28/11/2017 15:21 (GMT+7)
Số lượt xem: 1340
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


NSGN - Trước nhất, cần nhận rõ chúng ta phát xuất từ đâu. Nói cách khác, Phật khuyên chúng ta phải thấy con người thật của mình, Thiền gọi là bản lai diện mục. 



nguamTTQ.jpg

Chúng ta cần xác định lại, đương nhiên con người thực của chúng ta là chân tâm, chân tánh, là Phật; nhưng ngay bây giờ chúng ta đã trở về chân tánh được chưa, đã hoàn toàn sáng suốt như Phật hay chưa. Nếu chưa, thì hiện tại chúng ta không phải là Phật; hay nói cách khác, con người thật của chúng ta hiện nay không phải là Phật. Riêng tôi, luôn tỉnh táo đối trị với ma nghiệp của mình. 

Chính Đức Phật trong đêm thành đạo, Ngài cũng phải chiến thắng tất cả ma, từ nội ma là ngũ ấm ma trong Ngài cho đến hàng phục tất cả ba thứ ma bên ngoài. 

Phật dạy đáng sợ nhất là ngũ ấm ma. Và đáng sợ hơn nữa, nhận lầm ma là mình, nhận lầm giặc là con, chắc chắn ngày nào đó, nó sẽ giết mình, giống như An Dương Vương nhận lầm Trọng Thủy là con vậy. Phải nhận ra con người mình thật là ma, mới thoát khỏi nó được. Ma này đối với tôi là ngũ ấm ma, tức những sai lầm của chính mình là ma, chưa nói đến ma bên ngoài. 

Ngũ ấm ma là năm thứ tác động lên tâm chúng ta, làm chúng ta không thanh tịnh; đó là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nếu ngũ ấm là ma, thì chính ta đang là ma. Không thấu hiểu ý này, tu sai, từng bước tâm bất an, phiền não, thân bệnh hoạn, bạn bè khó chấp nhận và đạo nghiệp mất lần, thì năm tướng suy bắt đầu hiện ra. Tự nhiên thấy tâm bất an, buồn phiền là tướng suy lớn nhất đã hiện ra, phải biết đã đi lạc hướng, cần dừng lại. 

Đức Phật dạy rằng con người là ngũ ấm, hay ngũ uẩn. Một là sắc ấm, tức thân vật chất hữu hạn của chúng ta. Xác thân này có được, nguyên nhân gần nhất là do cha mẹ sinh ra. Và do cha mẹ sinh, thân ta tất yếu phải bị lệ thuộc vào sự chi phối của cha mẹ, không thể khác. 

ó thể khẳng định rằng từ khi còn trong bào thai, cho đến hiện hữu trên cuộc đời và đến chết, cũng không thể nào cắt đứt được sự ảnh hưởng sâu xa của truyền thống gia đình, tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Nếu ông bà, cha mẹ chúng ta là người đạo đức, chúng ta thừa hưởng được sự tốt lành này. Ngược lại, họ tạo tội lỗi, thân chúng ta cũng phải gánh chịu ảnh hưởng không tốt ấy. 

Mang vào thân vật chất này, chúng ta phải khổ không ít với nó. Như vừa nói, cái khổ thứ nhất mà chúng ta gánh theo là cái khổ của truyền thống, dòng họ. Chúng ta sinh trong gia đình, dòng họ nào là phải có mối quan hệ với dòng họ đó, mới sinh được; tức nghiệp của ta và nghiệp của dòng họ tương ưng với nhau, đồng nghiệp mới vào đó được. Không phải tự nhiên chúng ta hiện hữu trên cuộc đời. Lý do thứ nhất là dẫn nghiệp. 

Khi chết, bốn thứ ma là sắc, thọ, tưởng và hành đã mất rồi, chỉ còn thần thức. Thần thức là tất cả những suy nghĩ, tính toán, việc làm của chúng ta vẫn còn lực tác động và Thức này là ma. Chúng ta sẽ đi đầu thai, tái sanh vào cảnh giới do nghiệp thức chỉ đạo, dắt dẫn. 

