-Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa
có thọ giới nào cũng được thọ giới Bồ Tát. Trong kinh Phạm Võng nói: “Chư thiên, thái giám, ma, quỷ, thần,… đều được thọ giới,
nếu nghe được tiếng của Pháp sư”.
Giới Thanh Văn: Sa Di, Sa Di
Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo Ni, phải có hình tướng rõ ràng; nam là nam, nữ là nữ, chứ
không được nửa nam nửa nữ; nam không thành nam, nữ không thành nữ; như Thái
Giám bị cắt mất nam căn, hay súc sanh, ma quỷ, tuy biến thành người cũng không
được thọ.
Giới Thanh Văn là chỉ trì,
tức là không làm là trì. Giới Bồ Tát có cái không làm là trì, có cái không
làm là phạm. Giới Thanh Văn thân làm thì phạm, còn giới Bồ Tát có khởi
niệm mới phạm, gọi là Tâm Địa giới. Giới Thanh Văn làm lợi mình, giới Bồ
Tát làm lợi người.
Nếu không cho người chưa thọ giới Bồ Tát nghe những giới
điều này thì sai lầm. Vì tất cả quỷ, thần, huỳnh môn, tôi tớ… đều được nghe và
thọ, huống chi là loài người. Giới Thanh Văn khi thọ giới rồi mới cho biết giới
điều, còn giới Bồ Tát phải giải thích cho biết trước, nếu đồng ý thì thọ giới; giới
Thanh Văn phải thọ, khỏi cần giải thích giới điều trước.
-Phạm 10 điều trọng gọi là phạm Ba la di; Ba la di
là cực ác, tức là tội cấp thứ nhất, theo Thanh Văn là tội tử hình thì Tỳ Kheo
đó phải mất Tỳ Kheo; Tỳ Kheo Ni phạm Ba la di là mất Tỳ Kheo ni, tức kiếp này
không còn, muốn thọ lại, phải đợi kiếp sau. Theo pháp Tỳ Kheo hoàn tục, rồi
xuất gia lại được 7 lần; còn Tỳ Kheo Ni hoàn tục, rồi không được xuất gia
lại.
-Nếu giết người thì giới Thanh Văn phạm giới Ba la
di, còn giết súc sanh thì có thể phạm giới cấp 3 hay cấp 4. Tội giết người của
giới Thanh Văn phải đủ 4 nhân duyên:
1/ Là đúng người.
2/ Nó không phải người cho nó là người.
3/ Có cố ý giết.
4/ Giết đã chết.
-Tội trộm cắp cũng có đủ 5 nhân duyên, mới thành tội
Ba la di, 5 nhân duyên đó là:
1/ Vật có chủ.
2/ Tưởng là có chủ.
3/ Giá trị của vật phải 5 chỉ (thời kỳ Phật, nếu trộm vật có giá trị 5 chỉ vàng
thì bị tử hình theo luật nhà nước Ấn Độ, vật đó giá trị dưới 5 chỉ thì tội giảm
bớt. Bây giờ lại khác, tội trộm cắp không bị tử hình).
4/ Có ý muốn trộm cắp.
5/ Lấy vật rời khỏi chỗ.
Đủ 5 nhân duyên này thành tội Ba la di, nếu không đủ
5 nhân duyên thì không thành tội.
-Tội dâm dục cũng phải có đủ 4 nhân duyên thành tội
Ba la di, 4 nhân duyên đó là:
1/ Có tâm dâm dục.
2/ Có hoàn cảnh đầy đủ.
3/ Nhập đạo (nam căn và nữ căn giao hợp).
4/ Thọ vui sướng.
Nếu thiếu 1 trong 4 nhân duyên này thì không thành tội Ba
la di.
-Vọng ngữ gồm có: Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ.
* Đại vọng ngữ là chưa chứng mà nói đã chứng, chưa
có minh mà nói đã minh, cũng có 6 nhân duyên mới thành tội Ba la di, 6 nhân
duyên đó là:
1/ Thật không biết gì cả.
2/ Nói chứng quả rồi.
3/ Cố ý vọng ngữ.
4/ Cố ý gạt người.
5/ Mình cho nó là người.
6/ Người đó nghe phải hiểu.
*Tiểu vọng ngữ là vọng ngữ thường, cấp thứ 4, như
chuyện có nói không, chuyện không nói có.
-Tỳ Kheo phạm tội Ba la di thì không cho sám hối. Nếu có
chỗ cho sám hối thì phải săn sóc phụng sự 20 vị Tỳ Kheo thanh tịnh trong nửa
tháng. Trong 20 vị Tỳ Kheo này, đều hoan hỷ thì cho đồng ý xuất tội; nếu 1
trong 20 vị Tỳ Kheo này không đồng ý thì không được xuất tội. Xuất tội là xuất
tội địa ngục, chứ tướng Tỳ Kheo phải mất, địa ngục của tội Ba la di là 921 ức
năm.
-Tỳ Kheo Ni phạm Ba la di cho sám hối, phải phụng sự săn
sóc 20 Tỳ Kheo thanh tịnh và 20 Tỳ Kheo Ni thanh tịnh trong nửa tháng. Nếu 1
người trong 40 người này không đồng ý, thì không được sám hối xuất tội. Đây là
giới luật Thanh Văn.
10 GIỚI TRỌNG
Chánh văn:
Đức Phật bảo các Phật tử rằng: Có 10 giới trọng, nếu
người thọ giới Bồ Tát mà không tụng điều giới này, thời người ấy không phải Bồ
Tát, không phải là Phật tử, chính ta cũng tụng như vậy.
Tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đương học! Đã lược
giảng xong tướng trạng của giới Bồ Tát cần nên học, hết lòng kính trọng phụng
trì.
Đức Phật dạy:
1- GIỚI SÁT SANH
Nếu Phật tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, khen
tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết: Nhơn giết,
duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết.
