Các
thần chú đều được chư tổ phiên âm từ Phạn sang Hán, rồi từ Hán sang
Việt. Trải qua hai lần phiên âm như vậy nên cũng cùng một chữ Phạn mà
khi sang tiếng Việt thì biến thành nhiều dạng, thí dụ như chữ Svaha,
biến thành: xóa ha, tóa ha, tát bà ha, ta phạ ha, tá hắt. Chữ Om biến
thành Án, Úm, v.v...
Theo giáo lý Mật tông hay Chân ngôn tông thì việc tụng và phát âm
thần chú rất quan trọng. Vì Phạn âm (đúng hơn là Phạm âm, tức âm thanh
của Phạm thiên) có năng lực rung cảm với pháp giới và chư thiên long bát
bộ. Do đó chúng ta thấy các vị Lama Tây Tạng phải luyện giọng để tụng
và phát âm các bài chú một cách rất đặc biệt.
Không phải là
chuyên tu về Mật tông nên chúng ta không thể và cũng không cần phải tụng
giống như các Lama, nhưng ngày nay đa số chúng ta đều đọc được chữ quốc
ngữ dựa trên các mẫu tự La tinh (a,b,c,d, ...), và tiếng Anh, tiếng
Pháp, nên đều có thể đọc được ít nhiều tiếng Phạn (la tinh hóa), mặc dù
không chính xác lắm. Chúng ta tụng các thần chú Lăng Nghiêm, đại bi,
thập chú vì theo truyền thống do chư tổ để lại, và chúng ta đặt hết niềm
tin nơi các ngài. Nhờ lòng tin kiên cố mà có cảm ứng. Chính vì thế mà
sự phiên âm hay phát âm không thành vấn đề, đọc là xóa ha, toá ha, hay
tát bà ha cũng được.
Ngày nay với phương tiện truyền thông
internet, chúng ta có thể sưu tầm, tra khảo nhiều tài liệu mà không cần
phải mất công đi xa. Nhân tìm thấy tài liệu trên website của chùa Tịnh
luật www.tinhluattemple.org (website này không còn update) nên tôi sưu
tập và biên soạn lại 10 bài thần chú này để làm tài liệu tham khảo cho
những vị nào muốn biết rõ hơn về cách chuyển âm cũng như xuất xứ. Về
nghĩa thì chư tổ chủ trương không dịch nghĩa mà chỉ dịch âm, đó là vì
tâm con người hay phân biệt chấp trước và đóng khung sự vật. Một khi
biết được nghĩa rồi thì xem thường mà không tu hành thực tập nữa (sở tri
chướng). Sự dịch nghĩa ở đây chỉ đại khái trên văn tự để biết một chút
ý nghĩa của bài chú. Vì thật ra kinh chú của chư Phật và Bồ tát thì vô
lượng nghĩa. Những ai đã quen trì tụng thần chú bằng tiếng Tàu, hay
tiếng Việt thì cứ tiếp tục, ở đây không có ý khuyên quý vị phải đổi cách
tụng. Tụng chú không phải là một cứu cánh, mà chỉ là phương tiện trợ
đạo. Người tụng chú mà tâm tham lam, ác độc, ích kỷ, không diệt trừ ngã
mạn, kiêu căng, không tu sửa tánh tình, không từ, bi, hỷ, xả, không giữ
gìn ba nghiệp thanh tịnh thì dù có tụng hàng trăm ngàn biến, thọ hàng
trăm lễ quán đảnh, có được thần lực này nọ thì cũng chỉ là tà đạo, không
phải là đạo Phật.
Các bài chú tiếng Phạn được trình bày ở đây
với tính cách tài liệu tham khảo, chưa chắc đúng hẳn 100%, nhưng ít ra
cũng cho ta thấy được một chút mặt mũi nguyên bản và nguồn gốc của
chúng. Nếu quý vị nào có tài liệu chính xác hơn thì xin hoan hỷ gửi cho
tôi để bổ chính lại. Xin đa tạ.
Thích Trí Siêu, 29/5/04
Phụ đính: Có một số Phật tử muốn tụng chú theo tiếng Phạn nên tôi cố
gắng phiên âm tiếng Việt cho gần với chữ Phạn. Tuy nhiên, một lần nữa,
quý vị nào quen đọc Thập chú theo âm Hán xưa nay thì cứ tiếp tục, không
cần phải sửa đổi cách tụng.
