Các bậc đạo sư từ Butan, Nepal,
Tây Tạng đã được cầu thỉnh sang truyền lễ quán đỉnh cho những ai có
nguyện vọng thực hành pháp Phật theo truyền thống Mật tông.
Đó là điểm khởi sắc mới trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, từ thực tế ấy cũng không ít hiện trạng phát sinh như: thiếu
sự rõ ràng trong đường hướng tu tập, nhận lễ quán đỉnh không vì ý nguyện
tìm cầu giải thoát, thiếu sự hướng đạo của bậc đạo sư thực thụ, rào cản
ngôn ngữ, địa lý, thiếu kiến thức căn bản về giáo lý Mật tông nói riêng
và giáo lý Phật giáo nói chung, tính tự phát của một số đạo tràng Mật
tông, v.v… Đây chính là những gì mà chúng ta cần phải bàn bạc, thảo luận
để củng cố và chấn chỉnh lại hệ thống Mật thừa Phật giáo ngay tại miền
Bắc.
Nguồn gốc Mật tông tại Việt Nam
Mật tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bí mật bắt nguồn từ Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, 6 tại Ấn Độ và du nhập vào Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ 7, thịnh hành vào thế kỷ thứ 8 với sự xuất hiện của ba vị Cao tăng Ấn Độ sang truyền pháp là Thiện Vô Úy (zh. 善無畏, s. śubhākāraṃsiha; 637-735), Kinh Cương Trí (zh. 金剛智, s. Vajrabodhi; 663-723) và Bất Không Kim Cương (zh. 不空金剛, s. Amoghavajra; 705-774).[1]
Mật tông vốn truyền vào Việt Nam
từ khá sớm. Theo Thiền uyển tập anh, vào thế kỷ thứ VI, ngài Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, người Ấn Độ, đã đến Việt Nam và dịch kinh Đại thừa phương quảng
tổng trì tại chùa Pháp Vân. Đây là một bộ kinh của Mật giáo, và liên hệ
rất nhiều đến Thiền.
Vào thời Đinh và Tiền Lê, Mật tông đã khá thịnh hành tại Việt Nam.
Những trụ đá được phát hiện tại Hoa Lư, Ninh Bình vào các năm 1963,
1964, 1978 - dựng vào năm 973, thời Đinh; có trụ dựng năm 995, thời Lê
Đại Hành - đều khắc bản kinh Phật đỉnh Tôn thắng Đà-la-ni (Usnisavijaya
dharani), một bản kinh rất phổ biến của Mật giáo, đã chứng minh cho điều
đó.
Dĩ
nhiên Mật tông thịnh hành tại nước ta không chỉ do mỗi ngài Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, mà còn từ Phật giáo Chiêm Thành, những Tăng sĩ ngoại quốc và
những vị sư Việt Nam thọ học từ Ấn Độ. Trong đó, ngài Mahamaya, gốc
Chiêm Thành, thuộc đời thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từng theo
học với ngài Pháp Thuận - Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi - cũng
rất nổi tiếng về pháp thuật. Thiền uyển tập anh cho rằng ông đắc pháp
Tổng trì Tam muội, thi triển nhiều pháp thuật khiến cho vua Lê Đại Hành
và dân chúng đều nể phục. Một thiền sư Việt, ngài Sùng Phạm (mất năm
1087), đời thứ 11 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã đến Ấn Độ chín
năm, sau mở trường dạy tại chùa Pháp Vân. Đệ tử của Ngài có sư Từ Đạo
Hạnh nổi tiếng về phù chú và sư Trì Bát cũng thấm nhuần Mật giáo. Đại
Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về một vị Tăng sĩ Ấn Độ, vào năm 1311,
đến nước ta, xưng là 300 tuổi, theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi
trên mặt nước. Năm 1318, vua Anh Tông mời một Tăng sĩ Ấn Độ, tên Ban Để
Đa Ô Sa Thất Lợi đến dịch một bộ kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần chú
kinh.