Phàm tất cả loài hữu tình có mạng sống đều không được
cố ý giết. Là Phật tử, lẽ ra luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế
cứu giúp tất cả chúng sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát sanh, Phật tử
này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Phật nói: Phật tử tự giết tức là tự tử, cũng như giết
người. Tự mình giết, dạy người giết, dùng các phương tiện giết, thấy người ta
giết mình tán thán, dùng thần chú để giết, tạo nhân để giết, tạo trợ duyên để
giết, nghĩ ra cách giết, hay chỉ nổi tâm tạo nghiệp giết người. Cho đến tất cả
chúng sanh có thân mạng đều không được cố ý giết.
Theo giới Bồ Tát là hành đạo Bồ Tát cứu độ tất cả chúng
sanh. Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng phạn, dịch ra là giác hữu tình, tức là cứu độ
chúng sanh, cũng là tâm từ bi. Tôi thường nói “tâm giác ngộ là bồ đề tâm, độ
chúng sanh là từ bi tâm”. Từ bi tâm và bồ đề tâm là không phải hai thứ; bồ đề
tâm lên 50 độ thì từ bi tâm cũng lên 50 độ, bồ đề tâm lên 100 độ thì từ bi tâm
cũng lên 100 độ.
Giải thích thì thấy có hai thứ, nhưng kỳ thật không phải
hai thứ. Nói đến thể dụng, bồ đề tâm là thể, từ bi tâm là dụng. Có từ bi tâm
mới gọi là Bồ Tát cứu độ chúng sanh.
Nhưng hai chữ Từ bi” khác xa với hai chữ “Bác ái”của ngoại
đạo.
“Bác ái” của ngoại đạo là chấp ngã, trước hết phải có ta,
như việc bố thí là của ta, rồi có ta thương xót rộng khắp đại chúng, gọi là bác
ái.
“Từ” là Vô duyên từ, tức là không có đối đãi, không có ta,
không có người; không có ta làm từ bi cho ngươi, không có ngươi lãnh thọ từ bi
của ta. Nếu có của ta của ngươi thì không phải từ bi.
“Bi” là đồng thể bi, tức là thể của ngươi cũng là thể ta;
cái khổ của ngươi tức cái khổ của ta là cùng một thể. Cho nên, không có đối đãi
mới là từ bi.
Từ bi không có sự chấp ngã, còn bác ái thì có chấp ngã, nên
cách xa như trời với đất vậy. Chấp ngã không được giải thoát luân hồi sanh tử,
còn phá chấp ngã thì được giải thoát luân hồi sanh tử.
Mình đã thọ giới Bồ Tát thì phải hành đạo Bồ Tát luôn có
tâm từ bi, không có ngã để độ chúng sanh. Từ là ban vui cho chúng sanh, bi là
cứu cái khổ cho chúng sanh.
Tâm hiếu thuận là luôn luôn không có ngã tướng, theo thế
gian gian hiểu nghĩa ‘hiếu thuận’ lại khác, không được rộng khắp; còn hiếu
thuận của Bồ Tát thì nghĩa rộng vô cùng, không có hạn chế. Trong Phật pháp có
nói: “Tứ ân là ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân chúng sanh”. Trong giới Bồ
Tát nói “mình phải hiếu thuận báo đáp 4 ân này”.
Kỳ thật, chỉ báo ân chúng sanh là báo ân luôn cả 3 ân kia,
luôn luôn hiếu thuận cho tất cả chúng sanh, chứ không phải báo ân hiện tại cha
mẹ của mình. Người thế gian chỉ có báo ân cha mẹ riêng của mình hay sư trưởng
của mình.
Cho nên, mình phải nghĩ cách cứu độ chúng sanh, không những
không cứu giúp chúng sanh, mà lại giết hại chúng sanh thì Phật tử này
phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
2- GIỚI TRỘM CƯỚP
Chánh văn:
Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp,
phương tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng bùa chú trộm cướp, nhân trộm cướp, duyên
trộm cướp, cách thức trộm cướp, nghiệp trộm cướp. Tất cả tài vật có chủ, dầu là
của quỷ thần hay của giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không
đặng trộm cướp. Là Phật tử lẽ ra luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường
giúp cho mọi người được phước, được vui, mà trái lại trộm tài vật của người.
Phật tử này phạm "Bồ Tát Ba la di tội".
Giảng giải:
Điều thứ 2 là trộm cướp, tại sao Phật tử tự trộm cướp? Tự
mình nghĩ đem món đồ của mình cho người khác, nhưng sau nghĩ lại không cho, nên
phạm tội trộm cướp. Vì giới Bồ Tát là giới Tâm địa, giới Thanh Văn thì không
phạm; giới Bồ Tát có khởi tâm là phạm, đây gọi là tự trộm cướp.
Hay tự mình lấy đồ của người, cũng gọi là tự trộm cướp; làm
phương tiện cho người trộm cướp, niệm thần chú khiến cho người trộm cướp; làm
trợ duyên để cho người trộm cướp, nghĩ ra cách rồi chỉ cho người trộm cướp. Tất
cả khi có nổi tâm tức là có nghiệp.
Ở đây nói “cho đến của quỷ thần, của có chủ một cây kim một
cọng cỏ, không được cố ý ăn cướp”. Điều giới Bồ Tát thường có chữ “cố ý”, cố ý
mới thành tội. Nếu không cố ý ăn cướp thì không thành tội, như đồ trong nhà của
mình đã dùng quen, lấy dùng cũng không thành tội, hay đồ của bạn thân dùng qua
dùng lại cũng không phạm, chứ không phải mỗi cái mà phạm. Nếu đồ của cha mẹ
mình cất kín không cho mình biết, mà cố ý lấy thì phạm tội trộm cướp.
Mình hành đạo Bồ Tát là hiếu thuận tứ ân, trong đó từ chúng
sanh đến chư Phật; hành đạo không nên có ngã, chỉ giúp cho chúng sanh được
phước an vui thoát khổ. Trái lại, không làm như vậy mà trộm cướp tài vật của
người khác, làm cho người buồn rầu đau khổ; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di
tội”.
