Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda, một học giả
uyên bác và cũng là Đại Lão Hòa-Thượng Tăng Thống Mã Lai – Tân Gia Ba,
tác giả cuốn sách này, chứng minh rõ quan điểm cũng như việc triển khai
của đạo Phậttrên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống hiện tại như tư tưởng
về xã hội, kinh tế, an sinh, khoa học, môi sinh v..v..
Nhờ thiện duyên chúng tôi được Hòa Thượng tặng cho cuốn sách quí giá này và khuyến khích chúng tôi phát tâm dịch thuật.
Tự
biết khả năng yếu kém, kiến thức thô thiển nhưng với tấm lòng nhiệt
thành chúng tôi cố gắng dịch ra Việt ngữ hy vọng đóng góp một phần nhỏ
vào kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam và cũng để đền đáp công ơn sâu
dày của các bậc Thầy Tổ trong muôn một.
Chúng tôi xin hồi hướng công
đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo và cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo thùy
từ gia hộ Quí vi. Cùng Bửu quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Sau
cùng chúng tôi kính mong chư tôn thiền đức, pháp hữu ân nhân, các bậc
thức giả cao minh, vui lòng bổ chính cho những sai lầm thiếu sót để cuốn
sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
TỲ KHEO THÍCH TÂM QUANG TIỂU SỬ TÁC GIẢHòa
Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda Maha Nayaka Thera, Trưởng Lão Tăng
Già Mã Lai Á, sanh ngày 18 - 03 -1919 tại làng Kirinde, Matara phía nam
Sri Lanka (Tích Lan ).
Khi ngài 12 tuổi, Ngài thọ giới Sa Di và tiếp
tục chương trình tu học 10 năm trước khi thọ đại giới tỳ kheo ( bikkhu )
vào năm 1940.
Sau 10 năm tu học chuyên về giáo lý của Đức Phật tại
các Tu viện Sri Dhammarama, Privena, Ratmalana, Vidyawardhana, tại
Colombo, Vidyalankara Pirivena tại Peliyagoda, Kelaniya, một Đại học
Phật Giáo rất có uy tín, năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn bằng Ngôn ngữ
học, Triết lý và Qui tắc Pali.
Năm 1949, Ngài tốt nghiệp cao học triết lý Ấn Độ sau bốn năm học tập tại Đại học Ba La Nại ( Benares ) tại Ấn Độ.
Tại
Kotawila ( Sri Lanka), Ngài thiết lập viện “Sudharma” huấn luyện giáo
dục, an sinh và nhu cầu tôn giáo xã hội cho quần chúng. Ngài cũng phát
hành tam-cá-nguyệt tạp chí bằng tiếng Tích Lan (Singhalese).
Năm
1952, trong số 400 Thầy tu trẻ tại Viyalanka Pirivina, Ngài được tuyển
chọn đi phục vụ Mã Lai Á vì nơi đây cần một nhà hoằng pháp Giáo Lý Phật
Đà.
Nhờ có sự cố gắng hoằng pháp của Ngài, nhiều người Hoa trong nước
nhận thức được giáo lý chân thật của Đức Phật, Ngài nhận được rất nhiều
thư của các người Hoa trẻ có học thức rành Anh ngữ trên khắp cả Mã Lai
tán dương Ngài vì đây là lần đầu tiên trong đời họ đã hiểu được sự thật
giáo lý Phật Đà. Rồi Ngài khai sáng tờ báo “ Tiếng Nói Của Phật Giáo”
cho đến bây giờ vẫn đều đặn xuất bản một năm hai kỳ bởi Hội Truyền Giáo.
Ngài là tác giả của những cuốn sách rất phổ thông như “ Người Phật Tử
Tin Gì “, “ Làm Thế Nào Để Sống Khỏi Sợ Hãi Và Lo Lắng “ ,“ Hạnh Phúc
Lứa Đôi “, “ Nhân Loại Tiến Về Đâu”, và “ Thiền Định – Con Đường Duy
Nhất “.
Do những thành quả của các hoạt động hoằng pháp và giáo dục
của Ngài, Ngài được suy tôn “ Tăng Thống “ Giáo Hội Siam Maha Nikaya,
Malwatta, tại Mã Lai năm 1965 và được tặng cấp bằng Tiến Sĩ Danh Dự của
các Đại học Dharma Realm, Đại học Đông Phương ( Hoa Ky`), Đại học
Nalanda, Đại học Ba La Nại ( Benares), và Đại học Pali của Tích Lan.
Ngài cũng được ân thưởng tước vị Hoàng gia Johan Setta Mahkota bởi Hoàng
đế Mã Lai.
Kết quả tốt đẹp của Hòa thượng trong việc phục vụ cho
cộng đồng Phật giáo không những trong phạm vi Mã Lai mà cũng cho tất cả
thế giới bởi những ai cảm nhận được sự nhiệt thành không chút vị kỷ của
Ngài để hoằng dương Phật Pháp.
_______________
ĐẠO PHẬT VÀ ĐỜI SỐNG HIỆN TẠITrên
thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta
có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc
hay có một sự đóng góp hay một đặc tính đáng kể tìm thấy ở Đạo Phật mà
các đạo khác không có? Có một trường dạy về tư tưởng nói rằng tất cả các
tôn giáo chủ yếu đều giống nhau. Không có gì khác biệt đáng kể. Cái
khác biệt duy nhất là trong sự thuyết minh và thực hành. Sau hết, trong
phân tích cuối cùng, chúng ta đều đến tại một nơi : thiên đường hay địa
ngục. Đó là niềm tin thông thường của hầu hết các tôn giáo.
Đạo Phật có cùng một quan điểm đó không? Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy nghiên cứu tôn giáo được định nghĩa ra sao.
ĐỊNH NGHĨATheo
nghiên cứu về văn học, từ ngữ “tôn giáo”, một hiện tượng trong lịch sử
có thể xét về nhiều mặt khác nhau : như một kinh nghiệm nội tâm, như một
khoa thần học hay một công thức tinh thần của một học thuyết, như một
nền tảng hay căn bản đạo đức, một yếu tố của văn hoá. Nhiều học giả đã
cho những quan điểm và ý kiến khác nhau về bản chất và ý nghĩa.
Theo
Aldous Huxley (1), tôn giáo là, giữa các sự việc, một hệ thống giáo dục,
bằng các phương tiện, con người có thể tự mình huấn luyện lấy mình,
trước nhất là thay đổi cái mình mong muốn cho chính nhân cách mình và
trong xã hội, thứ hai là nâng cao lương tri và thiết lập quan hệ đầy đủ
giữa con người và vũ trụ mà họ là thành phần trong đó. Những nhà triết
học tiên tiến Ấn như Tiến sĩ Radhakrishnan (2) giải thích luận đề cho là
tôn giáo không phải một mớ chủ nghĩa, nhưng tôn giáo là kinh nghiệm.
Kinh nghiệm tôn giáo căn cứ trên ý thức sự “hiện hữu thần linh trong con
người”. H.G Wells (3) cho rằng “tôn giáo là trung tâm của giáo dục xác
định luân lý phẩm hạnh của chúng ta”. Nhà Triết học Đức Kant (4), cho
rằng “tôn giáo thừa nhận luân lý căn bản như luật lệ không được vi
phạm”.
Thông điệp của Đức Phật tức con đường tôn giáo của cuộc đời :
“Hãy tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống bằng
những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ bất tịnh”.
Theo
định kiến của chúng tôi, tôn giáo có thể giải thích trong một ý nghĩa
rộng như một nền tảng của luân lý và giáo lý triết học được chấp nhận
với lòng tin tưởng vào giáo lý ấy. Theo nghĩa trên, đạo Phật là một tôn
giáo.
Tuy nhiên, đạo Phật không giống chút nào với các tôn giáo thông
thường đại cương nói trên đây. Đạo Phật cũng không có những đặc tính
chung với những tôn giáo hiện hữu trong nhiều chiều hướng. Để cứu xét
vấn đề sau này, chúng tôi xin được trước tiên nghiên cứu ngắn gọn tôn
giáo đã có thể xuất hiện như thế nào.
KHỞI ĐẦUTại
sao tôn giáo đã bắt nguồn? Quí vị có thể đã nghe nguồn gốc tôn giáo nằm
trong sự sợ hãi của con người, và trong sự bất an. Vào thời gian trước
khi tôn giáo được tổ chức, người dân không đủ kiến thức và cũng không
hiểu nổi thực chất của đời sống và cái gì đã xảy ra cho họ sau khi chết.
Họ cũng không hiểu nổi cả đến những hiện tượng thiên nhiên hay những
biến cố thiên nhiên. Theo sự hiểu biết hạn hẹp của họ, họ nghĩ chắc chắn
phải có những sức mạnh “không biết đến” đã tạo thành những việc vừa ý
hay không vừa ý. Ngẫu nhiên, họ nhận thấy có một năng lực sau các sức
mạnh thiên nhiên mà họ gọi là “shakti”. Họ chứng nghiệm một ý thức kinh
hãi, sợ sệt không thể giải thích nổi về những sức mạnh đó mà họ cảm thấy
có thể làm hại họ được.
Cho nên họ nghĩ rằng các sức mạnh đó phải
được xoa dịu và sử dụng để che chở họ hay ít nhất không đụng đến họ.
Không tin về khả năng có thể “nói chuyện” với các sức mạnh đó bằng ngôn
ngữ bình thường, họ nghĩ rằng có thể diễn đạt thông điệp của họ trong
thầm nín. Cuối cùng những hành động ghi nhận sức mạnh này trở thành nghi
thức trong những dạng thức sùng bái. Một số người xem như có thần thông
đặc biệt để truyền đạt với các sức mạnh ấy và những người này vui hưởng
quyền uy lớn lao trong nhóm.
Sau khi sùng bái và cầu nguyện, những
người thưở xưa nghĩ rằng họ có thể kiểm soát được những biến cố có hại
và cũng đồng thời bảo đảm được mức độ che chở như một phần thưởng từ
những sức mạnh và năng lực vô hình. Để giúp họ có thể mường tượng hữu
hiệu hơn đến những sức mạnh ( vô hình ) mà họ đang cố truyền đạt đến, họ
đặt tên, hình dung một hình ảnh cho mỗi sức mạnh – hoặc hình dạng giống
người hoặc hình dạng kỳ lạ không giống người, nhưng luôn luôn gợi lên
một hình ảnh kinh hãi, sợ sệt.
Rồi thời gian qua, họ quên hẳn ý
nghĩa thực sự của các hình ảnh tượng trưng ấy và cho những hình ảnh ấy
là thực và chấp nhận như là các thiên thần.
Có những văn hoá biến
những ý tưởng và quan niệm thành những hình dạng và khai triển các nghi
lễ đặc biệt tôn vinh, sùng bái các hình ảnh ấy như các Đấng Thiêng
liêng. Dần dà, khi các châu thị định cư lúc sơ khai bắt đầu việc thực
hiện an ninh xã hội, thấy cần thiết áp dụng một số thực hành làm căn bản
để mở mang luân lý, cư xử và để hướng dẫn người công dân đúng đường lối
và đảm bảo hạnh phúc cộng đồng. Do đó các quan niệm như nhân đạo, trách
nhiệm của con người, và giá trị nhân bản như thành thực, hảo tâm, từ
bi, nhẫn nại, khoan dung, chân thành, đoàn kết và hài hoà được khuếch
trương .
Để đảm bảo cho các đức tính đó được nâng cao, các nhà lãnh
đạo áp đặt sự kinh hãi vào những đệ tử của mình và hăm doạ họ sẽ bị
trừng phạt đời sau này bởi các đấng thiêng liêng nếu không tuân hành.
Tôn giáo là kết quả hỗn hợp của phẩm hạnh luân lý và lòng tin tưởng siêu
nhiên. Chúng tôi sẽ bàn về luân lý tỉ mỉ hơn ở phần sau.
