vì Bát Chánh đạo khó để áp
dụng lắm phải không? Tại sao người ta không nên hưởng thụ dục lạc
trần gian với tất cả niềm hạnh phúc của nó? Vì sau khi chết điều gì
sẽ xảy ra đối với con người chúng ta? Ai biết? Ai có thể nói? Quay
lại cội nguồn, đầu tiên con người chúng ta là sinh vật sống không có
tổ chức xã hội, nhưng con người là một sinh vật có lý trí cao nhất
trong các loài sinh vật và là loài đặc biệt duy nhất có năng lực
chinh phục môi trường cả không gian và vũ trụ. Ngay cả trong một xã
hội như vậy, con người không thể sống đơn độc một mình. Người ta
phải sống có gia đình, đoàn thể; và sẽ không thể sống hạnh phúc yên
ổn, hòa bình nếu mọi người luôn luôn sống trong lo âu sợ hãi lẫn
nhau.
Vì vậy quy luật đạo đức là rất cần thiết cho con người sống hòa
bình trong xã hội. Ngày nay đức hạnh này vẫn còn rất quan trọng
trong tâm của tất cả chúng sanh, là những khuôn mẫu đạo đức, do các
nhà sáng lập tôn giáo thuyết giảng và càng lúc con người càng ý thức
hơn về sự quan trọng của đạo đức khi thấy sự nguy hiểm trong thế
giới này khi đối diện với dân số gia tăng trong các đô thị, khi đối
diện với sự tàn khốc của chiến tranh, phân biệt chủng tộc, bất bình
đẳng và nghèo đói. Có quá nhiều mối quan hệ với nhau đến nổi chúng
ta khó mà phân biệt người xấu giữa những người khác. Người ta thích
nói chuyện hòa bình nhưng lại không chống đối chiến tranh và giết
người. Mạng sống con người là món quà quý giá nhất. Rất ít sự khác
biệt giữa hai loại này về mặt yếu tố đời sống. Vì vậy, thật là đạo
đức giả khi nói chuyện hòa bình mà không nói về sự ngăn chặn nạn
giết người của chiến tranh. Tại sao con người (đau khổ) lại từ bỏ
thông điệp hòa bình cứu khổ? Có phải vì con người không thể và sẽ
không sống chỉ vì ăn? Có phải con người phải đấu tranh ngay cả phải
trả giá bằng sinh mạng của đồng loại mình ? Về tinh thần, đây là
những vấn đề tranh cải giống nhau mà ảnh hưởng đến các bậc lãnh đạo
quốc gia đang nổ lực tiêu diệt các nước yếu hơn; còn các nước mạnh
hơn thì lại làm cho yếu đi. Ðó là luật của kẻ mạnh đè kẻ yếu (cá lớn
nuốt cá bé), luật của khôn sống mống chết về phương diện sức mạnh
thân thể, năng lực hóa học và sinh học.
Cũng giống như các đức tính tốt khác: tránh tà dâm, tránh nói dối
và tránh sát sanh. Khi xã hội tiến hóa và khi giá trị đạo đức trở
nên cần thiết thì 5 giới này sẽ cung cấp phương thức sống cho nhân
loại trong tất cả các xã hội hiện tại và tương lai. Sinh vật có lý
trí sống thành xã hội (tức con người) này phải nhất định từ bỏ lối
sống thú tính phi đạo đức thời sơ khai để sống hòa hợp trong xã hội.
Một số người sẽ chấp nhận và tuân thủ cách sống đạo đức sớm hơn những
người khác. Một số người chỉ có thể áp dụng từng phần nhưng có người
có thể giữ cả 5 giới. Có người thực hiện được hết mặc dù không
dưới danh nghĩa 5 giới này nhưng nó giống như một cách sống đạo đức
đứng đắn.
Hạnh phúc là niềm ước vọng của con người. Con người từ bây giờ
nên thay đổi để thành con người đạo đức, biết quan tâm đến những
người xung quanh. Mỗi quốc gia nói chuyện hòa bình và mỗi người tận
tâm mong muốn hòa bình cho chính bản thân mình. Nhưng còn đối với
những người ở gần và xa chúng ta thì sao? Các nhà lãnh đạo đã nói
nhiều thậm chí gào thét cho hòa bình trên mọi diễn đàn. Nhưng nếu
không có những đức tánh tốt này xuất hiện trong tâm của từng cá nhân
hoặc từng quốc gia thì có thể mong đợi hòa bình ở trong cộng đồng
hoặc tại quê hương mình hoặc tại hải ngoại được chăng? Ðó là dấu
hiệu hạnh phúc để thấy được đặc tính hiểu biết này trong tâm trí của
quần chúng, những người đã đấu tranh ác liệt và đẫm máu nhất trong
các cuộc chiến tranh và các quốc gia đòi hỏi vũ khí tối tân nhất để
tiêu diệt con người. Với sự hiểu biết này, những đức hạnh khác như:
lòng thương xót (metta), lòng cứu khổ (karuna), hoan hỉ trong niềm vui của người khác (mudita) và tâm tràn đầy sự buông xả (upekka)
cũng cần được phát triển. Con người có thể trau dồi được những đức
tính này, khi con người nhận thức và thực hành chúng. Rồi con người
sẽ tiếp cận gần hơn sự chứng nghiệm hạnh phúc tâm linh trong đời này
và đời vị lai.