Ngoài ra tôi cũng bổ túc những câu thiếu trong thần chú "Như ý bảo luân vương đà la ni".
Thích Trí Siêu, 8/11/10
1/ NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI
Namo
Buddhaya, namo Dharmaya, namo Sanghaya. Namo Avalokitesvaraya
bodhisattvaya mahasattvaya, maha karunikaya. Tadyatha: OM CHAKRA,
VARTTI, CINTAMANI, MAHA PADMA, RURU, TISTA, JVALA AKARSAYA, HUM, PHAT,
SVAHA. OM PADMA, CINTAMANI, JVALA HUM. OM VARADA, PADME HUM.
Âm Hán:
Nam
mô Phật đà gia, nam mô đạt ma da, nam mô tăng già da. Nam mô Quán tự
tại bồ tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Đát điệt tha: Án chước yết ra,
phạt để, chấn đa mạt ni, ma ha bát đằng mế, rô rô (rô rô), để sắt tra,
thước la, a yết rị sa dạ, hồng, phấn, toá ha. Án bát đạp ma, chấn đa mạt
ni, thước ra hồng. Án bát lặc bà, bát đẳng mế hồng.
Âm Việt:
Nam
mô Bút đa gia, nam mô đạc ma gia, nam mô xăng ga gia. Nam mô Avalôkitê
sờ va ra gia, bô đi sát toa gia, ma ha sát toa gia, ma ha ka ru ni ka
gia. Tát gia tha: Ôm cha kờ ra, vạc ti, chin ta ma ni, ma ha pát ma, ru
ru, ti shờ ta, gioa la, a các sa gia, hum, phat, xóa ha. Om pát ma, chin
ta ma ni, gioa la hum. Ôm va ra đa, pát mê hum.
Nghĩa:
Quy
y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng. Con xin quy mệnh với Đức Chuyển luân
vương như ý bảo châu đại liên hoa là Bậc đã xa lìa Nội Trần và Ngoại
Trần. Con xin an trụ theo ánh lửa rực rỡ của Ngài để thỉnh triệu Chư
Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Chúng, Tám Bộ Trời Rồng, Chư Vị Hộ Pháp nhắm
giúp cho con phá bại Tâm vị ngã, phát khởi Tâm bồ đề, thành tựu cát
tường.
Xuất Xứ: Như Ý Tâm Đà La Ni Kinh. Nội dung kinh này nói về
Bồ tát Quán Tự Tại được sự chấp thuận của Đức Phật liền tuyên thuyết Vô
Chướng Ngại Quán Tự Tại Liên Hoa Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni . Đức
Phật lại bảo: Nếu người nào tụng chú này 1 biến thì trừ được tội, qua
được tai nạn, thành tựu sự nghiệp. Còn nếu ngày nào cũng tụng 108 biến
thì sẽ có cảm ứng khiến thấy được thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà
và núi Bổ Tát La nơi Bồ tát Quán Thế Âm cư ngụ, khỏi đọa vào đường ác.
2/ TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Namah samanta, Buddhanam, apratihatasa, sananam, tadyatha:
OM
KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA
TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI, SHANTIKA, SRIYE SVAHA.
Âm Hán:
Nam mô tam mãn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha:
Án
khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra
nhập phạ ra, bát nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí
rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
Âm Việt:
Na ma xa măng ta, bút đa nam, a pờ ra ti ha ta xa, xa na nam, tát gia tha:
Ôm
kha kha, kha hi, kha hi, hum hum, gioa la gioa la, pờ ra gioa la, pờ ra
gioa la, ti shờ ta, ti shờ ta, sít ti ri, sít ti ri, sờ pha ti, sờ pha
ti, shăng ti ka, shi ri giê, xóa ha.
Nghĩa:
Hỡi ánh lửa
rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đã thiêu cháy mọi năng chấp, sở
chấp, hãy tỏa sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia trì này
nhằm phá tan sự trì độn chậm chạp của Nội Chướng và Ngoại Chướng. Đồng
thời khiến cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt
lành.
Xuất Xứ: Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường
Đà La Ni. Thần chú tiêu trừ các tai nạn, thành tựu việc cát tường. Một
trong 4 Đà La Ni thông dụng trong Thiền lâm, cũng là pháp Tức Tai trong
Mật giáo. Thần chú này xuất phát từ Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu
Tai Cát Tường Đà La Ni và Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Xí Thạnh Quang
Như Lai Tiêu Diệt Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni.