Thiền
uyển tập anh còn cho thấy, trong thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi còn có
những vị thiền sư khác giỏi về Mật tông, như: Vạn Hạnh (?- 1068), Thiền
Nham (?- 1163), v.v… Bên cạnh đó, thiền phái Vô Ngôn Thông, dù
không nghiêng về Mật tông, song dấu ấn của Mật tông cũng được thể hiện
khá rõ, điển hình qua các vị thiền sư Không Lộ, Giác Hải và Nguyện Học.
Thiền sư Không Lộ từng cùng với các sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh qua Thiên
Trúc học Mật giáo, chứng đắc “lục trí thần thông”. Không Lộ nổi tiếng
với câu chuyện hóa duyên (xin đồng) xứ Tống và chữa bệnh lạ cho vua Lý
Thần Tông. Thiền sư Giác Hải được biết đến qua câu chuyện thi triển thần
thông với đạo sĩ Thông Huyền. Còn sư Nguyện Học chuyên trì tụng chú
Hương Hải Đại bi trị bệnh và cầu mưa không khi nào là không linh nghiệm.
Như
vậy, ngay thời kỳ hoàng kim của Phật giáo Thiền tông, dấu ấn Mật tông
vẫn thể hiện rất đậm nét. Ngài Pháp Loa (Nhị tổ thiền phái Trúc Lâm)
cũng dành nhiều thì giờ cho việc trì chú. Ngài cũng phân tích và chú
thích một kinh văn có khuynh hướng Mật tông là Kim Cương trường Đà la ni
khoa chú.
Tuy
thế, Mật tông Việt Nam từ thời kỳ đầu cho đến những thập niên cuối thế
kỷ XX, dù có những ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tu tập của Tăng
Ni, Phật tử, song vẫn chưa thành lập tông phái một cách rõ ràng cũng như
chưa có các dòng truyền thừa chính thức. Trong nhiều thời điểm, Mật
tông tại Việt Nam được vận dụng như một phép thuật “quái lạ” khiến cho
nhiều người cảm thấy nghi ngại. Đó là đặc điểm cũng như những hạn chế
của Mật tông “truyền thống” tại Việt Nam.[2]
Thượng tọa Thích Viên Thành - người khơi nguồn Mật tông tại miền Bắc
Theo
lời mời của Ngài Đại sứ nước Anh tại Bhutan lúc bấy giờ, Thượng tọa
Thích Viên Thành - Viện chủ chùa Hương và chùa Thầy, đã đến Bhutan và
thọ pháp với Đức Pháp chủ của quốc gia này, thuộc dòng truyền thừa
Drukpa. Được sự gia trì và ban phước của Pháp chủ Bhutan, nên dù chưa
trải qua thời kỳ nhập thất và hành trì dài lâu, Thượng tọa vẫn được phép
truyền thụ lễ Quán đảnh cho đệ tử nhằm “đem sự thực hành này để phát
triển tâm linh cho Tăng Ni Phật tử trong nước”. Vì vậy, năm 1992 được
xem là thời điểm đầu tiên Mật tông Tây Tạng có sự truyền thừa chính thức
đến Việt Nam do sự truyền dạy của TT. Thích Viên Thành.
Dù
vậy, sự truyền bá Mật tông Tây Tạng của cố Thượng tọa vẫn có ít nhiều
điểm khác biệt so với sự thực hành theo đúng với khuôn mẫu, điển hình
như việc trì tụng chú Đại Bi, Chuẩn Đề - hai câu chú này vốn không được
truyền thừa trong các dòng phái Tây Tạng; tại Tây Tạng, người ta chỉ
thực hành thần chú của Quan Thế Âm Thập Nhất Diện và các pháp Quan Âm
khác, vì vậy cho đến nay, vẫn chưa có sự truyền thừa cũng như khảo cứu
rõ ràng về hai câu chú ấy. Hơn nữa, việc Thượng tọa viên tịch quá sớm
cũng là một mất mát lớn lao cho hàng đệ tử của ngài - họ không thể có đủ
thời gian để thực hiện hoàn tất các pháp tu mà ngài đã được truyền thụ.