Sự hoàn thiện trong lời dạy của Ðức Phật
Bây giờ vấn đề được đặt ra là tại sao chúng ta lại mang lấy sự
rắc rối này trong khi chúng ta đang đi đến cái chết cùng với sự tan
rã của thân xác trong cuộc đời này. Nói tóm lại, tại sao chúng ta
lại bi quan đến như vậy? Có cảnh giới nào bên ngoài cõi đời này
không? Cái gì là bản chất cuộc đời? Câu trả lời thông thường là hoặc
thiên đàng hoặc địa ngục. Trong cuộc sống, điều đó có lẽ là không
phải là câu trả lời rốt ráo. Chúng ta sẽ chưa chấm dứt được luân hồi
sanh tử cho đến khi chúng ta đạt được trạng thái an lạc hoàn toàn.
Ðiều này có thể đạt được bằng cách thanh tịnh tâm khỏi các phiền não
như tham (raga), sân (dosa), và si mê (moha).
Ðiều đó có thể đạt được trong thế gian này bởi người luôn trau dồi
các trạng thái tâm và dần dần thăng tiến lên trạng thái hoàn hảo tốt
đẹp, có thể là ngay bây giờ, khi mình còn sống; hoặc một ngày nào
đó khi mạng sống sẽ chấm dứt. Làm sao để được như vậy? Và làm sao để
thực hành? Hành động của mỗi người có thể là thiện hoặc ác, đạo
đức hoặc không đạo đức. Tâm của một người có thể phát triển hoặc
không phát triển. Tham của một người có thể nhanh hoặc chậm. Chúng
sanh có thể tiếp tục trong chuỗi sánh tử ở nơi đây hoặc một nơi nào
đó tùy theo hành động (kamma) của chính mình. Theo dòng nghiệp của mình, một chúng sanh được sanh ra trong dòng luân hồi (samsara).
Sự kéo dài đời sống của tâm và thân, trạng thái tương tục của tâm
do nghiệp lực và hậu quả tái tạo nên chúng sanh trong nhiều kiếp
sống. Tiến trình thanh tịnh tâm cần nên liên tục. Các trạng thái đạt
được của tâm nên phát triển cho đến khi tâm được trong sáng, hoàn
hảo và đạt được trạng thái tâm lý an lạc của Niết-bàn.
Như đã trình bày sự sanh và tái sanh tiếp tục trong trạng thái
hoặc trạng thái khác xuyên qua dòng chảy tương tục của tâm ý theo
nghiệp riêng của từng vị. Trong Phật giáo, tiến trình này được giải
thích bằng giáo lý nghiệp và tái sanh. Sự sanh tiếp tục cho đến khi
nghiệp duy trì sự tồn tại của mỗi con người bị chấm dứt. Sự chấm dứt
của sanh tử sẽ đưa đến trạng thái hạnh phúc hoàn toàn mà trong Phật
giáo gọi là Niết-bàn. Cách sống này tới một mức độ như đã phát họa
có thể được áp dụng trong đời này cả trong các xã hội văn minh hoặc
kém văn minh. Song mong muốn hiện hữu này không dẫn đến hạnh phúc
rốt ráo. Vị ấy phải chấm dứt dòng sanh tử. Ðó là đối tượng và mục
đích tối thượng của mỗi chúng sanh. Ðó chính là mục tiêu của người
Phật tử và vị ấy tu tập giới lụât trong niềm hy vọng và cho mục đích
này. Trạng thái an lạc này có sẳn ở mỗi chúng ta và chỉ chúng ta
phải tự giác ngộ lấy mà thôi.