3- GIỚI DÂM
Chánh văn:
Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục, với
tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng
phi đạo mà hành dâm dục. Là Phật tử đối với tất cả không được cố dâm dục. Lẽ ra
phải có lòng hiếu thuận cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh dạy
người, mà trái lại không có tâm từ bi, làm mọi người sanh việc dâm dục, không
lựa súc sanh, cho đến hành dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân; Phật tử này
phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
“Nếu Phật tử tự dâm”, tự dâm này, nam và nữ tự có. Người
nam có thủ dâm, người nữ có thủ dâm nhưng ít hơn, hay lấy dụng cụ để làm dâm
cho xuất tinh. Dạy người dâm, người nam đến với người nữ, hay người nữ đến với
người nam, làm trợ duyên cho người dâm dục, nghĩ phương cách cho người thực
hành, hay là nổi tâm dâm dục thì thành cái nghiệp dâm dục.
Không phải đối với người thôi, mà đối với súc sanh quỷ thần
cũng vậy, cùng với phi đạo (phi đạo là không phải nam căn, chẳng phải nữ căn),
hành độmg nơi nào ở trên thân đều là phạm dâm.
Theo hạnh Bồ Tát, tâm hiếu thuận cứu độ chúng sanh thì phải
bố thí sự thanh tịnh cho người. Việc dâm dục là việc bất tịnh. Những điều sám
hối có câu: “phá phạm hạnh người khác”, chữ phạm là thanh tịnh. Giới luật nói
“phá phạm hạnh” là phá giới lần thứ nhất, như Tỳ kheo cùng với người nữ dâm dục
lần thứ nhất, tức là phá phạm hạnh. Nếu phạm giới dâm lần thứ nhì, lần thứ
ba,…thì không phải là phá phạm hạnh, vì trước khi lần thứ hai lần thứ ba thì
không còn thanh tịnh.
Phật tử thọ giới luôn giữ thanh tịnh cho người, mà trở lại
phá phạm hạnh của người, làm cho người không được thanh tịnh, bất cứ là người,
hay là súc sanh, mẹ, chị, em ở trong lục thân, nếu phạm dâm dục thì tội càng
nặng thêm. Khi bắt đầu thọ giới, lúc hỏi giá nạn, nếu có phạm giới dâm trong
lục thân thì không cho người ấy thọ giới. Cho nên, phạm giới dâm là không có từ
bi, Phật tử ấy phạm giới Ba la di của Bồ Tát.
4- GIỚI VỌNG
Chánh văn:
Nếu Phật tử, mình nói vọng ngữ, bảo người vọng ngữ,
phương tiện vọng ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ. Nhẫn đến không thấy
nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng ngữ, tâm vọng ngữ. Là Phật tử, lẽ
ra luôn luôn phải chánh ngữ, chánh kiến, và cũng làm cho tất cả chúng sanh có
chánh ngữ, chánh kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, tà
nghiệp, Phật tử này phạm “Bồ tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Vọng ngữ gồm có 4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng
thiệt.
-Vọng ngôn: Là có nói không, không nói có, nói dối gạt
người.
-Ỷ ngữ: Là nói những lời nói có liên quan dâm dục của nam
nữ, hay nói những lời hoa nguyệt.
-Ác khẩu: Chửi mắng người hay nói lời độc ác.
-Lưỡng thiệt: Nói lưỡi 2 chiều, đem chuyện người này nói
với người kia, đem chuyện người kia nói với người này.
Tự mình vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ. Giới Thanh văn có
tiểu vọng ngữ và đại vọng ngữ, trong này bao gồm hết. Đại vọng ngữ và tiểu vọng
ngữ đều ở trong 10 điều trọng. Vì hạnh Bồ Tát phải lợi tha, muốn lợi tha thì tự
mình phải gương mẫu cho người, nếu mình vọng ngữ làm sao độ người không vọng
ngữ được!
Cho nên, đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều không được. Tự
vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ, dạy người có phương tiện vọng ngữ, tạo cái
nhân để cho người vọng ngữ, làm cái duyên giúp cho người vọng ngữ, hay là nghĩ
cách gì để cho người vọng ngữ để gạt người, có nổi tâm vọng ngữ thành cái
nghiệp vọng ngữ.
Theo hạnh Bồ Tát phải chánh ngữ, nói năng phải đàng hoàng,
đúng đắn, có chánh kiến. Chánh kiến đối với tà kiến, trong Phật pháp phải có
chánh kiến. Đại thừa phải phá ngã chấp, giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã
chấp mới được giải thoát. Có lòng từ bi độ chúng sanh thì không có ngã, không
được nghĩ là ta độ chúng sanh và có chúng sanh của ta được độ. Nếu thấy có
chúng sanh để độ thì có ngã chấp, nên không được, như thế là chánh kiến; nếu
còn có ngã chấp không gọi là chánh kiến.
Mình có chánh ngữ chánh kiến làm cho chúng sanh có chánh
ngữ chánh kiến. Vì chánh ngữ chánh kiến được giải thoát cái khổ sanh tử luân
hồi, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn. Trái lại, mình không làm như thế mà dạy
cho chúng sanh tà ngữ, tà kiến, vọng ngữ đủ thứ, làm tà nghiệp. Bồ Tát là muốn
chúng sanh thoát khổ, lại tự mình làm khổ và chúng sanh thêm khổ, thì phạm tội
Ba la di của Bồ Tát.
5- GIỚI BÁN RƯỢU
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu:
Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu
không được bán, rượu là nhơn duyên sanh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho
tất cả chúng sanh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho
tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Ngũ giới của giới Thanh văn, uống rượu thì phạm, còn bán
rượu không phạm, vì không cho uống rượu. Giới Bồ Tát uống rượu là tội nhẹ, vì
giới Bồ Tát là lợi tha, uống rượu chỉ hại tự mình chứ không hại đến người. Đáng
lẽ, mình phải làm gương mẫu không uống rượu, mà dạy người ống rượu vậy làm sao
được! Và bán rượu là hại người bị tội nặng.
Tự mình bán hay dạy người bán, làm cái nhân giúp cho người
bán, hoặc làm trợ duyên giúp cho người bán; như không có chỗ, mình giúp cho
người có chỗ để bán; không có vốn lại giúp vốn, đó là trợ duyên; hay là nghĩ
cách bán làm sao cho đắc, nỗi tâm bán rượu để kiếm tiền cho nhiều cũng là tạo
nghiệp bán rượu.