QUAN NIỆM VỀ THƯỢNG ĐẾTrên
đây cho thấy sự tưởng tượng và nhân đạo ngẫu nhiên hỗn hợp với nhau tạo
thành tôn giáo. Một số người nói rằng thật khó để có thể tin là một
đấng thiêng liêng nào đó đã tạo ra tôn giáo. Có lẽ chúng tôi cũng có thể
nói con người tạo ra tôn giáo và sau đó giới thiệu quan niệm đấng
thiêng liêng vào tôn giáo. Một triết gia Hoa Kỳ, giáo sư Whitehead (5),
một lần đã tuyên bố nguyên thủy con người tạo ra đấng thiêng liêng và
sau đó đấng thiêng liêng tạo ra người. Cái mà ông ta muốn giải thích là
quan niệm về đấng thiêng liêng do con nguời tạo ra và sau đó quan niệm
này biến thành thần thánh. Mặt khác, một triết gia Pháp, Anatole France
(6), nói nếu quan niệm về đấng thiêng liêng không có, con người phải tạo
một vị bởi lẽ rất cần thiết cho tâm linh con người. Thế lực thần quyền
cần thiết để làm dịu bớt sợ hãi trong nội tâm, nghi ngờ, lo lắng, bực
dọc, băn khoăn, dục vọng. Để tránh các phiền não, chúng ta phải trông
vào một tha lực để chúng ta được an ủi. Hiểu biết bản chất tâm linh con
người, cho nên Anatole France đã nói nếu không có đấng thiêng liêng,
chúng ta phải tạo ra một đấng thiêng liêng.
Trong ý nghĩa ấy chúng ta
chỉ như trẻ nít. Khi em nhỏ đang khóc và người mẹ đang bận rộn không bế
em được, cái người mẹ làm ngay là đưa vào miệng em một núm vú khiến em
thoải mái và em nín ngay. Quan niệm về đấng thiêng liêng cứu giúp con
người cũng như vậy. Để con người ngưng phiền muộn và nước mắt khóc than
ngưng chảy, người ta đã triển khai mọi cách đem an lạc dưới những hình
thức niềm tin tôn giáo và hành đạo.
ĐỨC PHẬTTrong
bầu không khí tôn giáo như vậy, Đức Phật xuất hiện. Là một thái tử sống
trong cảnh xa hoa, Ngài bắt đầu suy tư sâu xa tại sao chúng sanh lại
đau khổ trên cõi đời này. Cái gì là nguyên nhân của khổ đau? Ngài tự
hỏi.
Một hôm Ngài ngồi dưới một gốc cây khi Ngài còn là một thiếu
niên, Ngày nhìn thấy một con rắn bất thình lình xuất hiện và bắt một con
nhái.Trong lúc con nhái và con rắn đang tranh đấu với nhau, một con
diều hâu từ trên trời xà xuống và bắt con rắn trong khi con rắn còn đang
ngậm con nhái trong miệng.
Sự việc này là khúc ngoặt của vị thái tử
trẻ tuổi để từ bỏ cuộc đời trần tục. Ngài bắt đầu nghĩ ngợi làm sao cho
chúng sanh trên mặt đất cũng như dưới nước thoát cảnh làm mồi cấu xé ăn
thịt lẫn nhau. Đời sống này đang cố tranh cướp đời sống kia, đời sống
nọ đang cố vẫy vùng để thoát hiểm, cuộc tranh chiến bất tận này cứ thế
tiếp diễn mãi theo thời gian khi thế giới còn tồn tại. Phương pháp săn
mồi bất tận này, và phương pháp tự bảo vệ này là căn nguyên niềm bất
hạnh của chúng ta. Đó là nguồn gốc khổ đau. Thái tữ quyết định phải tìm
phương thức để chấm dứt khổ đau này.
TỪ BỎ THẾ TỤCNgài
nghiên cứu học hỏi nhiều thầy của nhiều tôn giáo khác nhau và thấy tất
cả những gì các vị thầy đã dạy cũng không thể tìm được phương cách chấm
dứt khổ đau. Ngài đã bỏ nhiều năm tháng suy tư về câu hỏi này. Cuối cùng
vào năm Ngài 29 tuổi, chứng kiến cảnh già, bệnh, chết và niềm tự do qua
việc từ bỏ (thế tục), Ngài quyết định nếu không bỏ mối bận tâm, trách
nhiệm và dục lạc của cuộc đời trần tục thì Ngài sẽ không thể tìm được
câu trả lời. Cho nên tại sao Ngài rời bỏ cung điện thực hiện cái được
gọi là “Sự Từ Bỏ Vĩ Đại”. Sau sáu năm phấn đấu, thời gian tiêu biểu cực
điểm của dòng đời bất tận, trau dồi và phấn đấu để mở mang trí tuệ, cuối
cùng Ngài đạt được giác ngộ và hiểu được bí mật sự khổ đau của chúng
ta. Đó làsự tiên khởi của một “hệ thống tôn giáo” khác. Nhưng đó là một
tôn giáo không giống bất cứ tôn giáo nào con người từng biết trong quá
khứ.
Thật ra hiện tại có nhiều người không thích gọi đạo Phật là một
tôn giáo, vì lẽ chữ “tôn giáo” gợi lên một số lớn các xúc cảm tiêu cực
trong tâm trí họ.
NIỀM TIN VÀ SỰ HÀNH ĐẠO TẠI ẤN ĐỘ THỜI CỔKhông
có lý do nào cho Đức Phật lại giới thiệu thêm một tôn giáo nữa vì vào
thời đó, 2600 năm trước đây, riêng tại Ấn đã có đến 62 tôn giáo. Những
tôn giáo hiện hữu trong thời gian đó đã không thể giải đáp đượccâu hỏi
của Đức Phật nên ngài quyết định không dùng các chất liệu hay quan niệm
của các tôn giáo đó để trình bày những gì chính Ngài đã đạt được.
Trong
thời gian đó, các tôn giáo tại Ấn nghĩ gì ? “Thượng đế tạo ra tất cả
mọi người. Thượng đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng đế ban
thưởng và tha thứ tội lỗi của chúng ta. Thượng đế chịu trách nhiệm về
cuộc đời chúng ta sau khi chúng ta chết ; Thượng đế sẽ cho ta lên thiên
đường hay bắt ta xuống địa ngục”.
Trên đây là những chất liệu căn bản
của tất cả các tôn giáo thời đó và ngay cả hiện tại nữa. Đồng thời cũng
có một số tôn giáo tại Ấn dạy các tín đồ mình phải hành hạ thể xác, cho
rằng làm như vậy có thể rửa sạch tội lỗi trong cuộc sống và có thể lên
thiên đàng sau khi chết. Một số tôn giáo khác lại cổ vũ việc dùng nghi
thức, nghi lễ và đem hy sinh các súc vật dâng cúng để làm vừa lòng các
đấng thiêng liêng. Những người theo tôn giáo trên tin tưởng là làm như
vậy sẽ được lên thiên đường. Một số tôn giáo khác lại dùng cách thức cầu
nguyện, lễ bái, xin được tha thứ các tội lỗi họ đã phạm.
Đức Phật không công nhận hiệu quả của các việc hành đạo này.
ĐỨC PHẬT CÓ HỨA HẸN GÌ KHÔNG ?Đức
Phật không hứa hẹn hạnh phúc tuyệt đối hay ban thưởng cho những ai tự
nhận là tín đồ của Ngài và Ngài cũng không hứa hẹn cứu rỗi cho những ai
đặt niềm tin nơi Ngài. Với Ngài, tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là
con đường sống cao thượng để đạt đến giác ngộ và giải thoát. Đức Phật
không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. Ngài muốn chúng
sanh phải biết suy nghĩ và thấu hiểu. Phật Giáo là con đường cao thượng
cho đời sống mà nơi đó, nhân đạo, bình đẳng, công bằng và an lạc chiếm
vị trí tối thượng. Cừu hận, ác cảm, chỉ trích, và oán giận hoàn toàn xa
lạ với Giáo Lý của Ngài.
Thế giới mang ơn Đức Phật do việc Ngài nêu
cao sự hợp lý chống lại những dị đoan trong tôn giáo. Phải chăng chính
Ngài đã giải thoát con người khỏi vòng áp chế của các thầy tu? Phải
chăng chính Ngài là nguời đầu tiên chỉ con đường giải thoát cho con
người thoát khỏi những sợi dây trói buộc của đạo đức giả và của chính
sách độc tài trong tôn giáo?
Trong thời gian Đức Phật tại thế không
có việc hành đạo nào được coi là cao hơn tập tục lễ nghi và việc đem
tính mạng của chúng sanh cúng cho các đấng thiêng liêng ; nhưng với Đức
Phật, không có việc hành đạo nào có thể làm mất phẩm giá con người hơn
thế . Việcđem sanh mạng làm vật hy sinh không khác gì hơn là việc hối lộ
; và sự cứu rỗi bằng hối lộ, tham nhũng không phải là sự cứu rỗi mà bất
cứ con người tự trọng nào lại muốn có.
THUẬT NGỮ TRONG TÔN GIÁONhưng
trong khiđem trình bày giáo lý, đức Phật đã dùng những từ ngữ tôn giáo
thông dụng tại Ấn thời đó vì lẽ bằng cách này Ngài trở nên gần gũi với
những người nghe. Những người này hiểu rõ được Ngài muốn ám chỉ đến gì
và Ngài có thể triển khai ý nghĩa căn bản của Ngài từ một lập trường đại
chúng.
Pháp, Nghiệp, Niết Bàn, Giải Thoát, Địa Ngục, Luân Hồi, Ngã
là những chữ rất thông dụng trong tất cả các giáo phái thời đó. Nhưng
trong giáo lý của Ngàiù, Đức Phật đã giảng dạy những từ đó với ý nghĩa
độc đáo và hết sức hợp lý .
PHÁPChúng ta thử xem
chữ dharma hay dhamma (Pháp). Giải nghĩa theo lối cổ, Pháp có nghĩa là
luật ban bởi đấng thiêng liêng. Theo niềm tin thời cổ, đấng thiêng liêng
hứa thỉnh thoảng, với nhiều hoá thân khác nhau, sẽ xuất hiện để bảo vệ
Pháp. Đức Phật không chấp nhận đấng thiêng liêng nào đó có thể ban giáo
lý, lời răn, và giới luật tôn giáo. Đức Phật dùng chữ Pháp để mô tả toàn
bộ giáo lý của Ngài, Pháp có nghĩa là giữ vững, gìn giữ, hỗ trợ.
Đức
Phật dạy Pháp để giúp chúng ta thoát khỏi khổ đau do nguyên nhân cuộc
sống và để khỏi mất giá trị nhân phẩm và khỏi rơi vào nơi khổ đau như
địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, địa hạt của ma vương. Pháp trình bày bởi
Đức Phật, gìn giữ , hỗ trợ chúng ta, và giải thoát chúng ta khỏi cảnh
khổ não tại các nơi trên. Pháp cũng có nghĩa là nếu chúng ta theo những
phương pháp do Ngài đề ra, chúng ta không bao giờ bị sa vào những trường
hợp bất hạnh như bị mù ngay từ lúc mới sinh ra, tàn tật, điếc, câm hoặc
điên dại. Cho nên theo phương pháp của đức Phật, Pháp là lời khuyên để
giúp chúng ta tranh đấu thoát khỏi khổ đau và cũng để nâng cao phẩm hạnh
của con người. Các nhà triết học phương Tây mô tả Phật giáo là một lối
sống cao thượng, một “ tôn giáo tự do và hữu lý”
Pháp không phải là
một luật lệ phi thường tạo ra hay ban bố bởi người nào đó. Thân thể của
chính chúng ta cũng là Pháp. Tư tưởng của chúng ta cũng chính là Pháp;
tất cả vũ trụ này cũng là Pháp. Hiểu được bản chất thân thể vật lý của
chúng ta, tính chất tư tưởng của chúng ta và những điều kiện trần thế,
chúng ta nhận ra Pháp.