3/ CÔNG ÐỨC BẢO SƠN ÐÀ LA NI
Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya.
OM SIDDHI, HOH DHURU, SUDHURU, GARJA, GARBHA, SADHARI, PURNI, SVAHA.
Âm Hán:
Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng dà gia.
Án tất đế, hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.
Âm Việt:
Nam mô Bút đa gia, nam mô đạc ma gia, nam mô xăng ga gia.
Ôm sít đi, hô đu ru, xu đu ru, gạc gia, gạc ba, xát đa ri, puộc ni, xóa ha.
Nghĩa:
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Vinh
quang thay sự thành tựu ! Hãy vui vẻ ôm giữ, khéo ôm giữ kho tàng Chân
Như! Hãy khéo giữ gìn tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
Xuất Xứ: Kinh Ðại Tập (Sutrasamuccaya)
Nếu
người tụng chú này một biến, công đức cũng bằng như lễ Ðại Phật Danh
kinh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển Ðại Tạng 60 vạn 5
ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ, đọa vào A Tỳ địa ngục
chịu tội, kiếp hết lại sanh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một biến,
tội kia đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa ngục, khi mạng chung
quyết định vãng sanh Tây phương thế giới, được thấy Phật A Di Ðà, thượng
phẩm thượng sanh.
4/ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
NAMO SAPTÀNÀM, SAMYAKSAMBUDDHÀYA, KOTINÀM, TADYATHÀ: OM CALE CULE CUNDHE SVAHA.
Âm Hán:
Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha.
Âm Việt:
Nam mô xáp ta nam, xam mi ác, xam bút đa gia, kô ti nam, tát gia tha: Ôm cha lê, cha lê, chun đê xóa ha.
Nghĩa:
Quy
mệnh Bảy trăm triệu Chính Đẳng Chính Giác - Như vậy liền nói chú rằng:
Khi Thân, Khẩu, Ý hợp nhất với sự Giác Ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào tự
tính thanh tịnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc của Đại Niết
Bàn.
Xuất Xứ: Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh
Người trì
tụng thần chú này đủ chín chục ngàn biến, có thể diệt được các tội thập
ác, ngũ nghịch, tiêu trừ tai nạn, bịnh hoạn, tăng nhiều phước thọ.
5/ THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI
OM NAMO BHAGAVATE, APARAMITA, AJURJNÀNA, SUVINE, SCITA TEJA RÀJAYA, TATHÀGATÀYA, ARHATE, SAMYAKSAMBUDDHÀYA,
OM SARVA SAMSKÀRA PARI’SUDDHA, DHARMATE, GAGANA, SAMUDGATE SVÀBHAVA, VISUDDHE, MAHÀ NAYA, PARIVERE, SVÀHÀ.
Âm Hán:
Án
nại ma ba cát ngoả đế, a ba ra mật ra đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể,
thiệt chấp đạp, điệp tả ra để dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam
dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp.
Án tát rị ba, tang tư cát
rị, bốc rị thuật đạp, đạt ra mả đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba
ngoả, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt.
Âm Việt:
Ôm
nam mô bà ga va tê, a pa ra mít ta, a duộc giờ nha na, xu vi nê, xít
ta, tê gia ra gia gia, ta tha ga ta gia, a ra ha tê, xam mi ác xam bút
đa gia.
Ôm xa oa, xăng xờ ka ra, pa ri sút đa, đạc ma tê, ga ga
na, xa mút ga tê xoa ba va, vi sút đê, ma ha na gia, pa ri vê rê, xóa
ha.
Nghĩa:
Quy mệnh kính lễ Đức Thế Tôn VÔ LƯỢNG THỌ TRÍ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác.
OM,
tất cả hoạt động Tâm Ý đều là Pháp Tính cực thanh tịnh. Thanh tịnh như
Tự Tính thắng thượng của Hư Không. Hãy phát khởi Thắng Nguyện rộng lớn
để mau chóng đạt được sự an lạc thanh tịnh của Đại Niết Bàn.
Xuất xứ: Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương Như Lai đà la ni kinh.