Tất cả rượu mình không được bán. Đáng lẽ, rượu không có
tội, vì uống rượu làm say; nên phạm vào những tội: “sát, đạo, dâm, vọng”. Vì
vậy, rượu làm cái nhân để người phạm tội nặng. Theo hạnh Bồ Tát là muốn cho
chúng sanh được trí huệ sáng suốt, còn bán rượu cho người uống làm say mê thêm
thì phạm giới cực ác của Bồ Tát.
6- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất
gia và Bồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hoặc bảo rao nói những tội lỗi ấy:
Nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp
rao nói tội lỗi. Là Phật tử, khi nghe những lời ác, ngoại đạo cùng người Nhị
thừa nói những điều phi pháp, trái luật trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có
lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín tâm lành đối với Đại thừa,
mà trái lại Phật tử tự mình rao nói tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử này phạm
“Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Nếu Phật tử thọ giới Bồ Tát nói tội lỗi của tứ chúng:
Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di; hoặc là dạy người khác nói, hay làm
cái nhân cho người nói, làm trợ duyên cho người nói, nghĩ cách sắp đặt cho
người nói, nếu có nổi tâm muốn nói thành cái nghiệp. Nói lỗi này là cố ý
muốn phỉ báng.
Trong giới luật, ngày bố tát người nữ có thể chứng tỏ Tỳ
Kheo hay Tỳ Kheo Ni phạm giới gì, việc ấy không phải phỉ báng, mà muốn bảo vệ
luật. Bây giờ, nói giới và luật không có phân biệt; đáng lẽ giới là giới, luật
là luật. Giới là giúp ích cho cá nhân, còn luật là giúp ích cho đoàn thể. Thí
dụ giới là bảo hiểm cho cá nhân, còn luật là bảo hiểm cho đoàn thể; mà luật là
bảo hiểm cái giới, nếu không có luật thì giới ấy không thi hành được. Hiện nay
chỉ có giới, chứ không có luật; nên người Trụ trì phạm tội Ba la di không có ai
can thiệp.
Theo giới luật thì phải có Tăng đoàn, nửa tháng để Bố tát.
Bố tát không phải chỉ tụng giới, mà làm việc, thọ giới,… cũng ở trong Bố tát.
Trước khi Bố tát phải kiểm thảo, Chủ sự nói với đại chúng “ai có lỗi phải ra
trước đại chúng phát lồ sám hối”. Nếu tự mình không nói ra, mà người khác biết
phải nói ra trong chúng cử tội. Nếu biết không cử tội cũng phạm giới, tức là
phú tàng (ngăn che).
Tỳ Kheo Ni ngăn che tội Ba la di của bạn mình thì Tỳ Kheo
Ni ấy cũng phạm Ba la di.
Nếu có người nữ được mọi người tin tưởng, đến báo với Tăng
đoàn rằng: Tôi đã thấy một Tỳ Kheo phạm tội gì đó… có thể phạm Ba la di, có thể
phạm tội cấp 2, cấp 3,… người nữ ấy không có lỗi với tứ chúng mà lại có công.
Bởi vì giúp cho luật bảo vệ giới được tốt.
Nếu nói lỗi của tứ chúng, mục đích để phỉ báng mới phạm
tội. Còn mình đã biết người kia phạm tội, rồi nhắc nhở người kia không nên phạm
nữa, thì mình không phạm tội nói lỗi của tứ chúng. Vì đó là thiện ý chứ không
phải ác ý, không phải nói lỗi là phạm giới.
Đệ tử của Phật nghe kẻ ngoại đạo và Nhị thừa phỉ báng Đại
thừa còn không được, huống chi mình hành đạo Bồ Tát lại hủy báng nói lỗi của tứ
chúng; vậy làm sao giáo hóa chúng sanh? Vì trách nhiệm của Bồ Tát là giáo hóa
chúng sanh, làm cho chúng sanh giác ngộ được tự do tự tại. Nếu nói tội lỗi của
tứ chúng thì phạm tội ba la di của Bồ Tát.
7- GIỚI KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Chánh văn:
Nếu Phật tử tự khen mình chê người, cũng bảo người
khác khen ngợi mình chê người: Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê
người, nghiệp chê người. Là Phật tử, lẽ phải thay thế những sự khinh chê khổ
nhục cho tất cả chúng sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt.
Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người,
làm cho người bị khinh chê; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Giới Bồ Tát là lợi tha, chính mình phải phá ngã chấp; nếu
tự khen mình chê người là tăng thêm ngã chấp. Lợi tha là muốn chúng sanh giải
thoát, nếu tự mình có ngã chấp thì không được giải thoát, làm sao độ chúng sanh
được giải thoát?
Làm hạnh Bồ Tát thì mình phải hy sinh để độ chúng sanh, tức
là thay cho chúng sanh chịu những điều cực khổ, việc tốt nhường cho người, việc
xấu mình chịu. Nhưng trái lại, nếu làm nhân, làm duyên, hay làm phương cách…
như trên đã nói, khen mình chê người, lại tăng thêm ngã chấp, nghịch với hạnh
Bồ Tát thì thành tội Ba la di.
8- GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình bỏn sẻn, bảo người bỏn sẻn: Nhân
bỏn sẻn, duyên bỏn sẻn, cách thức bỏn sẻn, nghiệp bỏn sẻn. Phật tử khi thấy
những người bần cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ; mà
Phật tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có người cầu học
giáo pháp, cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng. Phật tử
này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Trong này gồm có 2 thứ: Bỏn sẻn Tài hay bỏn sẻn Pháp đều là
phạm tội.
Bồ Tát phải phá ngã chấp, rồi giáo hóa chúng sanh được phá
ngã chấp. Bồ Tát có Lục Độ và Tứ Nhiếp Pháp, trong này đều có điều thứ nhất là
Bố thí: Bố thí tài và bố thí pháp.
Thấy người nghèo đến xin, mà mình bỏn sẻn không cho, lại
sanh tâm sân ghét, đuổi người ta đi thì phạm điều này, hay người ta đến cầu
pháp cũng như vậy. Bố thí pháp thì công đức lớn hơn bố thí tài pháp rất nhiều,
bỏn sẻn pháp nên tội cũng lớn.