Đức Phật dạy chúng ta hiểu bản chất sự hiện
hữu của chúng ta một cách hợp lý theo đường lối thực tế. Nó liên quan
đến cuộc sống ngay đây và bây giờ, của mỗi chúng sanh và như thếù tương
quan đến mọi sự hiện hữu.
Thường thường, khi nói đến tôn giáo, người
ta thường hỏi “Tín ngưỡng của Quí vị là gì ?”. Họ dùng chữ“tín ngưỡng”.
Đức Phật không lưu tâm đến việc triển khai “tín ngưỡng” theo đúng nghĩa
của nó, dù rằng rất là hữu ích trong việc mở mang “tín ngưỡng” để phát
triển một tôn giáo lúc ban đầu. Cái nguy hiểm khi chỉ tin cậy vào “tín
ngưỡng” mà không có kiến thức phân tích, có thể làm chúng ta trở thành
cuồng tín. Những ai để tín ngưỡng kết tinh trong tư tưởng của họ sẽ
không nhìn thấy quan điểm của người khác bởi lẽ họ đã khắc sâu vào tư
tưởng của họ chỉ cái gì họ tin mới là chân lý.
Đức Phật nhấn mạnh một
người không nên chấp nhận cả đến giáo lý của chính họ chỉ trên nền tảng
bằng tín ngưỡng không thôi. Một người phải có kiến thức, mở rộng tầm
hiểu biết qua nghiên cứu, bàn cãi, thiền định, và cuối cùng : sự suy
gẫm. Kiến thức là một việc, hiểu biết là một việc khác nữa. Nếu có hiểu
biết, người ta có thể điều hoà cuộc sống theo các trường hợp biến chuyển
dựa theo sự hiểu biết mà người ta có.
Chúng ta có thể gặp nhiều
người học thức hiểu biết rất nhiều việc nhưng không thực tế bởi lẽ lòng
vị kỷ chỉ nghĩ đến mình, ích kỷ, sân hận và ganh tị của họ đã khiến họ
không có thái độ tinh thần vô tư và an lạc trong tư tưởng. Khi cần thoả
hiệp, chúng ta phải biết thoả hiệp như thế nào. Khi cần khoan dung,
chúng ta phải biết khoan dung như thế nào. Khi cần giữ vững lập trường,
chúng ta phải biết giữ vững lập trường trong phẩm hạnh.
NGHIỆPChúng
ta hãy lấy một thí dụ khác, chữ Karma hay Kamma (Nghiệp). Chữ này có
nghĩa đơn giản là hành động. Nếu một người có hành động xấu thì người
này không thể tránh được hậu quả xấu. Bằng cách này hay cách khác, ông
hay bà đó phải đương đầu với hậu quả xấu theo sau.
Đấng thiêng liêng
phạt kẻ có hành động xấu, thưởng kẻ có hành động tốt, đức Phật không
chấp nhận niềm tin như vậy. Ngài nói không một ai hay sức mạnh nào nắm
giữ việc điều động thi hành những tác dụng của nghiệp. Chính nghiệp tự
nó phát xuất ra kết quả như một tác động trung lập của luật nhân quả.
Ngài nói chúng ta có thể tránh, trong một số trường hợp chúng ta có thể
vượt khỏi tác dụng của nghiệp nếu chúng ta hành động khôn ngoan. Ngài
dạy chúng ta không bao giờ tự chúng ta đầu hàng nghĩ rằng là định mệnh
khi chúng ta đã làm một hành động xấu và không còn hy vọng gì nữa. Các
tôn giáo khác dạy là đấng thiêng liêng có thể vô hiệu hoá tác dụng của
nghiệp bằng tha thứ nếu tín đồ sùng bái, cầu nguyện và hy sinh. Nhưng
Đức Phật dạy rằng chúng ta phải tìm sự cứu rỗi của chúng ta bằng sức cố
gắng riêng của chúng ta và sự thanh tịnh tinh thần.
“Đức Phật có thể
bảo chúng ta phải làm gì nhưng Ngài không thể làm công việc đó thay
chúng ta”. Chúng ta phải tự mình làm công việc cứu rỗi cho chính chúng
ta. Đức Phật dạy rõ ràng không ai có thể làm thế việc cứu rỗi cho người
khác ngoại trừ chỉ dẫn con đường phải làm. Cho nên chúng ta không nên ỷ
lại vào đấng thiêng liêng, và cũng không ỷ lại vào cả Đức Phật nữa.
Chúng ta phải hiểu được những gì là phẩm hạnh, nhiệm vu,ï trách nhiệm
của một con người. Ngài nói nếu chúng ta phạm một nghiệp xấu, chúng ta
không nên phí năng lực quí báu của mình bằng việc trở nên hoảng sợ hay
thất vọng trong việc cố điều chỉnh lại cho đúng.
Việc trước tiên phải
làm là quyết định chấm dứt ngay việc tái diễn nghiệp xấu đó bởi hiểu rõ
nguy hại do nó gây ra. Thứ hai là phải đào luyện nhiều thêm nữa các
nghiệp tốt. Thứ ba là chúng ta phải giảm thiểu tư tưởng tội lỗi, ích kỷ,
oán ghét, nóng giận, ghen tỵ, thù hận và ác ý. Làm theo con đường này,
chúng ta có thể giảm thiểu hậu quả của nghiệp xấu mà ta đã phạm. Đó là
phương pháp của Đức Phật để vượt qua các nghiệp xấu.
Ngài không dạy
là phải cầu nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi
của chúng ta. Thanh tịnh hay ô nhiễm trong tư tưởng của chúng ta tùy
thuộc nơi chúng ta. Không một đấng thiêng liêng nào, Phật hay một chúng
sanh nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh tư tưởng của chúng ta. Tôi
không thể tạo sự bất tịnh cho quí vị, tôi không thể thanh tịnh hoá được
tư tưởng quí vị. Nhưng theo lời tôi và hành động của tôi, quí vị có thể
tạo thanh tịnh hay bất tịnh chính nơi quí vị. Người ngoài không thể làm
gì cho tư tưởng quí vị nếu quí vị có một tư tưởng mạnh mẽ để đối kháng.
Cho nên tại sao kiến thức và sự hiểu biết lại quan trọng.
Đức Phật
dạy cái cần thiết cho hạnh phúc con người không phải là tôn giáo hay một
mớ lý thuyết mà là sự thấu hiểu trật tự , bản tính của vạn vật và tác
động đầy đủ của nó theo luật nhân quả. Cho đến khi việc đó được thấu
triệt hoàn toàn, sự hiểu biết của con người về cuộc sống và vạn vật vẫn
không trọn vẹn và sai lầm. “Con đường mà Đức Phật chỉ cho chúng ta, theo
tôi tin, là con đường duy nhất nhân loại phải đi theo để tránh khỏi
thảm hoa.”. Jawaharial Nehru (7)
NIẾT BÀNĐức
Phật không bao giờ tuyên bố là đã tạo ra Pháp. Cái mà Ngài khám phá ra
là chân lý phổ quát của bản chất xác thực của sự hiện hữu. Thật ra một
số từ ngữ tôn giáo đã được biết tại Ấn độ thời đó. Nhưng điều vô song
của Ngài là dùng những quan niệm sẵn có, bổ khuyết nghĩa lý sáng suốt
hơn và sâu xa hơn.
Thí dụ, trước thời Đức Phật, Niết Bàn ( Nirvana
hay Nibbana) đơn thuần chỉ có nghĩa là an lạc hay dập tắt. Nhưng Ngài
định nghĩa rộng ra. Niết (Ni) có nghĩa “Không” và “Bàn” (Vana) có nghĩa
dục vọng : Không còn dục vọng, không còn luyến ái, và không còn vị kỷ.
Chúng ta không thể chứng nghiệm được Niết Bàn vì chúng ta còn dục vọng,
luyến ái và vị kỷ. Khi chúng ta đã quét sạch được những tính xấu nhơ bẩn
này, chúng ta sẽ chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn. Thật khó khăn để
chúng ta chứng nghiệm được chân hạnh phúc vì chúng ta có những cảm xúc,
và chúng ta còn ham muốn dục lạc. Nếu chúng ta sống vướng mắc mãi dục
lạc trên thế gian này, chúng ta không bao giờ có thể chứng nghiệm được
chân hạnh phúc. Lẽ dĩ nhiên thật ra chúng ta cũng chứng nghiệm được một
vài loại hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng không phải đúng “hạnh phúc”
theo nghĩa tuyệt đối vì lẽ hạnh phúc này không vĩnh cửu.
Chúng ta
không thể đạt được hạnh phúc khi còn chứa chấp giận hờn, oán ghét, vị kỷ
hay ảo tưởng sai lầm. Đôi khi ở một mức độ nào đó chúng ta chứng nghiệm
được một sự thoải mái về tinh thần nhưng bản chất của hạnh phúc đó chỉ
như ánh chớp : Nó vừa hiện ra lại biến mất ngay. Hạnh phúc chân thật
không phải như vậy. Nếu có chân hạnh phúc, chúng ta sẽ chứng nghiệm cảm
giác vĩnh cửu của sự thanh thản, thoả mãn và an tâm. Cho nên mục đích
chính của đời sống chúng ta là phải thanh tịnh hóa những tư tưởng mờ ám,
sai lầm, lạc hướng của chúng ta và tự chúng ta giải thoát khỏi các lo
âu, băn khoăn, bối rối. Chúng ta còn bỏ nhiều thời gian để giải quyết
những khó khăn, lúc nào cũng canh chừng, lúc nào cũng lo lắng phải làm
cái gì tiếp đây thì chúng ta không bao giờ được an lạc.
MỞ MANG TRÍ ÓCLời
khuyên của Đức Phật là chúng ta nên thoát khỏi những cuồng loạn đó nếu
chúng ta muốn chứng nghiệm hạnh phúc. Tuy nhiên sự giải thoát đạt được
là do chính sự cố gắng của chúng ta, đến từ nơi chúng ta. Chúng ta không
thể đạt được một sự cứu rỗi từ một Đấng Thiêng Liêng, Đức Phật hay
Trời. Chúng ta không thể đạt được sự tự do tối hậu từ những yếu tố bên
ngoài. Những đấng siêu nhiên không thể giúp gì cho chúng ta để đạt được
trí tuệ và sự giải thoát cuối cùng dù chúng ta sùng bái các đấng này đến
đâu đi nữa hay tán dương các đấng này qua những hình thức như khổ hạnh,
tán tụng, bùa, chú, cầu đảo hay đem hy sinh các súc vật để cúng.
“Chúng
ta gặt được kết quả nơi cái gì chúng ta đã làm và chúng ta sẽ có kết
quả nơi cái gì chúng ta đang làm”. Hành động điều kiện hoá hạnh phúc hay
không hạnh phúc cho chúng ta, và cuối cùng bảo đảm sự cứu rỗi cho chúng
ta. Cứu rỗi hay giải thoát là việc của cá nhân, giống như con người
phải ăn, uống, tiêu hoá và ngủ nghỉ cho chính mình. Tất cả những hành
động của nghiệp được giữ lại một phần trong việc hình thành tâm trí của
chúng ta và lưu giữ ngầm tại đấy. Chúng ta quên đi những hành động quá
khứ vì lẽ những hoạt động tinh thần khác che mờ tâm trí nên chúng ta
không thể nhớ lại hành động quá khứ. Khi chúng ta mở mang tâm trí qua
thiền định, chúng ta ngưng những đắm đuối của năm giác quan. Khi tâm trí
trong sáng sẽ giảm đi lo âu, tham dục, nóng giận, ghen ghét và ảo tưởng
sai lầm. Tâm trí trong sáng trở nên sung mãn và bén nhạy. Đó chính là
khi chúng ta có thể tác động được hoạt động tâm thần và phát ra sức mạnh
tiềm ẩn to lớn. Đó là sức mạnh tâm linh. Sức mạnh này hiện hữu trong
tất cả chúng ta; chúng ta chỉ cần phải học cách phát ra sức mạnh này qua
thiền định. Một cách khác có thể tiến cận những hoạt động tinh thần
tàng trữ (trong đầu) là thôi miên. Qua thôi miên một số người có thể
phát triển một mức độ sức mạnh tâm linh nhưng môn này không được tiến
dẫn vì lẽ thôi miên dựa trên một tác nhân khác và không tác dụng đến
việc thanh tịnh hoá tâm trí.