6/ DƯỢC SƯ QUÁN ĐỈNH CHÂN NGÔN
NAMO
BHAGAVATE, BHAISAIJYA GURU, VAITURYA, PRABHA, RAJAYA TATHAGATAYA,
ARHATE, SAMYAK SAMBUDDHAYA, TADYATHA. OM BHAISẠIJYE, BHAISAIJYE,
BHAISAIJYA, SAMUDGATE SVÀHÀ.
Âm Hán:
Nam mô
Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà
giã, đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà gia, đát điệt
tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Âm Việt:
Nam
mô ba ga va tê, bai xa gia gu ru, vai tu ri gia, pờ ra ba, ra da gia,
ta tha ga ta gia, a ra ha tê, xam mi ác xam bút đa gia, tát gia tha. Ôm
bai xa giê, bai xa giê, bai xa gia, xa mút ga tê, xóa ha.
Nghĩa:
Quy
mệnh Đức Thế Tôn DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng
Chính Giác - Như vậy liền nói chú rằng: Xin Ngài hãy ban cho con thuốc
diệt trừ bệnh quả báo, bệnh nghiệp ác, bệnh kiến tư, bệnh trần sa, bệnh
vô minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Xuất Xứ: Kinh Dược Sư
Nếu
ai có bịnh chi, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú này 108 biến để chú
nguyện vào ly nước sạch rồi uống thì các bệnh đều tiêu trừ. Còn người
nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến lúc mạng
chung được vãng sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật
Dược Sư.
7/ QUAN ÂM LINH CẢM CHÂN NGÔN
OM MANI PADME HÙM,
MAHÀ JNÀNA, KETU SAVÀDA, KETU SÀNA, VIDHÀRIYA, SARVÀRTHA, PARISÀDHAYA,
NÀPURNA, NÀPARI, UTTÀPANÀ, NAMAH LOKE’SVARÀYA, SVÀHÀ.
Âm Hán:
Án
ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta
nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát, nạp bổ
ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết thuyết ra gia, tóa
ha.
Âm Việt:
Ôm ma ni pát mê hum, ma ha giờ nha na, kê
tu xa va đa, kê tu xa na, vi đa ri gia, xạc oa tha, pa ri sa đa gia, na
puộc na, na pa ri, út ta pa na, na ma lô kết sờ va ra gia, xóa ha.
Nghĩa:
OM
MA NI BÁT MÊ HÙM là tính chất mầu nhiệm của cây phướng Đại Trí. Hãy
ngồi dưới cây phướng ấy, xa lìa mọi sự chấp giữ mà thành tựu trong khắp
các cõi. Hãy luyện các căn cho thanh tịnh để thành tựu viên mãn các pháp
và siêu việt tất cả. Con xin quy mệnh công đức nội chứng của Đức Thế Tự
Tại. Nguyện cho con được thành tựu như Ngài.
Xuất Xứ: Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương
Phật
bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại Minh Ðà La Ni này khó được
gặp gỡ, nếu có người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương đây, thì người đó
tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu đeo mang trì giữ nơi thân,
người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chơn ngôn này vô lượng
tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào
biết được. Ðây là chỗ bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát.
8/ THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÂN NGÔN
REPA REPATE, KUHA KUHATE, TRANITE, NIGALA RITE, VIMARITE, MAHA GATE, SANTIM KRITE, SVAHA.
Âm Hán:
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càng đế, ta bà ha.
Âm Việt:
Rê pa rê pa tê, ku ha ku ha tê, tờ ra ni tê, ni ga la ri tê, vi ma ri tê, ma ha ga tê, xăng tim kờ ri tê, xóa ha.
Nghĩa:
Mọi
đường lối và tính chất của sự thấp hèn đều tuân theo sự hấp thụ điều
cao quý và tính chất cao quý mà vận chuyển thành ánh sáng rực rỡ vinh
quang. Đây là con đường rộng lớn hay chận đứng mọi tai họa để viên mãn
Phước Trí.
Xuất xứ : Đại phương đẳng đà la ni kinh
Đây là
bài chú của bảy đức Phật đã nói từ những đời quá khứ. Thần chú này hay
diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch và được vô lượng phước, nếu thành
tâm trì tụng.
9/ VÃNG SINH TỊNH ĐỘ ĐỘ ĐÀ LA NI
NAMO
AMITÀBHÀYA, TATHÀGATÀYA, TADYATHÀ: AMRITOD BHAVE AMRITA SIDDHAM BHAVE,
AMRITA VIKRÀNTE, AMRITA VIKRÀNTA, GAMINI, GAGANA , KÌRTI KARE, SVAHA.