Nếu hành đạo Bồ Tát, người ta xin thứ gì đều cho theo tinh
thần vô ngã. Nhưng bây giờ mình thọ giới Bồ Tát là đang học hạnh Bồ Tát, có sức
tới đâu thì làm tới đó; như người ta xin tiền thì tùy theo sức mình mà cho,
đừng để người xin về tay không; hay mình không có cái gì để cho thì phải phát
tâm tùy hỷ, nên không có phạm giới. Nếu mình không cho mà lại mắng đuổi người
ta, thì phạm điều giới Ba la di này.
9- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình giận, bảo người giận: Nhân
giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Người Phật tử lẽ ra làm cho tất
cả chúng sanh được những căn lành không gây gỗ; thường có lòng từ bi, lòng hiếu
thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng sanh, cho đến trong loài phi
chúng sanh, đem lời ác mạ nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập
mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn nhân kia lấy lời xin lỗi, cầu sám hối tạ tội,
nhưng vẫn không hết giận; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Nói đến Phật pháp, luôn luôn phải phá ngã chấp; nhất là
giới Bồ Tát chuyên phá ngã chấp, nếu mình nổi sân thì đã có ngã chấp. Tất cả
chúng sanh đều phá ngã chấp, thì không có việc tranh luận để đưa đến sân hận
đấu tranh. Nếu có nổi tâm sân hận, phải biết lỗi của mình để sám hối. Đã có lỗi
sân, mà mình không chịu nghe người ta khuyên, để sám hối thì phạm tội
này.
Tâm từ bi và tâm hiếu thuận đều phá ngã chấp, tức là phụng
sự cho tất cả chúng sanh; mình đã không phụng sự cho tất cả chúng sanh, lại nổi
tâm hờn giận chúng sanh, còn có thêm ác khẩu chửi mắng, đánh đập,… người ta cầu
xin lỗi, lại mình không cho xin lỗi, mình cứ giận hờn không nguôi thì phạm giới
Ba la di này.
10- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Chánh văn:
Nếu Phật tử, tự mình hủy báng Tam bảo, xúi người hủy
báng Tam bảo: Nhân hủy báng, duyên hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy
báng. Phật tử nghe một lời hủy báng Tam bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau
lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự mình hủy báng! Không có
đức tin và lòng hiếu thuận đối với Tam bảo, lại còn giúp sức cho kẻ ác, kẻ tà
kiến hủy báng nữa; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.
Giảng giải:
Tam bảo gồm hai thứ: Thường trụ Tam bảo và Tự tánh Tam
bảo.
-Người quy Tam bảo gọi là quy y thường trụ Tam bảo, theo sự
giáo hóa của Thường trụ Tam bảo, rồi thực hành theo để ngộ Tự tánh Tam bảo,
cũng gọi là ngộ Tự tánh chính mình, giải thoát tất cả khổ, được tự do tự tại
vĩnh viễn.
-Tại sao gọi là Thường trụ Tam bảo? Tam bảo gồm có: Phật
bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.
Phật tiếng Ấn Độ là Phật Đà, dịch ra là giác giả (giác
ngộ), trong đó gồm có: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn; tức là mình giải
thoát tự do tự tại, cũng giải thoát cho người được tự do tự tại, nên gọi là
Giác hạnh viên mãn, nhưng bao gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai. Bây giờ, mình
quy y phải có hình tượng Phật để tượng trưng cho Phật bảo.
Mình muốn giác ngộ thì phải có phương pháp, pháp của Phật dạy gồm có 84.000 pháp
môn, tùy theo căn cơ trình độ thích ứng của mọi chúng sanh, quy nạp có 4 pháp
môn: “Tham thiền, Niệm Phật, Trì chú, Quán tưởng”, đó là phương pháp tu hành
gọi là Pháp bảo. Nhưng lấy gì để tượng trưng? Lấy Kinh của Phật để tượng trưng
cho Pháp bảo.
Tăng tiếng Ấn Độ là Tăng Già dịch là hòa hợp chúng, tức là nhiều người
thanh tịnh hòa hợp lại thành Tăng; theo quy định là 4 người trở lên mới thành
Tăng, còn 3 người trở xuống không gọi là Tăng.
Hoàng Nhất luật sư nói: “Gần đây, mọi người chỉ quy y nhị bảo và giao thiệp với
một Đại đức”. Bởi vì, họ quy y rồi chỉ nhìn nhận một thầy của mình, chứ không
nhìn nhận cả chúng Tăng là thầy của mình. Tất cả Tăng chúng thay thế cho Tăng
bảo, nhưng thầy của mình quy y đại diện cho Tăng bảo để chứng minh; người này
đã quy y Tam bảo là đệ tử của Tam bảo, chứ không phải đệ tử riêng của một vị
thầy.
Tăng ở trong Tam bảo cần nhất, nếu có Phật bảo, có Pháp bảo, mà không có Tăng
bảo thì Phật pháp tiêu diệt. Như Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, nếu không có Tăng
từ mỗi đời tiếp nối thì Phật pháp tiêu diệt từ lâu; có Tăng bảo mới có Phật bảo
và Pháp bảo, nhưng bây giờ người ta không chú trọng Tăng bảo, ấy là sai
lầm.
Trách nhiệm của Tăng, như Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, có trách nhiệm giáo hóa chúng
sanh. Cho nên, giới luật có quy định: Tỳ kheo chưa đủ 10 tuổi hạ không được rời
thầy, Tỳ Kheo Ni chưa đủ 12 tuổi hạ không được rời thầy. Thầy Bổn sư có trách
nhiệm dạy người đó, nếu không biết dạy người đó thì phải bị tội. Bởi vì, xuất
gia rồi không biết gì để dạy chúng sanh, nên có thể phá hoại Tam bảo. Vậy làm
sao đứng trong hàng ngũ Tăng bảo? Cho nên, quy định Tỳ Kheo phải biết giới Tỳ
Kheo, giới Tỳ Kheo Ni và có Chánh ngữ Chánh kiến về Phật pháp.