Dù vậy, hơn 16 năm qua, Mật tông Tây Tạng do cố Thượng tọa hướng dẫn
vẫn âm thầm bắt rễ trong đời sống của nhiều Tăng Ni, Phật tử, nhất là
phía Bắc.[3]
Mật tông miền Bắc - hiện trạng cần chấn chỉnh
Sau
ngày cố Thượng tọa Thích Viên Thành thị tịch, phong trào Mật tu tuy
không được phổ cập như khi Ngài còn tại thế, nhưng vẫn được các đệ tử
chân truyền cả tăng lẫn tục âm thầm thực hành gìn giữ bản sắc Mật tông
do Ngài truyền lại. Trong số đó có một số đạo tràng Mật tu phát triển
thu hút được khá đông Phật tử quy về tu tập theo đúng tông chỉ của cố
thượng tọa. Tuy nhiên, cũng có một số đạo tràng (do các cư sỹ hướng dẫn)
còn mang những nhược điểm chưa đẹp cần khắc phục như:
Đa số các Phật tử trong Đạo tràng chưa được quy y Tam bảo, truyền nhận năm giới.
Giáo lý căn bản của Phật nói chung và giáo lý Mật tông nói riêng chưa nắm vững.
Pha
trộn hình thức tín ngưỡng dân gian vào trong nghi thức hành trì như: Lễ
thánh thần (đền Trần, đền Gióng, bà Chúa Kho, phủ Dày), Lễ mẫu (mẫu
Thoải, mẫu Thượng ngàn, ông Hoàng ba, Hoàng bảy, Hoàng mười), đốt vàng
mã,v.v…
Thực
hiện những khóa lễ mang hình thức mê tín, phản khoa học như: chữa bệnh
cho bà Chúa Kho, chữa bệnh cho Long vương Hồ Tây,v.v…
Một
số thành viên trong Đạo tràng sau thời gian tu tập lại bị các vong
(được cho là vong của các thần, thánh) nhập vào và có những lời nói mang
hình thái mê tín dị đoan.
Tâm
niệm của các thành viên trong Đạo tràng khi tu tập mang nhiều hình thức
của cầu danh lợi, sự nghiệp, tiền bạc, chưa phát huy tâm niệm tu để
giải thoát.
Nghi quỹ, nghi lễ thực hành không rõ ràng, chưa thống nhất.
Trên
tinh thần xây dựng một đạo tràng Mật tông theo đúng chánh pháp, đồng
thời báo đền ân đức cao dầy của cố Thượng tọa, chúng tôi xin mạo muội
đưa ra những ý kiến sau:
Các
thành viên đến với Đạo tràng nên phát khởi ý nguyện tu tập để giải
thoát. Đành rằng trong cuộc sống hằng ngày chúng ta phải cần đến tiền
bạc, và trong xã hội chúng ta cần một vị trí vững vàng. Thế nhưng nếu
đem việc tu học Phật pháp để cầu danh lợi, tiền bạc vật chất, v.v… Đó là
đã đi ngược lại yếu chỉ căn bản của đạo Phật. Phật giáo không phải nơi
cầu xin sự ban ân giáng phúc mà đến với Phật, tu theo Phật để tìm đến
cội nguồn an lạc chân tâm, sống cuộc đời tỉnh thức không sa vào chấp mê
bất ngộ, làm việc bằng khả năng trí tuệ chân chính thì không có ý nguyện
nào không thành tựu cả.
Các
thành viên nên phát nguyện quy y Tam bảo và thụ nhận năm giới. Nếu là
người phát tâm học Phật thì cần phải phát nguyện thọ Tam quy trì Ngũ
giới. Tuy Phật giáo tôn trọng tính tự nguyện, song để phát triển tâm
linh, trau dồi đạo đức, thành tựu phẩm hạnh của người con Phật (Phật tử)
chân chính không cách nào tốt hơn là quy y Tam bảo. Đây là bước khởi
đầu hoàn hảo nhất cho mọi thành công, là chìa khóa vàng để hành giả đi
vào kho tạng bí yếu của Phật pháp, nhất là Mật tông.