Âm Hán:
Nam
mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, A
di rị đá tất đam bà tỳ, A di rị đá tì ca lan đế, A di rị đá tì ca lan
đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Âm Việt:
Nam
mô a mi ta ba gia, ta tha ga ta gia, tát gia tha: a mi ri tốt ba vê, a
mi ri ta xít đam ba vê, a mi ri ta vi kờ răng tê, a mi ri ta vi kờ răng
ta, ga mi ni, ga ga na, kiệc ti ka rê, xóa ha.
Nghĩa:
Quy
mệnh A Di Đà Như Lai. Ngài liền nói chú rằng: Hiện lên Cam Lộ, phát sinh
Cam Lộ, Cam Lộ dũng mãnh, đạt đến Cam Lộ dũng mãnh, rải đầy hư không,
thành tựu cát tường.
Xuất xứ: Kinh niệm Phật ba la mật
Người
chuyên tụng chú này được Phật A Di Đà thường ngự trên đỉnh đầu ủng hộ,
hiện đời an ổn, khi mạng chung được tùy ý vãng sanh.
10/ THIỆN NỮ THIÊN CHÚ
NAMO BUDDHÀYA, NAMO DHARMÀYA, NAMO SANGHÀYA.
NAMO SRÌ MAHÀ DEVÀYA, TADYATHÀ,
PARIPÙRNA, CALE, SAMANTA DARSANI,
MAHÀ VIHARA GATE, SAMANTA, VIDHÀNA GATE,
MAHÀ KARYA PATI, SUPARIPÙRE,
SARVATHA, SAMANTA, SUPRATI, PÙRNA,
AYANA, DHARMATE, MAHÀ VIBHASITE, MAHÀ MAITRE
UPASAMHÌTE, HE ! TITHU, SAMGRHÌTE,
SAMANTA ARTHA ANUPALANI.
Âm Hán:
Nam mô Phật Đà gia, Nam mô Đạt Ma gia, Nam mô Tăng già gia.
Nam mô thất lị ma ha đề tỷ gia, đát nễ dã tha,
Ba lị phú lâu na, giá lị, tam mạn đà, đạt xá ni,
Ma ha tỳ ra ha đế, tam mạn đà, tỳ ni già đế,
Ma ha ca lị dã ba nễ, ba ra ba nễ,
Tát lị phạ lật tha, tam mạn đà, tu bát lê đế, phú lệ na,
A lị na, đạt ma đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha di lặc đế,
Lâu phả tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế,
Tam mạn đà, a tha a nậu đà la ni.
Âm Việt:
Nam mô Bút đa gia, nam mô đạc ma gia, nam mô xăng ga gia.
Nam mô shi ri ma ha đê va gia, tát gia tha,
Pa ri puộc na, cha lê, xa măng ta, đạc xa ni,
Ma ha vi ha ra ga tê, xa măng ta, vi đa na ga tê,
Ma ha ka ri gia pa ti, xu pa ri pu rê,
Xác oa tha, xa măng ta, xu pờ ra ti, puộc na,
A gia na, đạc ma tê, ma ha vi ba si tê, ma ha mai tờ rê,
U pa xăng hi tê, hê ti thu, xăng gờ ri hi tê,
Xa măng ta ạc tha, a nu pa la ni.
Nghĩa:
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Quy y Cát Tường Đại Thiên. Chú nói như vậy:
Hỡi Đấng quyền năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng !
Đấng chủ tể Đại Tác Nghiệp hay nhìn thấy khắp nẻo rộng lớn !
Hãy khéo léo làm cho tất cả đều được đầy đủ.
Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối thượng.
Hãy
thể hiện lòng đại từ làm cho Lý pháp tính tỏa sáng màu nhiệm rộng lớn
khiến cho con và chúng sinh được thích ứng với sự lợi ích chân chính.
Mừng
thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương. Đấng chân chính gìn giữ sự lợi
ích. Hãy giúp cho con và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài sản
lợi ích.
Xuất xứ : Kinh Kim Quang Minh
Trong kinh này nói những kẻ tụng chú này, phàm muốn cần dùng điều chi thì đều được đầy đủ.
Thích Trí Siêu (Phạn - Hán) - trisieu.free.fr