Cái tệ bây giờ, có người xuất gia được nửa năm, một năm, rồi lạc quyên tiền xây
chùa, tự mình làm Trụ trì; cũng có người chưa xuất gia, làm chùa xong, rồi mời
thầy cạo đầu mình, làm lễ xuất gia và Trụ trì luôn. Việc ấy trái ngược giới
luật, phá hoại Tam bảo.
Cho nên, nghĩa hủy báng Tam bảo rất rộng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hư tiêu Tín
thí, lạm nhận cung kính là tội địa ngục”. Nếu mình không chân thật tu hành,
nhận sự cúng dường của Tín thí là hư tiêu Tín thí. Người ta cung kính mình,
không phải vì mình cạo đầu, mặc áo cà sa; người ta cung kính Tam bảo là muốn sự
giáo hóa của Tam bảo, cho mình và chúng sanh được giải thoát.
Phật pháp làm lợi ích cho chúng sanh được tu chánh pháp, đạt đến tự do tự
tại vĩnh viễn giải thoát, ấy là mục đích của Tam bảo. Nếu mình không chân thật
tu hành, tự độ mình chưa được, làm sao độ chúng sanh! Tức là hư tiêu Tín thí.
Còn mình lạm dụng hình tướng Tăng để nhận sự cúng dường của người, đều phải bị
đọa địa ngục, chưa nói đến việc phá giới.
Cho nên, giới hủy báng Tam bảo, không phải chỉ miệng nói hủy báng mà cái nghĩa
nó rất rộng. Ở đây nói, nếu Bồ Tát nghe kẻ ngoại đạo và người ác dùng lời ác
hủy báng Tam bảo, như 300 mũi giáo đâm chỉa vào tim mình. Trái lại, tự mình hủy
báng Tam bảo thì mắc tội Ba la di của Bồ Tát.
Hiện nay, nhiều Phật tử không hiểu Phật pháp là do Tu sĩ không có trách nhiệm,
vì lạm thu đệ tử xuất gia, đã tự mình không biết giới luật, không có Chánh kiến
Phật pháp, lấy gì để dạy đệ tử? Cũng như ban đầu sữa nguyên chất, rồi sau pha
thêm nước, sau nữa hoàn toàn là nước không có sữa. Bây giờ, muốn khôi phục Phật
giáo như xưa thì phải xây xựng Tăng bảo, mà hiện nay không có Tăng đoàn, tự
mình làm chùa nhỏ để Trụ trì, có phạm Ba la di tội cũng không có ai can thiệp
được. Nhưng người ta vẫn cung kính cúng dường, vậy Phật pháp làm sao khỏi bị
tiêu diệt!
Nếu thường trụ Tam bảo bị hủy hoại thì không thể hy vọng ngộ nhập được Tự tánh
Tam bảo. Nếu không ngộ nhập được Tự tánh Tam bảo thì không được giải thoát.
Được người tôn xưng là Tăng bảo, người xuất gia chúng ta hãy tự kiểm điểm chính
mình, có xứng đáng là Tăng bảo hay chưa?
Nếu có nhân duyên tổ chức thành Tăng đoàn, rồi Tăng đoàn tổ chức thành luật của
Tăng đoàn mới bảo vệ được giới. Luật là bảo vệ giới, giới là bảo vệ mình; ở
trong luật gồm có giới, mà giới không thể gồm có luật.
Hỏi:
Trước khi thọ giới Bồ Tát thì phải nghe giảng giới Bồ Tát. Tại sao khi
tụng giới lại không cho người chưa thọ giới Bồ Tát nghe?
Đáp:
Phải cho nghe hết. Tụng giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không cho nghe đối với người
chưa thọ giới này. Còn giới Bồ Tát thì tất cả mọi người đều được nghe. Kinh
Phạm Võng nói: “Tất cả ma, quỷ, huỳnh môn, súc sanh,… nghe được lời Pháp sư mà
lãnh thọ”, huống chi là người! Nếu thọ được thì phải được nghe.
Hỏi:
Ở trong Tăng vấn hòa có hỏi: “Trong đây có ai chưa thọ giới Bồ Tát và
không thanh tịnh ra chưa? Trả lời: Trong đây chưa ai thọ giới Bồ Tát, hoặc đã
ra rồi”. Như vậy, chứng tỏ người chưa thọ giới Bồ Tát không được nghe giới Bồ
Tát?
Đáp:
Đó là việc sai lầm, lúc bạch tứ Yết ma tức là tác pháp để làm việc. Lúc Yết ma
có thể người không có quan hệ thì không cho nghe. Vì Yết ma có thể trị tội Tăng
sĩ, tức là theo tội để phán tội Tăng sĩ; không cho những người có quan hệ, như
cư sĩ để biết tội của Tăng sĩ do Tăng đoàn xử. Cho nên, mới hỏi những người
không có quan hệ ra trước, chứ không phải tụng giới không cho nghe.
Bây giờ, cũng có nhiều cư sĩ thọ giới Bồ Tát xuất gia, thọ được thì nghe được,
làm sao không được nghe? Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa thọ
giới gì cũng được thọ.
Giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nếu có trường hợp nào, cư sĩ cũng có thể nghe biết;
chứ không phải nhất định là không cho cư sĩ nghe biết. Vì sợ cư sĩ biết chư
Tăng phạm giới luật, nổi tâm khinh mạn Tam bảo nên cấm không cho nghe.
Còn giới Bồ Tát thì người xuất gia hay tại gia đều được nghe, làm sao không cho
nghe? Thành ra mâu thuẫn, không cho nghe là pháp Yết ma, chứ tụng giới sao
không cho nghe!
Người chưa thọ giới Bồ Tát đều được nghe giảng giới Bồ Tát. Giới Bồ Tát là phá
ngã chấp, muốn giúp đỡ chúng sanh. Người nào có tâm là có tư cách thọ giới Bồ
Tát, chứ không phải như giới Thanh Văn phải đúng người mới được thọ; không phải
người, ma quỷ, súc sanh thì không được thọ. Còn giới Bồ Tát, ma quỷ, súc sanh
đều được thọ, mà trước kia chưa thọ giới gì; trước kia chưa quy y Tam bảo thì
quy y Tam bảo thì thọ liền, vì thọ giới nào cũng có Tam quy hết. Cho nên, gọi
là đốn lập giới, không phải tiệm thứ của giới Thanh Văn.