Đức Phật khuyên các tín đồ trau dồi và
mở mang sức mạnh tiềm ẩn trong con người và chỉ cho tín đồ làm sao sử
dụng hữu hiệu nhất sức mạnh của ý chí và trí thông minh mà không cần làm
tôi mọi cho một cá nhân nào để mưu cầu hạnh phúc trường cửu.
Không
oán trách ai cả, Phật giáo dạy con người chịu trách nhiệm hành động của
chính mình. Con người phải đương đầu với thực tại cuộc đời, gánh trách
nhiệm và chu toàn nhiệm vụ, bổn phận với bản thân mình cũng như đối với
người khác. Đau khổ hay sung sướng do chính mình tạo nên và chính mình
có khả năng quét sạch mọi phiền não đau khổ, giữ an lạc, hạnh phúc bởi
hiểu rõ những yếu điểm của chính mình và tự gắng sức để vượt qua những
trở ngại đó. Tâm trí của con người không được rèn luyện chịu trách nhiệm
về tất cả các rắc rối, tai biến , nhiều loạn, bất hạnh và cả đến những
thay đổi của môi trường và vật chất. Trái lại tâm trí con người được rèn
luyện có thể thay đổi tình trạng bất hạnh trên thế giới và có thể đem
lại hoà bình thịnh vượng và hạnh phúc khắp nơi cho mọi người. Việc đó
chỉ có thể làm được qua việc thanh tịnh hoá sức mạnh tinh thần.
PHƯƠNG PHÁP CỦA ĐỨC PHẬTKỹ
thuật giáo lý của Đức Phật khác hẳn các người khác. Ngài không bao giờ
sửa soạn “các bài giảng để nói trước công chúng” hay những “bài diễn
thuyết”. Ngài luôn luôn quyết định đề tài căn cứ vào sự việc xảy ra bất
ngờ hay từ nhận xét. Một trong những điểm kỳ tài của Đức Phật và tài
năng của bậc Mô Phạm này là việc thực hành phương pháp giáo huấn điêu
luyện áp dụng từ “cái biết đến cái không biết”. Thí dụ trong một dịp,
Ngài cùng các đệ tử đang đi bộ trên bờ một con sông, Ngài nhìn thấy có
một khúc gỗ đang bồng bềnh trôi giữa dòng nước, Ngài dừng lại và hỏi :”
Các ông nghĩ gì về khúc gỗ này ? Khúc gỗ sẽ ra sao ? Một đệ tử trả lời
:”Khúc gỗ sẽ dạt vào hòn đảo giữa sông “. Những đệ tử khác nói :”Nước sẽ
vào khúc gỗ và khúc gỗ sẽ bị chìm ” ,“ Khúc gỗ sẽ được người ta lấy ,
cắt ra để làm củi sưởi “ , “Khúc gỗ sẽ trôi ra biển “. Bây giờ ai là
người nói đúng ? Ai là người có thể tiên đoán trúng số phận khúc gỗ ?
Rồi Đức Phật giảng cuộc sống chúng ta giống khúc gỗ trôi trên dòng nước
hoàn toàn bất trắc. Không ai có thể biết được cái gì sẻ xảy đến với
chúng tangày mai hay tháng sau. Phương pháp của Đức Phật là lấy những
bài học từ đời sống thường nhật cho nên giáo lý của Ngài luôn rút từ mầm
mống nơi này nơi kia và hoàn toàn thích hợp cho kinh nghiệm của con
người.
Theo đường lối như trên, Ngài thừa nhận con người hoàn toàn tự
do suy nghĩ, sử dụng giác quan thông thường để nhận định. Ngài không
trình bày một tôn giáo thực hành vì áp bức, do sợ hãi và ham muốn dục
lạc.
Theo Đức Phật, một ý nghĩ, một lời nói cao đẹp mà không có hành
động tương xứng theo sau, thì chẳng khác nào như bông hoa đẹp không
hương, không kết trái.
Bát chánh đạo trình bày bởi Đức Phật là lớp
đào luyện văn hoá và tiến bộ nội tâm. Chỉ tin cậy vào những sùng bái bên
ngoài, nghi lễ và cầu nguyện, con người không thể tiến bộ trong việc
phát triển nội tâm thích đáng. Chỉ trông vào cầu nguyện để được cứu rỗi,
theo Đức Phật, cũng giống như :” đòi hỏi bờ sông bên kia chuyển qua bên
này để khỏi phải mất công mệt sức” .
TỰ KHÁM PHÁNhiều
tôn giáo cho rằng những thông điệp được khám phá cho nhân loại do một
đấng thiêng liêng. Tuy nhiên, một số nhà duy lý luận hỏi nếu chỉ có một
đấng thiêng liêng và đấng này đã ban thông điệp lợi lạc cho tất cả nhân
loại, tại làm sao có quá nhiều niềm tin trên thế giới ? Nếu thông điệp
có ý nghĩa cho toàn thể con người thì điều khó khăn gì cho đấng thiêng
liêng này công khai loan báo cho toàn thể để không còn chỗ nghi ngờ và
giải thích sai lầm? Mọi người phải chấp nhận thông điệp ấy và sẽ không
có sự xích mích giữa các tôn giáo và toàn thể thế giới chỉ cần theo
thông điệp của một đấng thiêng liêng là đủ.
Nhiều năm trước, có một
cuộc hội thảo về tôn giáo tại Đại học đường Mã Lai Á. Có tất cả năm
thuyết trình viên, mỗi tôn giáo một thuyết trình viên. Sau khi trình
bày, một sinh viên hỏi :”Khi chúng tôi nghiên cứu tôn giáo của chúng
tôi, chúng tôi thu lượm được một số thông tin về thế gian, vũ trụ và
cuộc đời. Khi chúng tôi nghiên cứu về khoa học, thông tin thu lượm được
hoàn toàn khác hẳn. Thông tin khoa học ngược lại với quan điểm đạo giáo
của chúng tôi. Cho nên chúng tôi không biết nên chấp nhận tin việc học
hỏi nơi tôn giáo chúng tôi hay nơi khoa học”.
Một thuyết trình viên
đáp :”Tôi tin là Thượng đế ban giáo pháp của Ngài dưới hình thức một
thông điệp cho một người, người này truyền bá đến những người khác, cho
nên chúng ta phải tin lời Thượng đế”.
Nhưng người sinh viên khăng
khăng :”Làm sao ông biết được người nhận thông điệp thông suốt được
thông điệp đó một cách chính xác ? Có thể thông điệp đã sai lạc và được
giải thích lầm lẫn theo tư tưởng của họ và cứ thế truyền lại cho hậu thế
“.
Đức Phật, trái lại, không bao giờ cho rằng bất cứ việc gì đều do
nhận được từ nguồn tin bên ngoài. Trong suốt quá trình hoằng pháp của
Ngài, Ngài luôn luôn khẳng định các người dự thính cứ tự do hỏi Ngài,
chất vấn Ngài về giáo lý của Ngài để họ có thể tự mình hiểu được chân
lý. Ngài nói “Hãy đến xem và nhận xét” (Ehipassiko). Ngài không nói “Hãy
đến để tin theo”.
Bất cứ lúc nào Ngài nói đến việc gì, việc đó đã
được đích thân Ngài trắc nghiệm giá trị của nó qua bản thân Ngài như một
con người bình thường. Ngài tuyên bố không có thần linh. Ngài thấu rõ
mọi sự vì lẽ Ngài biết vì sao Ngài phải chứng nghiệm khổ đau trong nhiều
tiền kiếp do những hành động xấu Ngài phạm vì ngu si. Ngài đã khó khăn
mới học được. Ngài đã khuyên răn các tín đồ của Ngài qua kinh nghiệm bản
thân của Ngài. Ngài đã hoàn tất một việc phi thường cho nhân loại bằng
thực hành và nhận xét những sự toàn hảo vĩ đại (perfections) qua nhiều
cuộc sống và cuối cùng chứng nghiệm được hạnh phúc tối thượng. Chúng ta
phải tự hỏi cái nào đáng tin cậy, lời xác nhận do kinh nghiệm bản thân
của một người có thật hay tin cậy vào một người mà họ cho rằng đã nghe
thấy từ một người nào đó và người này lúc nào cũng vô hình.
TỰ DO TƯ TƯỞNGLời
khuyên của Đức Phật là không nên tin vào lý thuyết, thờ cúng và các
trưởng giáo. Thực sự, bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải làm chủ chúng ta
qua lòng tự tin. Chúng ta đừng bao giờ chịu khuất phục phẩm giá hay sở
thích của chúng ta. Đức Phật cực lực ủng hộ giáo pháp về lòng tự tin,
thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và tình thương đại đồng. Ngài
nhấn mạnh sự cần thiết của hiểu biết vì lẽ không hiểu biết, phần tâm
linh bên trong đưa đến trí tuệ không thể đạt được. Ngài nói :”Nếu quí vị
muốn chấm dứt khổ đau, sợ hãi, hãy triển khai kỷ luật, từ bi và trí tuệ
“. Lúc nào chúng ta cũng phải để cho đầu óc chúng ta tự do suy nghĩ và
hiểu rõ không cần ỷ lại vào ảnh hưởng bên ngoài. Kẻ nào trông cậy vào
người khác thì chẳng khác trẻ nít. Chúng ta hãy theo gương Đức Phật, Đức
Phật nói khi Ngài thiền định để đạt giác ngộ thì không đấng thiêng
liêng nào đến thầm thì bên tai Ngài để khám phá những bí mật giấu kín
của sức mạnh tinh thần. Không một ai cho ngài một điều răn hay giới luật
nào. Ngài nói :”Ta không bao giờ có một vị Thầy nào hay một thần linh
nào dạy ta hay bảo ta làm cách nào để đạt được giác ngộ. Cái mà ta thành
công là do sự cố gắng, năng lực, kiến thức, thanh tịnh của chính ta để
đạt được trí tuệ tối thượng”.
Đó là lý do tại sao Ngài nói trí tuệ
“trỗi lên” nơi Ngài khi Ngài giác ngộ. Trí tuệ tiềm ẩn trong tất cả
chúng ta. Chúng ta chỉ cần tạo điều kiện đúng, trí tuệ sẽ phát sinh.
Tự
do tư tưởng, tự do tìm hiểu phát xuất từ nội dung tinh thần và triết lý
của Phật Giáo. Không có một tổ chức tôn giáo nào trên thế giới lại
tương tự, song hành như vậy. Không bắt buộc, không cưỡng bách để tin
theo hay chấp nhận giáo pháp.
Đường hướng của Phật Giáo la` thấy và
hiểu. Nó là thái độ khoa học của tâm trí. Giáo pháp vể triết lý căn bản
dạy trong Phật Giáo càng ngày càng minh chứng vững vàng bởi những khám
phá mới của khoa học.
Phật Giáo ủng hộ lòng tự tin, tự kiềm chế, tự tín nhiệm, tự thanh tịnh cho con người trong xã hội.
Một
đặc tính đặc biệt của Phật Giáo là tôn giáo này liên kết chặt với các
lý tưởng dân chủ. Các cuộc bàn cãi công khai phải được khuyến khích, cả
đến những quan điểm trái ngược cũng được phát biểu đưa đến tâm trí được
mở rộng và sung mãn. Những giới của các sư nam và sư nữ được cấu tạo
hoàn toàn theo các nguyên tắc dân chủ.