Ở đây người cư sĩ và đặc biệt những người phương Tây chống lại
những vấn đề xa lạ đối với họ, với triết lý cuộc sống và tôn giáo
quen thuộc của họ. Ðó chính là quan niệm sống sau khi chết trong
chuỗi tái sanh vô tận trong vô số hình thức. Một điều như vậy có khả
năng xảy ra không ? Nhưng những nhà tư tưởng phương Tây và đầu óc
phương Tây bây giờ có thể tốt hơn trước đây. Họ thấy rằng một điều
như vậy thì không thể không xảy ra được. Có những biến cố và những
bất hạnh nào đó trong đời sống này không thể giải thích được ngoại
trừ bằng niềm tin của chúng ta. Năng khiếu khác thường nào đó của
trẻ con ở lứa tuổi còn rất nhỏ, nhìn chung chúng ta không thể giải
thích được. Cho đến nay việc chuyển giao năng khiếu ngang qua di
truyền đã có thể chứng minh được. Nhưng ký ức và sự hồi tưởng về
những việc xảy ra nào đó trong quá khứ mà do trẻ em kể lại đã đưa ra
một vấn đề mà trong đó sự giải đáp hợp lý là tái sanh. Các nhà tâm
lý học đang nghiên cứu hiện tượng này và số lượng các trường hợp như
vậy được ghi nhận là đang gia tăng. Dĩ nhiên trong Phật giáo khi
người đạt được ngũ thông (panca abhinna) thì việc hồi tưởng được kiếp trước (pubbe nivasanussatinana)
của mình là thông thứ ba-Túc mạng thông. Cho đến nay, người ta khó
có thể tin và hiểu một số bằng chứng về khả năng thực tế của tái
sanh.
Cơ cấu vận hành của thuyết tái sanh là gì? Nghiệp lực thiện hoặc
ác cho là năng lực tái sinh và như là yếu tố quyết định liên tục của
dòng luân hồi. Nó không phải là một sự cân bằng mà trong đó thiện
và ác được xóa bỏ như là các yếu tố cộng trừ, tính ra thành số nợ
hay lãi. Ðó là một khái niệm mà từ đó ý nguyện thiện ở nơi nào, thế
nào đó hoặc ngày nào đó sẽ hưởng quả tốt đẹp.cũng như vậy, nghiệp ác
sẽ bị đền trả bất như ý. Sự chuyển giao nghiệp lực tiềm tàng có một
sự trung gian mà môi giới trung gian đó thì siêu hình và phi vật
chất. Chính cái tiến trình siêu hình giống như năng lực điện trong
thiết bị điện tử. Năng lực tái sanh chính nó là vốn có trong chính
nó, giống như năng lượng điện tử hay các tầng số âm thanh và ánh
sáng. Ở đây đặc biệt sóng âm thanh hoặc tia sáng ảo có trong nó toàn
bộ tiềm năng cho việc tái sanh ra bản thân nó nếu sự thiết lập
thích hợp vừa đúng để tiếp nhận nó. Có lẽ nghiệp lực trong hành động
có thể được giải thích giống như trong ngôn ngữ bình thường. Việc
cân bằng cuối cùng sau rốt là sự đồng nhất nghiệp lực mà nghiệp lực
đó tái sanh ra quả, nghĩa là một chúng sanh mới là quả của các giai
đoạn liên tục của đời sống. Cái gì là sự đồng nhất của nó? Làm sao
có thể giải thích được điều này?
Có nhiều vấn đề cần phải tìm câu giải đáp. Người cư sĩ phát hiện
điều này khó hơn để làm cho hòa hợp các yếu tố này. Người cư sĩ
trong các nước đang phát triển và chưa phát triển thì khám phá điều
này khó hơn để tin là điều này có thể xảy ra. Có người khẳng định
rằng những điều này là khái niệm triết học, là học thuyết tôn giáo
đã được thảo luận, tranh luận và bình luận rất nhiều ở trên. Một sự
giải thích về những điều đơn gỉan nào đó thì không thể, trừ khi thực
sự giác ngộ hoặc tự chính mình chứng nghiệm thì ánh sáng có thể
giải thích một cách dễ dàng. Nhưng một ngươiụ mù thì sẽ hầu như
không thể hiểu được những gì đã giải thích. Một người có thể mô tả
con đường hoặc phương tiện để đi đến một nơi. Ngay cả người ấy
có thể mô tả rõ nơi đó như thể mình đã từng ở đó. Nhưng người đó
không thể cảm nhận nó hoặc nhận thức nó trừ khi chính người đó đã
từng ở đó. Cũng như vậy, những điều này được nhận thức bởi chính cá
nhân của mỗi người. Phật giáo đã khẳng định con đường này do Ðức
Phật thuyết giảng. Ðiều này đã được giải thích. Những người khác
cũng có thể tu tập theo giáo lý Ðức Phật. Ngoài điều này ra không ai
có thể giúp đỡ được. Mỗi người là vị cứu tinh cho chính mình. Không
ai có thể cứu người khác được. "Attahi attno natho." Khi một người
đã đi theo chánh đạo, tu tập tôn giáo, phát triển tâm mình, người đó
không thể không đạt được trạng thái Niết-bàn tối thượng. Trạng thái
đó nằm trong tầm tay với của chúng ta.
[Trích dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Buddhism in Today and Tomorrow," của tiến sĩ Nandadeva Wijesekera trong tác phẩm Các Viên Ngọc Trí Tuệ của Phật Giáo (Gems of Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 51-67].