Tam tạng là Kinh, Luật, Luận; người thông suốt Kinh gọi là Kinh sư, người thông
suốt Luật gọi là Luật sư, người thông suốt Luận gọi là Luận sư. Bây giờ, Tăng
bảo thiếu Luật sư, ít có người phát tâm học luật. Theo Tăng đoàn, người nào thọ
giới rồi thì phải sống trong Tăng đoàn. Khi Phật giáo sang Trung Quốc có sáng
lập phái Luật tông. Muốn làm luật sư thì phải học giới luật.
Sau này, ít có người phát tâm học luật, mà người hoằng luật thì người ta ít
kính trọng vì họ không thích. Các vị thuyết pháp, người nghe lại đông; còn
giảng giới luật thì ít có người đến nghe. Nhưng nếu không có luật thì không có
pháp, Phật pháp bị tiêu diệt; vì khi Phật nhập Niết Bàn, trước đó có dặn dò đệ
tử phải lấy giới luật là thầy; mà bây giờ không chú trọng đến luật, nên Phật
pháp dần dần tiêu mất.
Hiện nay, chỉ có phần giới, không có phần luật. Theo Tăng đoàn có việc gì phải
qua pháp Yết ma, pháp Yết ma là ở bên phần luật. Nếu Tỳ Kheo không biết giới
luật Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không biết giới luật của Tỳ Kheo Ni; vậy làm sao giữ
giới? Vì người thầy lạm nhận đệ tử xuất gia không dạy đệ tử, nên thầy đó phải
bị tội; cũng là phá hoại Phật pháp, hủy báng Tam bảo. Đó là phá hoại cái gốc,
còn dùng miệng để hủy báng là hủy báng bên ngoài.
48 ĐIỀU GIỚI KHINH
Chánh văn:
Đức Phật bảo các vị Bồ Tát rằng: Đã giảng 10 giới trọng rồi, nay tôi sẽ
nói 48 giới khinh:
1- GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN
Nếu Phật tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc Vương, ngôi
Chuyển Luân Vương hay sắp lãnh chức quan, trước nên thọ giới Bồ Tát. Như thế
tất cả quỷ thần cứu hộ thân vua và thân các quan, chư Phật đều hoan
hỷ.
Đã đắc giới rồi, Phật tử nên có lòng hiếu thuận và
cung kính. Nếu thấy có bực Thượng tọa, Hòa thượng, A xà lê, những bậc Đại đức
đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy chào, hỏi
thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân quốc thành con
cái, cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bực ấy. Nếu Phật tử sanh lòng kêu
mạn, sân hận ngu si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y pháp
mà cúng dường, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải:
Chuyển Luân Vương có 4 cấp:
-Kim Luân Vương cai trị hết 4 Đại bộ châu (1 tiểu thế giới có 4 đại bộ
châu).
-Ngân Luân vương cai trị 3 Bộ châu.
-Đồng Luân Vương cai trị 2 Bộ châu.
-Thiên Luân vương cái trị 1 Bộ châu.
Chuyển Luân Vương là phi hành (biết bay), mắt của mình không thấy được.
Quốc Vương là vua của loài người trong một nước. Chuyển Luân vương là mình chỉ
nghe thấy chứ không thấy.
Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng Ấn Độ, nói cho đủ là “Bồ đề tát
đỏa”, dịch ra là Gác hữu tình, tức là Giác ngộ chúng sanh. Giác này gồm tự
giác, giác ngộ chúng sanh là giác tha. Hành đạo Bồ Tát là làm cái nhân để thành
Phật. Nếu làm cho chúng sanh được giác ngộ cũng là tăng phước đức của mình,
giúp cho người được giác ngộ.
Cho nên, tất cả chúng sanh muốn thành Phật, đều phải hành
đạo Bồ Tát. Chuyển Luân Vương, Quốc Vương, bá quan, kiếp trước đã gieo trồng
thiện căn, nên được làm vua làm quan, học có sẵn phước đức, muốn thành Phật thì
dễ hơn.
Tại sao muốn thành Phật? Vì thành Phật thì vĩnh viễn hết
tất cả khổ, nếu không thành Phật thì cái khổ không thể dứt được. Vì vậy, ở đây
nói “khi được ngôi vua hay ngôi quan, trước hết phải thọ giới Bồ Tát”. Bởi vì,
người nào cũng muốn được tự do tự tại giải thoát cho mình và giải thoát cho
người; hai cái tương nhân với nhau, mình tự giác rồi lại giác tha. Giác tha
cũng giúp cho mình được giác ngộ; tự giác là tự lợi, giác tha là lợi tha. Kỳ
thật, lợi tha cũng là tự lợi, tự lợi cũng là lợi tha.
Giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã chấp, phá được ngã chấp thì hết cái khổ
sanh tử luân hồi. Hành đạo Bồ Tát là tự lợi cũng là lợi tha, 48 điều khinh phần
nhiều nói về lợi tha. Nếu mình thọ giới Bồ Tát thì quỷ thần, hộ pháp ủng hộ,
chư Phật cũng hoan hỷ. Đã được giới rồi thì phải có tâm hiếu thuận.
Tâm hiếu thuận và tâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống
như hiếu thuận của thế gian. Hiếu thuận thế gian chỉ hiếu thuận cha mẹ và sư
trưởng, còn Phật pháp là hiếu thuận tứ ân (ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng và
ân chúng sanh).
Hiếu thuận cha mẹ là chỉ một ân trong tứ ân, hiếu thuận chúng sanh gồm tứ ân;
vì cha mẹ, sư trưởng và Phật đều ở trong chúng sanh. Tâm hiếu thuận là mình
phát tâm độ chúng sanh được giác ngộ, nên đối với cha mẹ và sư trưởng đều phải
cung kính.