Việc này làm theo Pháp khám
phá ra bởi Đức Phật tối thượng, một đấng cởi mở và uy hùng can đảm khích
lệ các đệ tử không chấp nhận cả đến những gì Ngài tuyên bố mà không
khảo sát và xác tín. Thực ra, Đức Phật đã tuyên bố Pháp là thầy của Ngài
và tất cả những gìNgài làm là để tìm ra chân lý của Pháp bao quát đã bị
chìm dắm nơi con người vì ngu si. Chúng ta phải để cho tâm trí chúng ta
được tự do suy nghĩ không thành kiến và không lệ thuộc.
Trước khi
Ngài qua đời, Ngài dặn dò những lới cuối cùng “Hãy tìm nơi nương tựa
ngay nơi các con”. Tại sao sau 45 năm hoằng pháp, Ngài lại thốt ra những
lời như vậy ? Tại sao Ngài không khuyên mọi người tìm sự cứu rỗi nơi
Ngài. Cái Ngài muốn nói là chúng ta không nên tìm sự cứu rỗi ỷ lại vào
người khác. Chúng ta phát triển lòng tự tin ngay nơi chúng ta. Lời
khuyên răn thật tuyệt diệu và cao thượng biết bao ! Có lẽ bây giờ quí vị
có thể hỏi :”Tại sao chúng tôi nói “Buddham saranam gaccami “ ? “(Tôi
đến với Đức Phật để nương tựa )
Khi chúng tôi nói như trên không có
nghĩa là chúng tôi ỷ lại vào Đức Phật. Chúng tôi muốn nói là nếu chúng
tôi theo những phương pháp dạy bởi Đức Phật, chúng tôi sẽ mở mang lòng
tự tin để đạt được sự cứu rỗi. Chắc chắn chúng tôi không nghĩ một ngày
nào Đức Phật sẽ đến và mang chúng tôi đến “Thiên Đường” trong một chuyến
bay vinh quang.
Một số người nói rằng Đức Phật chỉ là một người bình
thường không phải là một Thượng đế, tại sao dân chúng lại theo Ngài ?
Những người này không hiểu rằng người Phật tử không trông chờ sự cứu rỗi
từ nơi Đức Phật mà là thực hành phương pháp cao thượng do Ngài dạy.
Phương pháp của Đức Phật ngay từ lúc khởi đầu là chúng ta phải làm thế
nào để phát triển lòng tự tin qua việc rèn luyện tâm trí của chúng ta.
Tự mình cố gắng, tự mình thực hiện, đó là con đường duy nhất tiến đến sự
cứu rỗi.
Bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế một
người có phẩm cách chứ không phải trong tư thế một người nô lệ. Với hy
vọng và tự tin, một người có thể quyết định vận mạng của chính mình. Đức
Phật hoan nghênh quí vị nếu quí vị giữ lập trường như một con người có
phẩm cách. Nhưng quí vị phải sẵn sàng tỏ ra phải chăng và chịu nghe các
lý luận có ý thức trái ngược với niềm tin của quí vị nhưng lý luận này
đáng được chú ý đến. Đó là thái độ của một người hiểu biết. Khi Ngài gần
tịch diệt, rất nhiều bậc quyền quí, thái tử, tộc trưởng, và cả đến
những thánh chúng với các vòng hoa đến gặp Ngài để tỏ bày lòng tôn kính
của họ với Ngài, nhưng Đức Phật sai Anan, thị giả của Ngài, nói với họ
rằng nếu họ muốn tỏ lòng tôn kính Ngài, họ chỉ việc theo đúng giáo lý
của Ngài, vị thầy của họ. Trên đây cho thấy Ngài không muốn cá nhân Ngài
được vinh danh hay đòi hỏi một sự phục tùng tuyệt đối cho uy quyền của
Ngài.
Phần II
|
VÔ TƯ Sau khi biết chân lý, những người hiểu
biết cố gắng trau dồi tư tưởng của họ để phòng và bảo vệ chính họ. Họ
không chấp nhận hoặc bác bỏ cái gì mà có người nói. Khrisnamurti nói
những ai lúc nào cũng ỷ lại vào ý kiến người khác là những con người
thuộc hạng hai. Không chấp nhận hay tin tưởng bất cứ cái gì được dạy
trong phần thực hành tôn giáo và đồng thời không bác bỏ hoàn toàn. Có
những điều chúng ta chấp nhận là đúng nhưng sau đó chúng ta khám phá ra
những điều ấy lại sai. Ngược lại, có khi chúng ta bắt buộc chấp nhận một
số điều ta cho là sai lúc đầu thì cuối cùng là đúng. Cho nên Đức Phật
khuyên chúng ta hãy chờ đợi một thời gian để nghiên cứu, suy gẫm , quan
sát, điều tra trước khi chúng ta quyết định điều mà chúng ta nghe phải
hay không phải, nên hay không nên, chấp nhận hay bác bỏ. Chỉ dựa vào
tình cảm hay niềm tin mù quáng hay niềm lo âu, chúng ta có thể chấp nhận
một số điều ngay cả khi chúng ta còn hoài nghi. Kết quả của biếng nhác,
tâm trí bối rối, chúng ta có thể bác bỏ hay không tin những điều chúng
ta nghe thấy. Nhưng chúng ta phải để cho tâm trí chúng ta có dịp may để
suy tư, và hiểu được phải hay không phải , đúng hay sai.
NIỀM TIN Niềm
tin không thôi thì không nghĩa lý gì vì lẽ niềm tin phải được rèn luyện
với sự hiểu biết phát xuất từ một tâm trí được rèn luyện. Mục đích
chính của tôn giáo là làm sao chỉ cho tín đồ cách sử dụng kiến thức với
sự hiểu biết phê phán để đạt được tối đa tình cảm hạnh phúc và nhiệm vụ
của chính mình. Dù kiến thức có nhiều thế nào đi nữa, nếu chúng ta không
nhổ được gốc rễ những hoen ố và nghi ngờ trong đầu óc chúng ta, chúng
ta vẫn còn trong tình trạng không hạnh phúc. Khi chúng ta đạt được thanh
tịnh ở mức cao nhất (A-La-Hán), chúng ta hoàn toàn bật được gốc rễ tham
dục, sân hận, ảo tưởng sai lầm của chúng ta và chúng ta thiết lập được
một trạng thái bình thản trong tâm hồn chúng ta. Rồi khi những “thanh
tịnh” đến thì không một tư tưởng xấu xa nào có thể phát sinh được. Chúng
ta không thể thốt ra những lời gay gắt hay phạm những hành động tội
lỗi. Một người đã thanh tịnh được tâm trí cao hơn cả trăm lần những
người có thế lực hay những người chỉ có niềm tin và kiến thức đắm chìm
trong những nhơ bẩn của tâm trí. Chúng ta cho rằng chúng ta “văn
minh”,nhưng làm sao chúng ta có thể nhận mình văn minh khi đầu óc chúng
ta còn hiện rõ những nét nhơ bẩn cùng mức độ như những tổ tiên “cổ xưa”
của chúng ta đã có từ hằng ngàn năm qua ? Trên thế giới, dân chúng
chen chúc tại các chùa, nhà thờmgiáo đường và các nơi sùng bái để cầu
nguyện, hy sinh các sinh vật, thực thi khổ hạnh. Nhưng khi họ vừa ra
khỏi các nơi trên, họ vẫn sân si, tham dục, ganh tị, thù hận, ác cảm như
trước. Người dân cho rằng là người có đạo lý khi họ cầu nguyện, lễ bái
và thực thi các nghi lễ tôn giáo, nhưng “tâm trí” họ vẫn ích kỷ và bất
chánh. Nếu quả họ là những người có đạo lý, họ sẽ không còn kỳ thị lẫn
nhau, làm cho nhau đau khổ hay chế diễu lẫn nhau trong việc hành đạo.
Đức Phật cố gắng khai thị tâm trí của chúng ta để chúng ta hiểu tường
tận mọi điều mà không phát triển niềm tin cuồng tín và kỳ thị. DỊ GIÁO Một
lý do khác tại sao giáo lý của Đức Phật không rơi vào một loại tôn giáo
đã đượcthiết lập là vì không có chỗ cho “dị giáo” trong hệ thống giáo
lý của Ngài. Dị giáo là cái gì nó thách thức “lời của đấng thiêng
liêng”. Đức Phật đã chân thành mời cả đệ tử Ngài lẫn các người chống đối
Ngài đến thách thức giáo lý của Ngài từ mọi góc độ để không còn chỗ nào
nghi ngờ nữa. Đúng theo lệnh truyền của Ngài, các đệ tử của Ngài đã lý
luận về giáo lý của Ngài và ngay khi họ đã thiết lập các trường Phật Học
khác theo sự hiểu biết của họ mà khôngxảy ra bạo động hay đổ máu. Hiện
nay, trường Đại Học Phật Giáo nổi tiếng Nalanda (đã bị phá hủy bởi bàn
tay cuồng tín của tôn giáo khác), những tín đồ của các trường Phật Giáo
Nguyên Thủy và Đại thừa, sống cùng nhau, nghiên cứu và bàn bạc các quan
điểm dị biệt hoàn toàn trong hoà hài. Đức Phật dạy nếu một ai tin rằng
mình biết chân lý thì đừng nên sợ sệt sự thách đố vì lẽ chân lý bao giờ
cũng thắng. Hơn thế nữa Ngài còn tích cực khuyến khích bất cứ ai thách
đố giáo lý của Ngài. Những giải đáp của Ngài cho nhiều câu hỏi làm giàu
thêm giáo pháp trong cánh đồng rộng lớn của sự tu hành được ghi lại một
cách trung thực bởi các đệ tử của Ngài. Ngày nay chúng ta có thể trả lời
bất cứ câu hỏi nào về Phật Giáo, chỉ việc đơn giản tham khảo các lời
giải thích của Đức Phật. Suy nghĩ hợp lý và khích lệ việc phê phán là
tối quan trọng trong Phật Giáo. KHOA HỌC Sự thử
thách của một giáo lý tôn giáo nằm trong sự thích ứng của giáo lý với
các khám phá của khoa học và sự lôi cuốn đạt được trong tâm trí của con
người có trí thông minh cao độ. Một vài tôn giáo từng trải nghiệm sự bối
rối ở một chừng mực nào đó, vì khoa học tiết lộ các khám phá của các
tôn giáo này. Kết quả đưa đến vài sửa đổi hay việc thuyết minh lại thánh
kinh của họ trở nên cần thiết. Trên phương diện này, Đạo Phật, với giáo
pháp hợp lý của Đấng Đại Giác, không phải đương đầu với các bối rối như
trên vì nguyên lý căn bản rất phù hợp với những khám phá của khoa học.