Vì thế, khi mối quan hệ với dòng họ không phải là quan hệ tốt đẹp, mà là mối quan hệ oán thù mạnh mẽ, tất nhiên lực thù oán của nghiệp thức sẽ tác động khiến họ nhất quyết tìm đến gia đình từng gây thù chuốc oán để sinh ra làm con cháu rồi báo thù. Điển hình là câu chuyện Đức Phật kể về nguyên nhân vua A Xà Thế đã giết vua cha là Tần Bà Sa La, vì đây là sự tái sinh theo nhân quả ba đời, trong một tiền kiếp, vua Tần Bà Sa La đã từng giết A Xà Thế. 

Tôi thường tập trung tư tưởng quan sát xem túc nghiệp của mình và người liên hệ như thế nào. Theo cảm tính, tôi nhận biết được tình cảm của người đối với tôi. Tu hành, giữ được tâm bình yên sẽ thấy được sự vật khách quan và tùy theo cảm tính này mà biết đối tác, để chúng ta tùy theo đó xử sự. Đối với người có thiện cảm hay ác cảm, tôi có cách giải quyết riêng và cũng hiểu rõ tại sao họ thương hay ghét. 

Nói đến ghét có nhiều lý do, thu hẹp gần nhất là vì suy nghĩ và việc làm của họ khác với mình, nên không chấp nhận mình là tất yếu. Biết như vậy, muốn làm thân với họ, để xóa bỏ sự mâu thuẫn này, tôi thường dung hòa, tức không cho đối nghịch. Đi thăm viếng các chùa ở nước ngoài, tôi tìm mẫu số chung mà họ và tôi đều chấp nhận được là đạo pháp và dân tộc. Không bàn luận phải trái, hơn thua, chỉ nói đến đạo pháp và dân tộc để hóa giải lòng trần thì không thể có bực tức, cãi nhau. 

Trên bước đường tu, tâm chúng ta phải gạn lọc, cởi mở, hóa giải, phải an lành trước. Thực tập pháp này, chúng ta phá bỏ được ác ma luôn kích động tâm ta là phiền não ma. Bực tức, tự cao, khinh người là ma. Ma trong lòng chúng ta phá được, tự nhiên người ta sẽ đối xử tốt với mình. 

Phá ngay ngũ ấm ma của mình, vì nhận thấy rõ nó không tốt. Đức Phật dạy chúng ta thể hiện tinh thần vô ngã, nghĩa là phủ nhận ngũ ấm thì năm thứ ma này không tác động chúng ta được. Triệt tiêu năm thứ ma này, lòng chúng ta liền hoàn toàn yên tĩnh. 

Ăn không ngon, ngủ không yên, vì lòng bất an, nên ngồi tĩnh tâm, tập thở ra vào và tập từng bước chân đi. Tôi áp dụng hai pháp tọa thiền và hành thiền, tức đi trong Chánh niệm, trong tỉnh thức, kết hợp với hơi thở và tốt hơn nữa tôi kèm theo niệm Phật, để cột tâm lại, không cho phiền não ma nổi dậy; thế giới bên ngoài tự động tốt theo. Trong lòng chúng ta ghét giận người, làm sao họ chấp nhận ta. Ta phải chấp nhận họ trước, trong tương lai, họ cũng sẽ hiểu ta. 

Đức Phật dạy rõ ngũ ấm là ma, tức chúng ta là ma; nhưng ít ai chịu nhận mình là ma. Phải nhận chân sự thật này và triệt tiêu cho ngũ uẩn giai Không, thì ma biến mất, lúc đó con người thật của mình mới hiện ra, là Phật tâm hiện ra, người mới kính quý. 

Ý thức như vậy, tôi luôn coi xã hội là tấm gương lớn để soi bóng mình, coi phản ứng của người đối với chúng ta mà biết được con người thật của chính mình. Tu như vậy, chúng ta bắt đầu sửa mình dần. Vì thế, trong ngày Tự tứ, chư Tăng phải đắp y thỉnh các Tỳ-kheo cho ý kiến trong thời gian sống chung có thấy mình làm gì phạm pháp hay không, hay có nghi ngờ mình hay không, hoặc có nghe nói gì về mình hay không. Xin thương xót chỉ dạy để mình điều chỉnh cho tốt. Và thấy được con người thật của mình sai sót, khiếm khuyết chỗ nào, phải nỗ lực chuyển đổi; khéo điều chỉnh thì mau đến Vô thượng Chánh đẳng giác, không khéo thì đi chậm hơn. 