Các
thành viên nên tìm học giáo lý căn bản như: Tứ diệu đế, Thập nhị nhân
duyên, Bát chánh đạo, v.v… cũng như cần tìm hiểu về giáo lý Mật tông
như: Bồ đề tâm và tánh Không, v.v… Vì đây là căn bản, nền tảng vững chắc
để xây dựng nên ngôi nhà Phật giáo kiên cố.
Các
thành viên trong Đạo tràng nên thống nhất nghi lễ, nghi quỹ tụng niệm.
Vì một đạo tràng tu tập không nên xô bồ bát nháo, không tùy tiện tụng
niệm hoặc sử dụng các pháp khí (chuông, mõ, linh chữ, kèn, tù và, v.v…).
Đó là một phần trên cơ sở đánh giá một tổ chức, một Đạo tràng hoàn
thiện.
Các
thành viên trong Đạo tràng cần phải nhận rõ đâu là mê tín, đâu là chánh
tín, cần bài trừ các tệ nạn hầu đồng, bói toán, xem ngày giờ kiết hung,
phù phép chữa bệnh, v.v… Vì lẽ trong Tam tạng kinh điển của Phật không
hề đề cập đến bất kỳ vấn đề nào như đã nêu. Vậy người tu học theo Phật
không quán triệt, nhận biết rõ ràng thì sẽ dễ dàng đi theo bạn tà dẫn
vào ác đạo. Hiện tượng bị “Vong nhập” không phải thể hiện người đó tu
cao, tu giỏi mà đó là biểu hiện của một nội tâm loạn tưởng, vọng động,
mê mờ. Thử hỏi, tại sao chúng ta tu theo Phật, niệm chú, bắt ấn Phật mà
Phật hoặc Bồ-tát không nhập vào chỉ toàn là những hạng thần thánh không
rõ nguồn gốc nhập vào? Điều này đúng hay sai người có trí nên tự phán
xét.
Sau
đây xin giới thiệu đôi nét về Mật tông Tây Tạng để những ai có ý nguyện
hành trình theo truyền thống Mật thừa tiện tham khảo:
Căn bản của Mật tông Tây Tạng
Mật
tông Tây Tạng đặc biệt chú trọng về nghi thức Quán đỉnh (wang) và hành
giả phải được khẩu truyền nghi quỹ (lung), được giảng dạy nghi quỹ
(trid) từ một vị thầy giác ngộ để nhận được ân sủng của dòng truyền
thừa. Lễ Quán đảnh được dịch từ chữ “wang” trong tiếng Tây Tạng, nói đến
giai đoạn đầu tiên, không thể thiếu sót để bắt đầu hành trì Mật tông.
“Wang” có nghĩa đen là “quyền năng”, nhưng trong ý nghĩa là “ban truyền
quyền năng”, hàm ý là sự ban truyền quyền năng của trí tuệ từ vị thầy
sang đệ tử, cho phép vị đệ tử đó đi vào hành trì tu tập và gặt hái thành
quả tu tập, sẽ được điểm nhập vào trong tinh túy của chư Phật. Mật tông
Tây Tạng cho rằng hành giả có thể tu chứng quả Phật ngay trong hiện
đời, không phải trải qua quãng thời gian lâu xa được tính bằng A-tăng-kỳ
kiếp.
Chỉ xét riêng trên yếu tố này, chúng ta đã thấy có sự khác biệt với pháp tu Mật tông trong các tự viện Việt Nam
từ trước đến nay (vốn ảnh hưởng từ Đông Mật) so với pháp tu Mật tông
Tây Tạng (Tây Mật). Theo đó, từ thời kỳ đầu khi Mật tông vào Việt Nam cho đến nửa đầu thế kỷ XX, có lẽ chưa có bất kỳ một người Việt nào tu tập theo đúng khuôn mẫu Mật tông Tây Tạng.
Phương pháp hành trì Mật tông Tây tạng[4]
Đường
vào Mật tông gồm có nhiều bậc. Hành giả trước tiên phải trải qua nền
tảng tu tập giáo lý của Tiểu thừa lẫn Đại thừa, rồi mới tiến vào giai
đoạn của Kim Cương thừa. Theo lời dạy của Đại sư Tulku Nyima Rinpoche
thì: “Ai cũng muốn đi cho nhanh, nhưng phương pháp mau chóng nhất để
thành tựu là đừng đốt giai đoạn, cũng đừng nhen nhúm ý tưởng muốn đốt
giai đoạn. Vì đốt giai đoạn xong thì sẽ vấp ngã; vấp ngã xong thì uổng
phí biết bao thời giờ, cuối cùng sẽ còn đi chậm hơn nhiều kiếp nữa!”