Chúng ta hãy nghiên cứu một thí dụ. Dưới ánh sáng nghiên cứu mới nhất
về nguyên tử, khái niệm cổ của thế giới thay đổi giống như khái niệm về
nguyên tử cũng tự nó thay đổi. Không còn vật chất giống như đã từng
được tin tưởng trong quá khứ; khái niệm về vật chất được giảm thiểu đến
mức năng lượng, rồi đến khái niệm về năng lực cuối cùng cũng biến đi ,
đến mức độ vi tế hơn và chính các nhà khoa học cũng không biết gọi nó là
gì nữa. Những nhà khoa học bây giờ đi đến kết luận ngay đến nguyên tử
chỉ là một khái niệm, nói rộng ra thế giới cũng không là gì cả mà chỉ là
một quan niệm. Các nhà khoa học càng đi sâu vào việc nghiên cứu sự cấu
tạo của nguyên tử, họ càng chịu tin kết luận trên. Trong Phật Giáo,
lý thuyết trên đã được trần thuyết từ 16 thế kỷ qua, nếu không phải là
sớm hơn. Vào thếkỷ thứ Tư sau Công Nguyên, nhà triết học Phật Giáo
Asanga (Vô Trước )triển khai một lý thuyết gọi là Vijnapti_matra hay
Citta-matra (Duy thức) căn cứ theo tài liệu nguyên thuỷ cho là thế giới
chỉ là một khái niệm, chỉ là một tư tưởng, chỉ là một ý kiến. Ngài
Asanga ( Vô Trước ) đã định nghĩa nguyên tử, và định nghĩa của Ngài từ
16 thế kỷ qua vẫn còn giá trị đến ngày nay. Nguyên tử (Paramanu) dược
hiểu như không có thực thể (Nissarira). Sự xác quyết thể tánh của nguyên
tử được hoàn thành bởi các nhà trí thức qua việc phân tách khối vật
chất đến mức độ tối hậu. Dĩ nhiên Ngài Asanga không chú tâm đến vật lý,
nhưng Ngài nói về phương diện siêu hình học và triết học. Việc quan tâm
của Ngài là bày tỏ thế giới mà người bình thường cho là thực thể, thật
ra không có gì cả, ngoại trừ một khái niệm. Theo Albert Einstein (8) khi
vũ trụ được đem phân tách không còn gì tồn tại dưới dạng vật chất cả,
chỉ còn lại âm ba rung chuyển hay các làn sóng. Ngày nay, lý thuyết
của Phật Pháp vẫn đứng vững, không bị ảnh hưởng của tiến trình thời gian
và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu được bày
tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng trưởng đến thế nào trên chân trời trí
óc của con người, trong Giáo Pháp vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hoá
các khám phá xa hơn nữa. Lý do vì Phật Giáo không căn cứ vào sự dẫn dụ
của trên quan niệm hẹp hòi của các tri giác sơ khai hay vì sức mạnh của
nó trên tư tưởng tiêu cực. PHÉP LẠ Khoa học ngày
nay không bác bỏ sự có thể có được các phép lạ, như đã từng thấy, nhưhg
chỉ là bước đầu chấp nhận những cái được biết là phép lạ và những hiện
tượng phi thường chưa được biết. Đức Phật tự Ngài đã bày tỏ quan điểm :
Với Ngài các phép lạ không được coi là chứng minh được chân lý mà chỉ
trình bày thành thạo được một số ít thần thông phát triển nơi một số
người. Những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các
bậc thánh. Như vậy, Đức Phật không những dạy đệ tử Ngài đề cao cảnh
giác việc thi triển bất cứ loại thần thông phép lạ nào mà họ đạt được mà
còn báo cho quần chúng không nên lưu tâm quá mức tới những việc thi
triển thần thông. Cho nên, xét những tôn giáo khác lợi dụng phép lạ đến
hết mức để thu phục quần chúng, Phật Giáo coi những việc đó không đáng
kể và không thích đáng với nhiệm vụ chính là mở mang tinh thần và giải
thoát. Theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao nhất phải là : làm sao biến
một người ngu si thành một người khôn ngoan. Liên quan đến việc
trên, Swami Vivekananda nói :”Ý tưởng về siêu nhiên lên đến một mức độ
nào đó, đem thần thông sức mạnh cho con người, nhưng nó cũng đem lại ỷ
lại, sợ hãi và dị đoan. Nó suy thoái thành một niềm tin khủng khiếp
trong cái yếu đuối tự nhiên của con người “. Quan điểm khoa học và
nội dung của Phật Giáo đã khiến Albert Einstein (8) tuyên bố :”Nếu có
tôn giáo nào có thể đương đầu với nhu cầu khoa học hiện đại, tôn giáo đó
phải là Phật Giáo.” ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI Một phương
diện quan trọng khác của Phật Giáo như một tôn giáo của thế giới là
quan điểm về những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Một số người
không am tường thường cho rằng Phật Giáo muốn đào thoát hay rút lui khỏi
cuộc sống thực tại, ẩn náu trong một ngôi chùa, trong một hang động hay
trong rừng và sống một cuộc đời biệt lập khỏi xã hội. Đó chỉ là sự
thiếu hiểu biết mà thôi, chính ngay Đức Phật, Ngài là một người làm việc
tích cực nhất chưa từng thấy trên thế giới. Mỗi đêm Ngài chỉ ngủ có hai
tiếng rưỡi, và Ngài làm việc suốt thời gian còn lại. Ngài đi bộ ngang
dọc khắp Ấn Độ, nói chuyện và dạy bảo dân chúng. Không phải lúc nào Ngài
cũng chỉ nói đến Niết Bàn với tất cả mọi người Ngài gặp. Ngài nói về
đời sống của họ. Đức Phật nói, Ngài không kỳ vọng người mới vào đạo có
thể thi hành ngay được Chân Lý cao thượng nhất. Theo Ngài thì phải tuần
tự vi tiến. Cho nên giúp đỡ bằng nhiều cách, phù hợp trình độ và mức
tiến triển, là một phần của tôn giáo này. Một cuộc sống xã hội, kinh tế
và chính trị tích cực không thể tách xa cuộc sống đạo lý thực sự. Trong
tôn giáo của Đức Phật, ta thấy một hệ thống đạo đức toàn diện và một lý
thuyết siêu hình siêu việt bao gồm một tâm lý cao thượng. Nó thích hợp
với mọi tầng lớp. Với những người bình dị,nó cung cấp một qui tắc luân
lý, một sự thờ phượng đẹp đẽ, một niềm hy vọng cuộc sống tại thiên
đường. Với những người nhiệt tình sùng đạo, nó là một hệ thống tư tưởng
trong sạch, một triết lý cao thượng, và những lời giáo huấn về đạo đức
đưa đến giác ngộ, giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng giáo lý căn bản vẫn là
sự thanh tịnh hoá con người. Sự tiến bộ về tinh thần không thể có được
nơi người không có cuộc sống trong sạch và từ bi. Trong hình thức
thực hành phổ thông cho đại chúng vời những lễ nghi, diễu hành, và các
hội liên hoan hoà nhập các tập tục truyền thống, Phật Giáo tạo một động
cơ thúc đẩy rộng lớn, kinh nghiệm và thực tế cho nền giáo dục. Những
hoạt động trong gia đình, các cuộc lễ trong xóm làng, hoạt động văn hoá
và các dịp như sanh, tử, cưới xin, tưởng niệm là những lúc giáo lý được
sử dụng bán chính thức để dạy con người. Các em nhỏ học hỏi được nhiều
về tập quán, phong tục, giá trị và cả đến những nguyện vọng qua quan sát
hay tham dự vào những hoạt động giáo dục bán chính thức này. Thanh niên
và các người đứng tuổi cũng được hưởng lợi ích từ các hoạt động này. Ngoài
trình độ cá nhân và sự giải phóng con người, Phật Giáo công nhận gia
đình là một đơn vị của xã hội và quốc gia. Cho nên từ một người nội trợ
tầm thường mà mục đích tối thượng là đạt được vật chất đầy đủ nơi cuộc
đời hiện tại và về với cảnh trời sau này, Phật Giáo cung cấp một qui tắc
giáo lý đơn giản -nói trong kinh Sigalovada (Thi-Ca-La-Việt)- sự thực
hành làm vững mạnh sự đoàn kết trong cộng đồng. Qui tắc giáo lý này bảo
đảm sự liên hệ chính đáng giữa người trong gia đình, giữa chủ nhân và
người làm công. Trong một bài thuyết giảng, Đức Phật đề ra 10 điều
khuyên răn dạy ta phải kính trọng và chu toàn bổn phận trách nhiệm đối
với cha me., con cái, chồng vợ, những người liên hệ trong gia đình,
những bậc cao niên, những người đã chết, thánh thần và để sống hoà hợp
trong xã hội không phương hại đến quần chúng và tiến bộ với một cuộc
sống không tội lỗi. Giáo lý trên đem hạnh phúc cho mọi người trong xã
hội vì mục đích là đem lại sự thực hành chuyên cần, những hành động
thân hữu, đặc điểm của con người thật sự vị tha. Mặt khác người tiến
bộ hiểu được các chướng ngại của cuộc sống gia đình ( con đường hoen ố
của dục vọng ) có thể lựa chọn qui tắc giáo lý và đạo đức cao hơn đề cập
trong Giới Luật Vinaya ( Luật Tạng). Những phẩm hạnh này giúp cho người
đó sống đời thanh tịnh, thánh thiện, từ bỏ mọi xiềng xích của các dục
lạc trần tục. GIÁO LÝ Giáo lý của người Phật tử
căn cứ vào sự tự do và hiểu biết. Vì lẽ giáo lý phát xuất từ nhu cầu của
xã hội, để tự gìn giữ, nó cần thiết phải phù hợp với hoàn cảnh và thời
gian, cho nên giáo lý phải tương đối. Thật ra, không thể có giáo lý hay
đạo đức nào được chấp nhận nếu nó bắt nguồn từ sự ép buộc hay can thiệp
của bất cứ yếu tố bên ngoài nào vào cá nhân đó. Cá nhân phải được hoàn
toàn tự do khỏi tất cả ràng buộc để giáo lý được thực sự hữu hiệu. Tâm
từ (Metta) là căn bản của tất cả giáo lý và đạo đức trong Phật Giáo. Do
lòng từ bi, phát xuất các giới luật luân lý và đạo đức, các cơ quan xã
hội, pháp lý, an sinh. Bình đẳng, tình huynh đệ, khoan dung, thông cảm,
kính trọng đời sống, kính trọng quan điểm của người khác, kính trọng tôn
giáo khác, tất cả những thứ đó bắt nguồn từ tâm Từ. Dựa theo nguyên tắc
cao thượng vĩ đại, Phật Giáo luôn luôn là một tôn giáo hoà bình. Chiều
dài lịch sử của Phật Giáo không dấu vết của chiến tranh, ngược đãi hay
tranh chấp vì dị giáo. Về phương diện trên, Phật Giáo là duy nhất trong
lịch sử các tôn giáo. Gương cao thượng của Đức Phật trong vấn đề này
được Swami Vivekananda đề cập trong một thời thuyết giảng về karmayoga
(nghiệp trong Du Già ): “Toàn thể nhân loại đã xuất hiện một người như