Phân biệt ngũ ấm ma theo Phật dạy, trước hết là SẮC ẤM MA là thân vật chất do cha mẹ sinh ra. Sự chi phối của truyền thống, dòng họ, cha mẹ đặt vào thân ta gây áp lực cho chúng ta, là một loại ma. 

Chúng ta đối trị nó bằng cách quán tưởng tứ đại giai Không, thân này là giả hợp, do cát bụi mà thành, hết duyên thì nó phải mất. Vì thế, chúng ta không bao giờ chấp vào thân mạng này, vì nó là thân sanh diệt, không phải là thân thật vĩnh hằng, nên chúng ta không bận tâm đến nó. Quán xét như vậy, chúng ta bớt bị thân chi phối. 

Còn nghĩ có thân này là thật và thấy những thứ sở hữu của thân là thật, tâm chúng ta sẽ bị lôi cuốn, bị phóng đại theo để bảo vệ thân và những quyền lợi vật chất của mình. Thực tế cho thấy biết bao nhiêu người khổ vì của cải vật chất. Nhất là những người rất giàu, nhưng làm ăn càng bất chánh thì càng khổ. Ngày hôm trước là tỷ phú, nhưng hôm sau đã vô tù. Giàu có bằng sự sống lương thiện mới là phước và của cải tạo được do phước của chúng ta không thể mất được. Nhiều người trải qua những cuộc biến đổi trong xã hội, tài sản mất hết, nhưng sau họ lại có đầy đủ như trước. 

Chúng ta không quan tâm đến thân này và sở hữu vật chất mới thấy phước báo thật của mình hiện ra. Sống với phước báo thật, tâm chúng ta được an lành. Điển hình như các Tỳ-kheo sống đời phạm hạnh, không có của cải, nhưng tâm hoàn toàn an lạc. 

Một hôm, Đức Phật đi du hóa ở phía Bắc, đến một khu rừng, Ngài gặp một người chủ nông trại vừa đi vừa khóc vì bị mất trộm đàn bò. Gặp Phật, ông hỏi Ngài có trông thấy đàn bò của ông hay không. Tội nghiệp thay, được gặp bậc Toàn giác mà chỉ hỏi về con bò. Đọc câu chuyện này, tôi nghĩ nếu gặp Phật là mình hỏi Ngài làm sao cho trí tuệ phát sinh nhanh, làm sao lên bờ giải thoát; vì đối với tôi, ham muốn nhất là trí tuệ. Làm sao thấy được sự thật của cuộc đời, vượt qua được tất cả cạm bẫy, đó là niềm thao thức mà tôi thường nhờ các bậc cao đức chỉ dạy. 

Đức Phật nhân đó dạy cho các Tỳ-kheo bài pháp rằng tội nghiệp cho ông chủ trại có phước báo như thế, nhưng sẽ bị đọa; vì suốt đời chỉ nghĩ đến đàn bò và tiếc của, khổ đau, sẽ từng bước dẫn ông ta vào ba đường ác. Phật hỏi các Tỳ-kheo có muốn giàu sang như ông chủ trại nọ hay không. Đương nhiên các Tỳ-kheo trả lời rằng theo Phật, họ chỉ cầu giải thoát. Phật nói các Tỳ-kheo may mắn hơn ông chủ kia, vì không có bò để chăn, khỏi lo mất và khỏi đau khổ vì mất. 

Sự thật hiển nhiên là tất cả mọi việc trên cuộc đời đều mất, không có gì tồn tại mãi; cuối cùng, sức khỏe và mạng sống của chúng ta cũng mất. Thân tứ đại làm sao vượt khỏi sự chi phối của già, bệnh, chết. 

Có thân phải khổ vì thân, phải quan tâm đến nó, không điều hòa được thì nó gây cho chúng ta biết bao nhiêu điều khổ sở. Vì bị thân hành hạ, đòi hỏi, làm chúng ta không giải thoát được, nên sắc thân của chúng ta chính là ma. 