Giai đoạn cơ bản
Còn gọi là giai đoạn Ngondro, tức Pháp tu nền tảng hay Pháp tu dự bị.
Trước tiên, hành giả phải tu tập, chiêm nghiệm, thiền quán Bốn bước khởi đầu bình thường và Năm bước khởi đầu phi thường.
Để thực hiện Bốn bước này, hành giả phải dựa trên bốn phép quán niệm, trong Mật tông gọi là bốn phép chuyển tâm, bao gồm:
Thân người là quý: ý thức sự hy hữu được thân người để tu thành Phật quả.
Thân, tâm và hoàn cảnh đều vô thường: ý thức mình có thể chết bất cứ lúc nào nên cần phải cấp cấp nỗ lực tu trì.
Nhân
nào quả nấy: ý thức khi mình hành động thiện thì sẽ mang lại kết quả
tốt đẹp, còn hành động ác thì kết quả sẽ tai hại - chúng ta có thể tự do
xoay chuyển nghiệp của mình.
Luân
hồi là khổ: ý thức toàn bộ tiến trình sinh tử luân hồi, cho dù chúng ta
có tái sinh ở cõi trời hay địa ngục đi nữa, thì chu trình này đều đau
khổ.
Tiếp theo, để thực hiện Năm bước, hành giả phải thực hành:
Quy
y và lễ lạy: Nhằm tạo chỗ dựa vững chắc và thể nghiệm Phật, Pháp, Tăng
ngay chính bản thân để tiến tới giải thoát, hành giả phải xưng tụng:
Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya và lễ lạy năm vóc sát đất.
Phát
Bồ đề tâm: Hành giả khởi Đại bi tâm, thương xót tất cả chúng sanh đang
lặn hụp trong vũng lầy sinh tử, muốn đạt đến trạng thái giải thoát và
chứng ngộ Phật quả một cách nhanh nhất để cứu độ họ. Hành giả trì tụng
câu kinh Phát Bồ đề tâm để làm mạnh mẽ thêm ý nguyện thiêng liêng, cao
cả đó.
Thanh
tịnh nghiệp chướng: Hành giả sám hối tất cả lỗi lầm từ xưa đến nay theo
pháp tu Đệ nhất thanh tịnh tội lỗi với Kim Cương Tát Đỏa - quán tưởng
và trì tụng thần chú Bách tự Kim Cang, hoặc lạy sám với 35 vị Phật.
Tích
lũy công đức: Hành giả muốn chứng quả vị Phật thì phải thành tựu viên
mãn Công đức và Trí tuệ, bằng cách cúng dường Mạn-đà-la - dâng cúng
những gì quý giá nhất lên chư Phật, chứng tỏ lòng thành của hành giả
hướng dâng trọn vẹn cuộc đời cho sự giải thoát giác ngộ như chư Phật,
nhờ vậy mà phát sinh được nhiều công đức.
Ân
sủng của dòng truyền thừa: Pháp này vô cùng quan trọng. Hành giả hòa
nhập tâm mình với tâm của bậc thầy qua pháp Đạo sư Du già (Guru Yoga)
thông qua các nghi quỹ và thần chú. Vị đạo sư chính là sự thể hiện hữu
hình cụ thể của Phật, Pháp và Tăng nên hành giả phải luôn lễ kính.
Theo
pháp tu Tây Tạng, hành giả phải thực hiện các pháp này mỗi pháp là
111.111 lần với tất cả sự chí thành, chí tâm và toàn lực (thực ra, con
số này đã trừ bớt 10% lơ đễnh, còn lại 100.000 lần). Riêng pháp cuối
cùng, hành giả phải trì tụng câu chú của dòng truyền thừa từ 1.300.000
đến 2.000.000 lần, bởi pháp này vốn quan trọng nhất. Tuy thế, người ta
vẫn thường gọi pháp này là pháp tu 500.000, dù túc số có nhiều hơn. Pháp
tu này chung cho cả ba dòng, riêng dòng Gelugpa (Mũ vàng) có đôi chút
khác biệt.