Vậy, gặp Hòa thượng, Thượng tọa, A xà lê (Thượng sư), bạn thân, người đồng
kiến, đồng hạnh (như tham thiền với nhau gọi là đồng tham, tức là đồng hạnh),
mình gặp phải đứng dậy nghinh tiếp; các vị lớn hơn, như: Hòa Thượng, Thượng tọa
gặp thì phải lễ bái hỏi thăm. Trong thời của Phật, có người gặp vị Thượng tọa
lễ bái, chấp tay hỏi thăm “Thượng tọa có ít bệnh, ít phiền não, an lạc không”?
Ở bên người Hoa chỉ có xá chào, chứ không có hỏi. Đáng lẽ ra phải vấn tín (hỏi
thăm).
Trong này nói: “Bán thân, bán con trai, bán con gái,…” là có ý tận sức cúng
dường, tùy theo sức mình cúng dường Tam bảo, vì mình đã quy y Tam bảo, cần sự
giáo hóa của Tam bảo, theo đó mà thực hành đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, giải
thoát tất cả khổ. Cái ân đó rất lớn, nên mình tận sức mà cúng dường. Nếu không
biểu thị cung kính, mà sanh tâm ngã mạn, hoặc còn nổi sân lên, không theo pháp
cúng dường thì phạm tội khinh này.
2- GIỚI UỐNG RƯỢU
Chánh văn:
Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra
vô lượng tội lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo: Năm
trăm đời không tay, uống là tự uống. Cũng chẳng đặng bảo người và tất cả chúng
sanh uống rượu, uống là tự mình uống! Tất cả thứ rượu, Phật tử không được uống.
Nếu mình cố uống cũng bảo người uống, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải:
Cư sĩ thọ 5 giới, trong đó có một giới uống rượu, không có giới bán rượu, tức
là uống rượu thì phạm và bán rượu thì không phạm.
Giới Bồ Tát lại khác, bán rượu tội nặng, uống rượu tội nhẹ, vì uống rượu chỉ
hại mình, còn bán rượu thì hại người. Giới Bồ Tát là lợi tha, mà nghịch lại hại
người khác, cho nên tội nặng. Ở trong 10 điều trọng không được bán rượu, còn ở
đây uống là tội khinh.
Phật tử thọ giới Bồ Tát không được uống rượu. Rượu không có tội lỗi, nhưng uống
rượu say rồi có thể phá giới trước làm ra tội lỗi, nên trong Phật giáo cấm uống
rượu. Nếu đưa chén rược cho người uống, phải mắc quả báo 500 đời không tay,
huống chi mình uống, cũng không được dạy người uống, không đượcc dạy tất cả
chúng sanh uống, tức là tất cả rượu không được uống.
Theo giới uống rượu thành tội, cũng có 4 nhân duyên:
1- Rượu đó uống say.
2- Mình cho nó là rượu.
3- Cố ý uống rượu.
4- Uống rượu vào cổ họng.
Có khi người ta dùng rượu để làm trong đồ ăn, nhưng ăn đồ
thì không phạm hay là cơm rượu để ăn uống không say thì không phạm. Nếu mình
lấy các thứ để uống, lại uống nhầm rượu, không cho nó là rượu cũng không phạm.
Uống rượu thiếu 1 trong 4 nhân duyên thì không phạm.
Nếu tự mình uống rượu hoặc đưa rượu cho người uống thì phạm giới khinh
này.
3- GIỚI ĂN THỊT
Chánh văn:
Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không
được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng từ bi, dứt giống Phật tánh; tất cả
chúng sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi. Vì
thế, nên tất cả Phật tử không được ăn thịt mọi loài chúng sanh. Nếu cố ăn thịt,
Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải:
Giới Bồ Tát là muốn lợi ích cho chúng sanh. Nếu mình phát tâm hành đạo Bồ Tát,
mà còn ăn thịt chúng sanh, làm sao độ chúng sanh được? Theo nhân quả thì giết
một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt phải trả một cục thịt, mới là đúng
nhân quả.
Nếu mình cố ý ăn thịt chúng sanh thì không có lòng từ bi. Vì lòng từ bi là muốn
độ chúng sanh. Như vậy, thọ giới Bồ Tát phải ăn chay trường, còn thọ ngũ giới
không có quy định ăn chay trường. Cho nên, thọ giới Bồ Tát không được ăn
thịt.
Nếu mình ăn thịt gà thì sau này đầu thai thành gà, gà đầu thai thành người, rồi
nó ăn lại. Ấy là việc nhân quả; còn tội phá giới thì lại khác, tội phá giới có
thể sám hối diệt tội, nhưng tội nhân quả không được sám hối diệt tội, vì nhân
nào quả nấy.
4- GIỚI ĂN NGŨ TÂN
Chánh văn:
Nếu Phật tử, chẳng được ăn loại ngũ tân là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Loại
ngũ tân này, gia vào trong các thứ thực phẩm đều không được ăn. Nêu cố ăn, Phật
tử này phạm “khinh cấu tội”.
Giảng giải:
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Không được ăn ngũ tân”. Người Hoa có để ý cử ăn ngũ tân,
người Việt ít để ý cử ăn ngũ tân; như củ kiệu mà người Việt vẫn ăn. Ngũ tân gồm
có: “Tỏi, nén, hành, hẹ, hưng cừ”. Hưng cừ chỉ Ấn Độ mới có, ở đây có 4 thứ
kia.
Tại sao cấm ăn ngũ tân? Vì ăn sống thì sân hận, ăn chín thì kích thích dâm dục.
Cho nên, người tu hành phải cấm, và tánh chất khi ăn thấy hôi. Nếu mình ăn ngũ
tân, hộ pháp thần thấy hôi nên không ủng hộ, ma quỷ thì liếm môi mình. Vì vậy,
Phật cấm người tu hành không được ăn ngũ tân, người ăn ngũ tân rất chướng ngại
việc tu hành.
Biên tập : Thích Đồng Thường 2005
Tỳ kheo Thích Vân Phong sửa lỗi chính tả
Update 04-03-2007 06:23:15
Thiền sư Thích Duy Lực
Từ Ân Thiền đường, Santa Ana
Hoa Kỳ