Theo tôi, con ma thân có những đòi hỏi của nó, tối thiểu là cơm ăn, áo mặc, chỗ ở. Tiến hơn một chút, nó đòi cơm ngon, áo đẹp, chỗ ở sang trọng. Đừng nhận lầm thân là Phật. Tại sao Đức Phật lìa bỏ điện ngọc cung vàng, vợ đẹp con thơ để dấn thân trên con đường cát bụi. Vì Ngài đã nhận rõ rằng tất cả những thứ này chỉ gây phiền lụy, khổ đau, làm sao giải thoát. Tất cả sự nghiệp công danh bao vây không thoát được. Phật đi tu là thoát khỏi ngục vàng làm tâm đảo điên. 

Tu hành, đầu tiên dám cắt bỏ quyền lợi bên ngoài liên hệ đến thân. Trước nhất, cắt bỏ được ăn ngon, mặc đẹp, ở sang trọng, là cuộc đời mình hạnh phúc liền. Muốn ở sang trọng, tiện nghi hơn, chạy theo con đường này không bao giờ đạt được mong muốn. Vì hôm nay, có căn nhà đẹp này, mai kia lại muốn căn nhà đẹp hơn, chắc chắn tâm phải điên đảo vì cái muốn vô hạn ấy. Tu hành, tập cắt bỏ những gì không nằm trong phước báo của ta, không đeo đuổi theo nó. Dám đương đầu với ma, nhất định thành công. 

Để đối trị sự chi phối của thân về ăn, mặc, ở, Đức Phật dạy tam thường bất túc, ăn ít, ngủ ít và mặc ít. Ăn no, mặc đẹp, ngủ nhiều, không tu được. Cắt bỏ một phần đòi hỏi vật chất thì cắt bỏ được sự lệ thuộc vào thân một phần. 

Tôi có kinh nghiệm về pháp tu này. Khi tu học ở Nhật Bản, tôi không có tiền, nhưng không tiêu xài nhiều, nên không tiền cũng chẳng sao, là được giải thoát. Nghĩa là đoạn một phần phiền não trần lao nghiệp chướng, tướng giải thoát hiện ra. 

Yêu cầu lớn mà cung không đủ, phiền não nhân đây sẽ phát sinh. Tôi luyện tập ăn ít, ngủ ít, có thức ăn nào dùng thức ăn đó, hành đạo như vậy, được giải thoát dễ dàng. Trong cuộc sống, các Sa-môn giải thoát vì biết hạn chế, giảm thiểu yêu cầu cho đến mức không muốn gì cả, thì không ai làm khó, làm khổ mình được. Thậm chí không muốn sống, không sợ tử ma, thì bắt tay vui vẻ với thần chết. Còn muốn, dù là chút xíu cũng khổ. 

Biết rằng mang thân này vô là kẹt vào ba việc ăn, mặc, ở. Con ma này làm khổ chúng ta, nên cố gắng tháo bỏ lần để không bị lệ thuộc nó. Phật dạy Tỳ-kheo khất thực không sở hữu gì và thành tựu quả vị A-la-hán, bốn tướng đói, khát, nóng, lạnh không chi phối được họ nữa. Người đắc định, tự thân của họ đã ấm, không cần mặc áo len. Họ đã điều tiết được thân, nên không cần ăn mà không bị cái đói dày vò, không bị bệnh hoạn làm khổ, hiện tướng giải thoát. 

Phá được sắc ấm ma, Pháp thân đầu tiên của họ sanh ra, gọi là Giới đức Pháp thân, không còn lệ thuộc vào cuộc sống vật chất, không yêu cầu người khác cung cấp cho mình bất cứ thứ gì. Đó chính là người đức hạnh thành tựu giới đức Pháp thân. Vị A-la-hán đã hoàn toàn chuyển đổi được sắc ấm ma thành Giới đức Pháp thân (tướng Phật), nên được trời người cung kính, cúng dường. 

Phá được sắc ấm ma, tiếp theo lần sâu vào để phá trừ loại ma thứ hai là THỌ ẤM MA. Vì khi chúng ta có thân vật chất, thân vật chất này sẽ tiếp xúc với những thứ vật chất bên ngoài, tạo ra những đòi hỏi bức bách chúng ta, tạo ra những cảm xúc ràng buộc chúng ta, nên cũng được gọi là xúc ấm ma. 