thế, một triết lý như thế, một cảm tình sâu đậm như thế. Nhà triết học
vĩ đại thuyết giảng triết lý cao thâm nhất, thương cảm sâu xa đến cả
loài vật thấp hèn nhất, và không bao giờ đòi hỏi một chút gì cho mình
cả. Ngài là lý tưởng của Du Già Karma, hành động hoàn toàn không động cơ
nào thúc đẩy, và lịch sử nhân loại chứng minh Ngài là người chưa từng
có, không thể so sánh, một sự kết hợp vĩ đại của con tim và khối óc chưa
bao giờ từng có.” Về phương diện xã hội và luân lý, nhà Triết học
Đức, giáo sư Max Muller nói: “Giáo lý căn bản của người Phật tử tự nó là
một hệ thống hoàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến.” Về
điểm trên, tất cả các lời chứng nhận từ bốn phương chống đối cũng như
thiện cảm đều đồng ý; dù họ đã là các triết gia, các nhà thuyết giáo,
các nhà siêu hình học tinh tế, các nhà lý luận, vì nơi đâu chúng ta có
thể tìm được một hoá thân của tình thương, tình thương không phân biệt
giai cấp, tín điều, màu da, tình thương vượt qua biên giới của nhân loại
bao gồm tất cả chúng sinh, một tình thương biểu hiện chân lý của lòng
thương yêu thân ái bao la (Metta) và không tổn hại ? Albert
Schweitzer nói :”Trên quả địa cầu này, Đức Phật đem ý nghĩa chân lý giá
trị trường cửu và tiến bộ đạo đức không chỉ riêng cho Ấn độ mà cho tất
cả nhân loại. Đức Phật là một bậc đạo đức kỳ tài vĩ đại nhất chưa từng
thấy có trên hoàn vũ.” Xa hơn nữa, giáo sư Rhys Davids (9) nhận định
:”việc nghiên cứu Phật Giáo phải được coi là phần cần thiết của bất cứ
một lớp nào về đạo đức và không nên chỉ bàn đến qua loa trong một hay
hai trang mà phải có được sự thừa nhận thích đáng chiều sâu lịch sử của
sự tiến hoá đạo đức.” PHÁT TRIỂN KINH TẾ Trong
phạm vi cơ cấu tổ chức của người Phật tử, khả năng phát triển kinh tế
trên căn bản tích cực và hiệu quả nhận được sự chú ý đặc biệt của các
quốc gia giàu có cũng như các quốc gia đang phát triển. Lý thuyết phát
triển kinh tế hiện đại đã thất bại trong việc kìm hãm mức gia tăng các
vấn đề môi sinh và xã hội trong hầu hết các xã hội phát triển thì Phật
Giáo có lối thoát khỏi bế tắc này. Kinh Cakkavatti Sihananda (Ca Diếp
Sư Tử Hống) trong Digha Nikaya (Trường bộ kinh) nêu rõ rằng nghèo khổ
là nguyên nhân của tội ác và vô luân. Đức Phật và các đệ tử Ngài dạy dân
chúng giá trị của cải kiếm được và sự quan trọng của sự phát triển kinh
tế cho đời sống hạnh phúc của họ. Trong kinh Kutadanta (Cửu La Đàn Đầu)
trong tập Digha Nikaya Đức Phật cũng bày tỏ tội ác như cướp bóc không
thể ngăn được bằng hình phạt. Để có thể kiểm soát được hữu hiệu và ngăn
chận được những tội ác,phải tạo cơ hội cho họ có công ăn việc làm để họ
có được một đời sống thoải mái. -An ninh kinh tế (atthi Sukha) -Vui trong sung túc (bhoga-sukha) -Không mắc nợ (anana-sukha) -Sống cuộc đời không tội lỗi (anavajja-sukha) Trên
đây là bốn hạnh phúc cho người cư sĩ. Khả năng trong nghề nghiệp
(uthana sampada ), gìn giữ được của cải, thân hữu với bạn tốt (kalyana
mittata), chi tiêu trong khuôn khổ lợi tức (samajivikata) là bốn điều
đem lại hạnh phúc cho dân chúng trên thế giới. Nhiều ý tưởng mẫu mực
cho một xã hội tiến bộ, cũng như nhiệm vụ, bổn phận cho gia đình lẫn xã
hội, vì lợi ích qua lại của cả hai, được ghi trong các bài giảng trong
kinh Sigalavoda (Thi Ca La Việt), Parabhava (Tác Hữu) và Vasala (Tỳ Xá
Li). Bằng chứng hiển nhiên, từ lời nhận định trong kinh Dhammapada
(Pháp Cú) cho thấy Đức Phật chú ý thẳng đến những vấn đề khó khăn của
chính phủ với lòng từ bi và một quan điểm khuyến khích một hình thức
pháp lý không làm tổn thương đau khổ cho người dân. Pháp lý phải ngăn
ngừa đau khổ dưới ách chuyên chế , sưu cao thuế nặng đặt ra bởi các nhà
cầm quyền bất chính. Phật Giáo dạy một nước phải cai trị theo đúng 10 nhiệm vụ của một vị vua theo đúng chánh pháp (dasan raja dharma) : -Tự do tư tưởng (dana) -Luân lý (sila) -Cho tất cả những gì lợi ích cho dân (pariccaga) -Trung thực và liêm chính (ajjava) -Ân cần và hoà nhã (maddava) -Mộc mạc chân phương trong thói quen (tapa) -Xa lánh oán ghét, ác ý, căm thù (akkadha) -Bất bạo động (avihimsa) -Kiên nhẫn, chịu đựng, khoan dung, thông cảm (khanti) -Không chống đối, không che dấu, nghĩa là không bao che, cản trở bất cứ biện pháp gì mang lại hạnh phúc cho dân (avirodha) Theo
đường lối nầy, Đức Phật và các đệ tử dạy dân chúng các ý niệm quan
trọng liên quan đến sức khoẻ, vệ sinh, kiếm tiền cho đời sống, giao tế
hỗ tương, hạnh phúc xã hội và một chính quyền công bằng- tất cả vì lợi
ích cho người dân. Bà H.P Blavatsky, chủ tịch hội Thần học vào cuối
thế kỷ 18 đã tuyên bố như sau :”Đức Phật là người đầu tiên biểu hiện đạo
đức cao thượng ấy trong giáo lý của Ngài cho đại chúng và đã làm cho
quần chúng trở thành nền tảng cốt yếu nhất của giáo pháp đại chúng của
Ngài. Điều này cho thấy sự cách biệt lớn lao giữa Phật Giáo đại chúng và
bất cứ tôn giáo nào khác. Trong khi các tôn giáo khác, nghi thức và
giáo điều nắm giữ trước nhất và nằm chỗ quan trọng nhất nhưng trong Phật
Giáo đạo đức bao giờ cũng là điều được nhấn mạnh nhất”. CHÍNH PHỦ Ngay
cả đến hệ thống nghị viện ngày nay cũng mang sắc thái giống hệt như đã
thường áp dụng trong Phật Giáo. Hầu tước của Zetland, nguyên phó vương
Ấn độ phát giác :”Quả thật theo tài liệu Phật Giáo, chúng ta phải thừa
nhận cách thức điển hình về các cơ cấu đại diện tự quản trị lúc sơ khai
được chỉ đạo. Có thể là một điều ngạc nhiên cho nhiều người khi họ biết
rằng trong các cuộc Hội nghị của Phật Giáo từ trên 2500 năm qua, người
ta đã thấy những hoạt động giống như ngày nay của chúng ta thực thi tại
nghị trường. Thẩm quyền trong hội nghị được bảo vệ bằng cách bổ nhiệm
một giới chức đặc biệt-Viện trưởng đầu tiên trong Hạ nghị viện của chúng
ta. Một giới chức thứ hai được bổ nhiệm để kiểm soát khi túc số cần
thiết được bảo đảm – theo kiểu nghị viện Chief Whip trong hệ thống của
chúng ta. Một nhân viên phụ trách điều động dưới hình thức biểu quyết
sau khi vấn đề được mang ra thảo luận. Trong một vài trường hợp, vấn đề
chỉ phải làm một lần, và đến ba lần trong các trường hợp khác, thủ tục
tại nghị viện đòi hỏi dự án phải được đọc lần thứ ba trước khi dự án này
thành luật. Nếu cuộc thảo luận có những ý kiến dị biệt, vấn đề phải
được quyết định bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín.” HẠNH PHÚC Tôn
giáo nầy không phải một tôn giáo để người dân chỉ biết tuân theo mà là
để học hỏi, hiểu biết và thực hành để đạt kinh nghiệm vàhạnh phúc. Một
hôm Đức Phật đi bộ trong rừng, Ngài nắm trong tay vài chiếc lá cây và
tuyên bố những gì Ngài dạy đệ tử chỉ như chiếc lá trong lòng bàn tay của
Ngài. Toàn bộ giáo Pháp giống như tất cả các lá cây trong rừng. Giáo
Pháp mênh mông rộng lớn không tưởng tượng nổi, Đức Phật dạy những điều
chủ yếu, cần thiết ngay cho nhiệm vụ cấp thời để chấm dứt khổ đau và
được giải thoát. Đức Phật dạy chúng ta phải làm thế nào để tự chúng ta
thoát khỏi khổ đau. Kiến thức trần tục còn lại không quan trọng. Vì ngu
si, chúng ta đã dành thời gian cả cuộc đời cố gắng đương đầu với các khổ
đau ấy, như lo lắng, đau buồn và mâu thuẫn. Việc đó là do chúng ta
không hiểu bản chất thực sự của cuộc sống và những nguyên nhân của khổ
đau. Thí dụ chúng ta hãy lấy ba đặc tính của Pháp là Vô thường (Anicca),
Bất toại nguyện (Dukkha) và Không có thực chất (Anatta, vô ngã). Toàn
thể vũ trụ này đều chung số phận của ba đặc tính trên. Không có sức mạnh
nào có thể ngăn chận được bước tiến của sự thay đổi hiện hữu từ lúc ta
sanh ra và trong đó đã ẩn tàng nguyên nhân của đau khổ. Chúng ta chẳng
cần gì khác nữa để nhận thức được về nguồn gốc của khổ đau. Chúng ta
muốn gì ngoài đời sống? Làm sao để chúng ta đạt được hạnh phúc? Bất toại
nguyện và hậu quả là không hạnh phúc đến từ nơi chúng ta không hiểu mọi
vật đều thay đổi và đi đến tan rã. Đó là luật của vũ trụ. Nhưng vì sự
ngu si và niềm tin lầm lẫn về cái ngã của chúng ta, chúng ta muốn sinh
tồn trong trạng thái luôn luôn không bao giờ thay đổi. Việc đó không bao
giờ có thể xãy ra được. Chúng ta muốn giữ của cải tài sản, sức khoẻ và
tuổi thanh xuân của chúng ta. Nhưng rồi ngày nào đó tất cả mọi thứ đó
đều bị quét sạch như ngọn đèn bị gió thổi tắt. Khi chúng ta nhận thấy
những nét đẹp kiều diễm thay thế bằng những nếp da nhăn nheo và tóc bạc,
chúng ta lo lắng và trở nên không hạnh phúc vì chúng ta từ chối chấp
nhận sự thay đổi bản chất của vạn vật. Đức Phật dạy chúng ta hãy suy
gẫm các điều đó, chúng ta sẽ hiểu và nhổ tận gốc nguồn không hạnh phúc
của chúng ta. Giáo lý của Đức Phật soi sáng đường lối cho nhân loại để
bước qua thế gian mù quáng bởi dị đoan, căm thù và sợ hãi để tiến tớimột
thế giới ánh sáng mới, một thế giới của tình thương, hạnh phúc và phẩm
hạnh. Edwin Arnold (10) mô tả con đường của Đức Phật trong thi phẩm “Ánh sáng Á châu” : “Đây hoa nở trên cây nhân loại Đã bừng nở qua nhiều vạn kỷ Làm thế giới chan hoà Hương thơm trí tuệ Và mật ngọt tình thương”.