Để
hoàn tất pháp tu Ngondro, đối với hành giả nhập thất, phải mất từ 6
tháng đến 1 năm mới xong; những hành giả không nhập thất, song vẫn hành
trì đều đặn mỗi ngày thì trung bình phải mất đến 3 năm mới xong.
Hành
giả tu tập pháp nền tảng, trước tiên cần phải có tâm xuất ly, muốn vượt
thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử (cốt yếu của Tiểu thừa) và phải
dõng mãnh phát Bồ-đề tâm (tinh túy của Đại thừa). Vì lòng bi mẫn, hành
giả phát Bồ-đề tâm là vì thương xót chúng sanh, không phải chỉ giải
thoát cho riêng mình, mà cần phải đạt quả vị giải thoát một cách nhanh
nhất để cứu độ chúng sanh. Phải hội đủ những yếu tố đó hành giả mới xứng
đáng là một hành giả Mật tông và mới có đủ điều kiện để tu tập Kim
Cương thừa.
Đại
sư Tulku Nyima Rinpoche dạy rằng, pháp tu nền tảng hay dự bị này là để:
“Thanh lọc hóa cái bình chứa, biến bình chứa thành bình tịnh thủy trước
đã. Thầy có thể đoan chắc là các con sẽ mau chóng thành tựu nếu chịu
khó miên mật, kiên trì hoàn thiện các pháp tu dự bị! Trên con đường tu
tập các pháp tu dự bị, thầy bảo đảm là các con sẽ đạt được nhiều kinh
nghiệm sâu sắc, có khả năng chuyển hoá mãnh liệt. Đến lúc đó rồi thì các
con sẽ trở thành những chiếc bình chứa hoàn hảo để đón nhận những giáo
huấn Dzogchen!”
Giai đoạn phát triển (Kye-rim)
Sau
khi được chín chắn qua lễ điểm đạo, chín chắn qua sự hiểu biết và thực
hành giai đoạn Ngondro, hành giả tiếp tục được rèn luyện với vị thầy qua
một thời gian để làm chín chắn thêm dòng tâm thức để bước vào những
giai đoạn mới.
Trong
giai đoạn này, hành giả luyện tập thiền quán về một vị Bổn tôn mà mình
có duyên hay do thầy chọn. Có hành giả thích những vị Phật hiền, có hành
giả thích những vị Phật trong hình tướng hung dữ, tùy theo nghiệp kết
nối của họ. Giai đoạn này cũng gọi là thiền quán Bổn tôn.
Cụ
thể, hành giả sẽ quán cõi đất này chính là cõi Tịnh độ. Chỗ hành giả tu
là cung điện của Bổn tôn. Nơi hành giả ngồi là đài sen, là tòa kim
cương của Bổn tôn. Thân, khẩu của hành giả là thân, khẩu của Bổn tôn.
Tâm hành giả an trụ trong định không lay động, nhất tâm, an trụ trong
tâm của Bổn tôn. Nhờ đó, hành giả chuyển thức thành trí, nhận biết bởi
do nghiệp của chúng sanh mà cõi này trở nên bất tịnh, còn đối với nhãn
quan của chư Phật thì đây chính là Tịnh độ.
Như
thế, hành giả Mật tông lấy kết quả làm con đường. Nghĩa là, sau khi
nhận được Quán đảnh, nhận được ân phước của vị Phật, hành giả thiền quán
mình chính là vị Bổn tôn đó, thấy mình và Bổn tôn không khác. Không có
sự cách biệt giữa một vị Phật xa xôi với hành giả trong cõi này.