Theo Phật, có sáu loại xúc ấm ma do mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm vào và ý nghĩ tưởng. Thí dụ, nghe chuyện trái tai, thấy việc không vừa ý, ăn những món không thích, nghĩ đến người mình ghét…, tất cả những tác động này của sáu giác quan làm cho tâm chúng ta khó chịu, bất an. Vì vậy, sáu giác quan của chúng ta là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sinh ra tất cả phiền hà, khổ đau cho ta, nên chúng là ma. 

Điều này kiểm nghiệm dễ dàng, khi ở trong Thiền thất tu hành, không cho sáu giác quan tiếp xúc với bên ngoài, chỉ đọc tụng kinh điển, sám hối, sống với pháp Phật, tôi không biết gì về thế giới bên ngoài. Trong tôi chỉ có một thế giới là Pháp giới của Phật, ở thế giới tâm linh này chỉ có Phật và Bồ-tát hiện hữu, nên thật yên tĩnh, sáng suốt. 

Vì vậy, người tu cần có thời gian nhập thất để tâm lắng yên hoàn toàn, cắt bỏ được sự chi phối của thế giới vật chất và không còn bị vướng mắc với bất cứ sự đòi hỏi nào của chính bản thân mình, là phá được thọ ấm ma. Và phá được thọ ấm ma thì một phần Pháp thân của chúng ta là Định Pháp thân hiện thành. 

Kế đến, loại ma thứ ba là HOANG TƯỞNG MA. Với sự hiện diện của con ma này trong thân, đầu chúng ta luôn nghĩ tưởng đủ thứ chuyện, nhưng những thứ nghĩ ngợi lăng xăng, tưởng tượng lộn xộn này không thực tế và không đem lại lợi ích cho ai cả. Người luôn chìm đắm suy tư về quá khứ đã qua, hoặc luôn mơ mộng viển vông về tương lai không tới được, chắc chắn sinh ra bất mãn, buồn phiền, khổ đau. 

Chúng ta hành thiền, cố tận diệt con ma hoang tưởng, không nghĩ ngợi lăng xăng; chỉ tập trung tâm trí vào bước đi, vào hơi thở, vào tiếng niệm Phật. Cắt bỏ được tâm nghĩ tưởng đủ thứ, tâm sẽ được an định. Và từ định tâm này, chúng ta sẽ có tầm nhìn mọi việc một cách sáng suốt, hình thành được Pháp thân thứ ba là Huệ Pháp thân. 

Loại ma thứ tư là HÀNH UẨN MA. Cần biết rằng “Hành” này là hành động trong tâm, không phải hành động bên ngoài. Vì thế, thân ngồi yên ở đây, nhưng tâm trí đang chạy rong khắp hang cùng ngõ hẻm, đang nghĩ ngợi, tính toán vô số việc. Con ma hành uẩn này luôn dẫn dắt chúng ta rời bỏ vị trí thực tế của mình và nó dụ dỗ chúng ta đi vào con đường trần lao nghiệp chướng, khổ đau. 

Biết rõ sự tác hại của ma hành uẩn, trong đời sống hàng ngày cho đến trong từng niệm tâm, chúng ta cần trụ tâm trong kinh điển, quán tưởng về pháp Phật. Khi sự hướng tâm mạnh mẽ đến tinh ba Phật pháp là nguồn sống duy nhất của chúng ta một cách miên mật, sẽ giúp chúng ta phá trừ được hành uẩn ma. Và nhờ đó, tạo được Pháp thân thứ tư là Giải thoát Pháp thân, thể hiện thành tướng an lành, giải thoát thực sự trong từng lời nói, từng hành động, từng suy nghĩ, tác động cho người trông thấy, hoặc tiếp cận phát tâm Bồ-đề. 

Sau cùng là THỨC ẤM MA. Thức là sự hiểu biết theo thế gian, nhưng chính nó gây khổ đau cho ta không ít. Đối với người tu, không biết việc thế gian để tâm an lạc và biết Phật pháp để tâm định tĩnh, trí sáng suốt. Phật cũng dạy rằng thế gian trí là sự hiểu biết của phiền muộn, biết nhiều thì phiền não nhiều. 

Thật vậy, tất cả sự tiếp xúc của chúng ta với cuộc đời trải qua vô số kiếp và trong hiện đời, đã tạo thành vô số kinh nghiệm, vô số hiểu biết chất chứa đầy đủ, không bỏ sót một thứ gì, trong một cái kho rộng vô tận, có thể gọi là “biển Thức”. 

Biển Thức của chúng ta giống như đại dương sâu thẳm vô cùng, trong đó có những đợt sóng ngầm và những loài thủy quái gây ra những trận cuồng phong bão táp bất cứ lúc nào, mà chúng ta không thể biết, không thể kiểm soát, không thể đo lường được những cái lưu giữ và bộc phát từ biển Thức của chúng ta. Thực hành thiền định, chúng ta dễ nhận ra điều này. 

Có lúc tôi đang ngồi thiền, nhưng túc nghiệp quá khứ ẩn sâu trong tiềm thức bỗng vụt hiện lên làm cho tâm cảm thấy bất an. Đó là những trận cuồng phong từ tạng Thức bộc phát do nhiều đời mình tích lũy, hay do trong đời này lưu giữ trong tiềm thức và nó sống dậy, tác động. 

Trên bước đường tu, dần dần chúng ta sẽ phát hiện những cơn cuồng phong, những loài thủy quái hiện hữu trong tâm thức chúng ta. Nói cách khác, đó là những đòi hỏi của chính chúng ta, tác động phiền não cho chúng ta và khổ nhất mà Phật thường nói là ngũ dục, tức năm thứ ham muốn là tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn, ngủ. Nó gây khổ não nhất, vì khi năm món dục này bộc khởi, thường kích động chúng ta phải làm, phải đối phó, không thể nhịn. Chính các loài thủy quái này nằm sẵn trong lòng chúng ta, luôn tác động chúng ta bắt buộc theo nó thì nhất định phải khổ. Thật vậy, bị thúc giục vì thèm khát, vì tham vọng, vì tự ái, vì bực tức, vì sân hận tất yếu dẫn chúng ta lao vào con đường nguy hiểm. 

Hoặc tâm đang thanh thản, nhưng do túc nghiệp của chúng ta nhiều đời, nên thấy những việc vô lý mình phải gánh chịu khổ sở. Lúc ấy, những đợt sóng ngầm trong tâm bỗng cuồn cuộn nổi lên, thể hiện ra những lời nói, những hành động căm thù. Đó là trường hợp của một anh sinh viên đến than thở với tôi rằng vì gia đình thuộc chế độ cũ nên anh gặp nhiều khó khăn trong học tập. Trong lòng anh chất chứa sự tức giận và lâu ngày, gặp một việc nhỏ không vừa ý, nhưng làn sóng tức giận nhân đó vụt nổi lên, không kiềm chế được, đến mức dám nói thẳng vào mặt cha mình rằng ông hại tôi đến mức này còn chưa đủ hay sao! 

Trong thâm tâm, tức trong kho chứa của Thức nổi dậy những hiểu biết, nghĩ tưởng khuấy động, chúng ta nên dùng Phật pháp để rửa sạch, xóa lần cho đến những làn sóng ngầm không còn bùng phát, những loài thủy quái không còn tác hại được, những trận cuồng phong không còn hoành hành nữa. Như vậy là đã phá được ma Thức ấm trong ta. 

Tóm lại, dẹp trừ ngũ ấm ma ở trong tâm ta thì tất cả ma bên ngoài cũng tắt hẳn. Nếu cứ để ma trong lòng ngùn ngụt nổi dậy, chắc chắn mọi người sẽ đối xử không tốt với ta, hoàn cảnh bên ngoài sẽ mỗi ngày khó khăn thêm cho ta. Và những thứ ma bên ngoài lúc đó sẽ tác động ngược lại cho ngũ ấm ma trong tâm ta thêm sức tàn phá chính ta. Cứ như vậy, chúng ta bị xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, cúi đầu chịu sự sai khiến không bao giờ ngừng nghỉ của ngũ ấm ma bên trong chúng ta và các ma bên ngoài là phiền não ma, tử ma, thiên ma. 

Mong rằng Tăng Ni, Phật tử tinh tấn tu hành, thanh tịnh hóa thân tâm bằng cách phá trừ ngũ ấm ma trong chính mình để xây dựng cảnh giới an vui, hòa hợp ngay trong cuộc sống này.

HT.Thích Trí Quảng

http://giacngo.vn/nguyetsan/chuyende/2017/10/10/7ED2C2/


Âm lịch

Ảnh đẹp