Mật
tông lợi dụng tất cả những mong cầu, tham vọng nhất của bản ngã để tu
tập. Khi bản ngã đó đã là một vị Phật thì hành giả không còn mong cầu gì
nữa ngoài việc thiền quán về vị Phật đó. Nhờ được chín chắn và được gia
trì bởi một vị đạo sư chứng đạo, việc quán tưởng của hành giả sẽ hoàn
toàn không phải vọng tưởng. Bởi vị thầy của họ đã tu như vậy, chứng như
vậy, trong hình thức như vậy và truyền trao tri kiến như vậy, nên đệ tử
sẽ vâng theo lời dạy của thầy mà được thành tựu y như vậy, linh ảnh vị
Bổn tôn giữa thầy và trò hoàn toàn không khác. Dĩ nhiên người học trò
phải trải qua thời gian tích lũy công đức, tu hành đúng cách, hành trì
miên mật và phải hoàn thiện hết tất cả các pháp môn mà bậc thầy đã chỉ
dạy, như thế mới có cơ may tiến tới thành tựu viên mãn.
Khi
cung thỉnh Bổn tôn từ cõi trí tuệ của ngài đến để cúng dường và tán
thán, hành giả phải tu tập theo Thất nguyện Phổ Hiền (trong Thập nguyện
Phổ Hiền), gồm: 1. Đảnh lễ chư Phật; 2. Cúng dường Tam bảo; 3. Sám hối
nghiệp chướng; 4. Tùy hỷ công đức; 5. Cầu Phật chuyển bánh xe chánh
pháp; 6. Xin Phật ở đời; 7. Hồi hướng công đức.
Hoàn
thiện giai đoạn này, hành giả cần thực hiện pháp này theo đủ túc số Bổn
tôn, tùy theo điều kiện mà chọn nghi quỹ ngắn hay nghi quỹ dài, và tùy
theo pháp tu mà túc số có thể từ 6 triệu, 10 triệu, 32 triệu cho đến 100
triệu lần cho mỗi một câu thần chú của Bổn tôn. Theo đó, ở mức thấp
nhất, nếu nhập thất, hành giả phải mất từ 1 cho đến 3 năm. Nếu không
nhập thất, có thể cả đời hành giả vẫn không thực hiện đủ túc số. Ở những
mức độ cao hơn, nhiều vị thầy đã trải qua gần hết cuộc đời trong chốn
núi rừng u tịch mới có thể thành tựu được.
Giai đoạn Hoàn thiện (Dzog-rim)
Thực
hiện xong những pháp tu Bổn tôn của giai đoạn phát triển, hành giả sẽ
thực hành các pháp tu về kinh mạch và những bài tập thân thể (Tsa-lung -
tiếng Tây Tạng; Hathat-yoga - tiếng Ấn) với những thủ ấn của Bổn tôn
(thực hành Tsa-lung, Skr: Prana, Nada, Bindu) qua 6 pháp Du-già bí
truyền đặc biệt, gồm: 1. Nội hỏa (Tumo) - pháp gốc rễ; 2. Huyễn thân
(Gyulu); 3. Quang minh (Odsel); 4. Chuyển mộng (Milam); 5. Vượt trung ấm
(Bardo); 6. Chuyển thần thức (Phowa) - nếu hành giả trong đời chưa
thành Phật thì có thể thực hiện pháp này để chuyển thần thức về cõi Tịnh
độ.
Tiếp
theo, hành giả thực hiện những Đại Ấn (Maha mudra), hoặc Đại Toàn thiện
(Dzogchen) bởi những pháp tu Du-già bí truyền cao cấp nhất (thông
thường là Trekchod và Togal) để nhận biết Tâm Kim cương (Dorje-sem), đạt
được Tam thân Phật (Ku-sum). Thành tựu pháp này, hành giả đạt được giác
ngộ, tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng, tự tại ra vào sanh tử, tự tại
tái sanh, tự tại thị hiện và tự tại hóa độ chúng sanh, chứng đắc tập
pháp bao la của một vị Phật.
[1] http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ADt_t%C3%B4ng
[2] http://www.giacngo.vn/phathoc/mattong/2008/11/20/77401B/
[3] http://www.giacngo.vn/phathoc/mattong/2008/11/20/77401B/
[4] http://www.giacngo.vn/phathoc/mattong/2008/11/20/77401B/