VÔ THƯỜNG VÀ CÁI CHẾT Khi
chúng ta còn trẻ, chúng ta cũng phải lưu ý đến điều này dù chúng ta
đang còn trẻ, theo dòng thời gian, chúng ta sẽ già. Chúng ta đang mạnh
khoẻ, chúng ta phải nghĩ đến lúc nào đó chúng ta sẽ phải đau yếu. Khoẻ
mạnh không tồn tại mãi. Khi chúng ta sửa soạn cho chúng ta một cách khôn
ngoan cho việc suy tàn, già, bệnh và cuối cùng : cái chết, thì chúng ta
sẽ không bị khó khăn trong việc chấp nhận các bất hạnh này. Hiểu biết
những việc đó là điều kiện trần thế mà mọi người phải đối mặt, chúng ta
có thể dũng cảm chịu đựng bất cứ một khổ đau nào. Đó là sức mạnh, nơi
“nương tựa” mà Đức Phật hứa khả. Có những kẻ rên siết và khóc than khi
gặp bất hạnh. Điều này không là gì ngoài sự thiếu hiểu biết. Than van về
các bất hạnh đó không làm cho đau khổ mất đi. Muốn tránh đau thương và bất hạnh đến với chúng ta, chúng ta phải làm cho tâm trí chúng ta vững mạnh hơn bằng sự thấu hiểu. Không
có gì hay bất cứ ai đến với cuộc sống mà thoát được tiến trình thiên
nhiên “đưa đến kết thúc”. Phải có một kết thúc. Nếu không thì mọi thứ
không hiện hữu. Chúng ta cần phải không sợ hãi hiện tượng hoàn toàn
thiên nhiên ấy. Tất cả chúng ta phải lưu ý ngay cả đến cái chết chưa
phải là kết liễu cuộc sống mà là bắt đầu một cuộc sống khác. Chúng ta
được biết với thi sĩ Wordsworth :”Linh hồn nổi lên với chúng ta, ngôi
sao của đời chúng ta, đã mọc tại nơi nào đó, đến từ xa”. Khi chúng ta
biến đi từ thế giới vật chất này, một đời sống khác hiện ra nơi nào đó –
tại sao chúng ta phải lo lắng? Phải chăng đơn giản là chúng ta có một
giấy thông hành mới trong cuộc hành trình của chúng ta qua ngả luân hồi
(samsara) ? Các dân tộc tiến hoá rồi diệt vong; các đế quốc trỗi lên
rồi tan rã; các lâu đài đồ sộ được kiến thiết rồi sụp đổ dưới cát bụi -
con đường của thế giới là như vậy. Những bông hoa lộng lẫy quyến rũ
khách qua đường; ngày hôm sau đã tàn lụi và héo khô. Từng cánh hoa
rơi và rồi tất cả đi vào lãng quên. Những cuộc vui và những thành quả
đạt được tột bực trên thế gian cũng chỉ là trò biểu diễn nhất thời. Kẻ
đắm mình trong dục lạc than van khóc hận khi dục lạc không còn và càng
chịu nhiều đau khổ. Vì lẽ không có gì trường tồn trên thế gian này nên
con người không nên hy vọng đạt được hạnh phúc tối đa của nó. Lời khuyên
của Đức Phật là hãy suy gẫm sự tạm bợ của trần gian và những dạng thức
bất toại nguyện (khổ) tiềm ẩn trong mọi biểu hiện cuộc sống trần ai. Thế giới nầy, mặt trời, mặt trăng, dải ngân hà, chính cả vũ trụ, tất cả đều bị chi phối bởi luật bất di bất dịch : Vô thường. Nếu
chúng ta vâng theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta sẽ không phiền não
trước viễn cảnh chia lìa người thân, tài sản và của cải. Điều này không
có nghĩa là người Phật tử không được nếm vui trần tục. Chúng ta phải
theo con đường Trung Đạo. Chúng ta vẫn có thể có những thú vui vừa phải
mà không vi phạm nguyên tắc luân lý, không trở thành nô lệ cho các thú
vui này và hiểu thấu thú vui này phải không gây trở ngại việc phát triển
tinh thần. Chồng vợ, cha mẹ con cái phát triển mạnh mẽ dây thân ái
với nhau. Điều này hoàn toàn tự nhiên. Điều này quan trọng cho họ để
sống cuộc đời trên trần thế. Tuy nhiên đồng thời chúng ta phải đương đầu
với sự thực là chính những luyến ái đó là nguồn gốc của đau thương và
khổ não có thể đưa đến sự tự tử nữa. Để loại bỏ điều khó khăn này, luyến
ái được chấp nhận nhưng với hiểu biết. Bổn phận của một người là phát
triển thương yêu bởi biết rằng ngày nào đó sẽ có chia lìa. Dưới điều
kiện như vậy, con người sẽ biết làm sao để đương đầu với trường hợp chia
ly khi nó xảy đến. Một người tránh được nóng giận và tự tử vì đầu óc
người đó đã được huấn luyện. Cái mà Đức Phật đóng góp cho nhân loại
là an ủi, giúp chúng ta hiểu đượctất cả những khó khăn có thể xảy ra và
làm sao để đương đầu với các khó khăn ấy. Cầu nguyện sức mạnh bên ngoài
có thể là giải pháp nhất thời cho ta thấy an lạc trong thời gian ngắn
ngủi. Nhưng chẳng khác chúng ta nhức đầu mà chỉ uống có hai viên thuốc
giảm đau. Sau ba tiếng cơn đau lại tái phát, vì nhức đầu không phải là
bệnh mà là triệu chứng mà thôi. Thuôc giảm đau không phải là thuốc để
trị bệnh. Những ai hiểu được là có khả năng làm hết nguyên nhân của khổ
đau. Giáo lý của Đức Phật cho chúng ta sự hiểu biết đó. KẾT LUẬN Tôi
hy vọng rằng việc trình bày này khiến quí vị thấy được Phật Giáo đứng
tách rời như một hệ thống tôn giáo thực hành. Đức Phật là một bậc Thầy
vĩ đại, đem lợi ích và là một lương y. Ngài luôn nhắc nhở các tín đồ mục
đích của Ngài là giảng giải cho con người biết bản chất của khổ đau và
bất toại nguyện như thế nào và phải làm sao để đoạn trừ nó. Ngài hứa hẹn
hạnh phúc trên đời này cho những ai theo phương pháp cao thượng của
Ngài bằng quyết tâm và quán triệt thích đáng. Thật không may vì trong
nhiều tôn giáo hiện hữu, các tín đồ không được khích lệ để kính trọng
các bậc lãnh đạo tôn giáo khác. Họ lại được răn dạy là nếu làm như vậy,
họ đã phạm tội, và tệ hơn nữa, là họ phải xuống địa ngục vì tội lỗi đó.
Đức Phật dạy rõ ràng cho chúng ta là phải kính trọng những ai đáng kính
trọng. Mặc dù chúng ta có thể không đồng ý với một vài quan điểm mà họ
nắm giữ, nếu họ thành thực cố gắng để phục vụ và nâng cao nhân loại,
chúng ta phải kính trọng họ vì lẽ đó. Đạo nào cũng có người cao quí. Đức
Phật không khuyên các đệ tử của Ngài đi cải đạo dân chúng, những người
mà (nếu không theo ) sẽ đoạ địa ngục. Đúng hơn là chỉ cho họ thấy trên
thế giới này cái gì phải, cái gì trái, cái gì tốt và cái gì không tốt,
khuyến khích họ đến xem để tự nhận xét sự thật mà Ngài dạy. Ngài và
tín đồ của Ngài không chỉ trích những người khác đạo là những người
“phạm tội” bị đày đoạ vĩnh viễn nơi địa ngục. Theo người Phật tử, cả đến
những người “không đạo” nhưng sống trong phẩm hạnh có lòng từ bi và
thiện chí có thể “lên thiên đường”, đó là chứng được hạnh phúc. Khi
chúng ta được mãn nguyện, chúng ta ở “thiên đường”. Khi chúng ta đau đớn
về thể xác và tinh thần, chúng ta ở “địa ngục”. Chẳng cần phải chờ đến
lúc chết mới chứng nghiệm được những trạng thái đó. Phật Giáo là độc
nhất vô nhị vì lẽ chúng ta có thể nói đến “tôn giáo” này cả đến khi
không cần nhắc đến thiên đường hay địa ngục. Tôi tin là các người khác
không thể nói đến tôn giáo theo cách nầy. Thông điệp thiện chí và
hiểu biết của Đức Phật cho tất cả chúng sanh là một thông điệp vũ trụ.
Thế giới ngày nay cần thông điệp cao thượng này hơn bao giờ hết trong
lịch sử nhân loại. Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất trình bày chân
lý tuyệt đối chỉ dạy con người làm sao sống hoà bình, hoà hợp với chúng
sanh đồng loại. ______________ CHÚ THÍCH CỦA DỊCH GIẢ (1)ALDOUS
LEONARD HUXLEY : (1894-1963). Một trong những tiểu thuyết gia hàng đầu
của thế kỷ 20. Những tác phẩm chính của ông gồm có : Thế Giới Mới Lộng
Lẫy, ấn hành năm 1932; Triết Lý Vĩnh Cửu, xuất bản năm 1945 và Những Cửa
Ngõ Của Tri Giác, phát hành năm 1954. (2)SARVEPALLI
RADHAKRISNAN : Sanh 5 tháng 9 năm 1888 tại Tiruttani, tiểu bang Andhara
Pradesh (Đông Nam Ấn độ). Là nhà giáo dục kiêm chính trị gia Ấn. Ông làm
giáo sư dạy triết tại Đại học Calcutta từ năm 1921 đến 1931; giáo sư
dạy môn tôn giáo và đạo đức Đông phương tại Đại học Oxford (Anh quốc) từ
năm 1936 đến năm 1952. Ông giữ chức Viện trưởng Đại học Delhi (thủ đô
Ấn) từ năm 1953 đến 1962 và được bầu làm Tổng thống Ấn độ từ năm 1962
đến 1967. Ông qua đời tại Madras (Nam Ấn) ngày 16 tháng 4 năm 1975.
Những tác phẩm chính của ông : Triết học Ấn độ, 2 cuốn xuất bản năm
1923-1927; Triết lý Áo Nghĩa Thư ấn hành năm 1924; Tôn giáo Đông Phương
và Tư Tưởng Tây Phương. (3)HERBERT GEORGE WELLS :
(1866-1946). Là sử gia, nhà văn và cải cách xã hội nước Anh. Năm 1893
ông dạy môn khoa học và làm ký giả. Những tác phẩm của ông gồm có các
truyện khoa học giả tưởng : Máy Thời Gian, ấn hành 1895; Con Người Vô
Hình, 1897. Cuốnsách nổi tiếng của ông là Lịch Sử Đại Cương xuất bản năm
1920. (4)IMMANUEL KANT : (1724-1804). Triết học gia Đức.
Các tác phẩm của ông nhằm vào việc phân tích lý thuyết, lẽ phải tinh
thần và khả năng xét đoán của con người. Ông đã gây ảnh hưởng rộng lớn
đến các phong trào hoạt động trí thức của thế kỷ 19 và 20. (5)ALFRED
NORTH WHITEHEAD : (1861-1947). Toán học gia và Triết gia Anh quốc. Ông
tập trung vào toán hợp lý (lô gíc), chứng minh tất cả toán nguồn gốc do
một số khái niệm hợp lý. Ông cũng phát minh một hệ thống triết học toàn
diện đi đôi với khoa học hiện đại. (6)ANATOLE FRANCE :
(1824-1924). Tiểu thuyết gia và Triết gia Pháp. Các tác phẩm của ông thể
hiện cả về mặt văn chương trong sáng lẫn phản ánh một sự châm biếm sâu
sắc. Ông tượng trưng bộ mặt chủ yếu về truyền thống tự do nhân bản của
văn chương Pháp. (7)JAWAHARLAL NEHRU : (1889-1964). Nhà lãnh
đạo quốc gia vĩ đại Ấn, tranh đấu độc lập và cải cách xã hội, là vị Thủ
tướng đầu tiên của Ấn độ độc lập, giữ chức vụ này đến khi mất. (8)ALBERT
EINSTEIN : (1879-1955). Nhà Vật lý học Hoa kỳ sanh tại Ulm (Đức). Năm
15 tuổi, ông nhập tịch Thụy Sĩ. Làm giáo sư Đại học Zurich (Thụy sĩ) năm
1909-1911, Đại học Prague (Tiệp khắc) 1911-1912; Đại học Bá linh (Đức)
năm 1914. Năm 1933, ông sang Hoa kỳ, được mời làm hội viên Viện Nghiên
Cứu Tiến Bộ Princeton (New Jersey). Năm 1940, ông nhập tịch, trở thành
công dân Mỹ. Tác giả thuyết Tương Đối, phổ biến nguyên nhân tổng quát lý
thuyết này năm 1916. Được tặng Nobel Vật Lý năm 1921. Tác giả cuốn Ý
Nghĩa về Thuyết Tương Đối xuất bản năm 1923 và cuốn Những Nhà Kiến Tạo
Vũ Trụ ấn hành năm 1932 v.v (9)RHYS DAVIDS (1842-1922). Sanh
tại Colchester, Anh quốc. Tiến sĩ Davids là một học giả nghiên cứu đặc
biệt về tiếng Pali và Phật Giáo. Các tác phẩm của ông gồm có : Phật
Giáo, xuất bản năm 1978. Phật Giáo từ tiếng Pali, ấn hành 1871, Phật
Giáo tại Ấn, xuất bản 1903, và Phật Giáo Nguyên Thủy, xuất bản 1908. (10)EDWIN
ARNOLD (1832-1904). Nhà thơ và ký giả nước Anh. Tốt nghiệp Đại học King
College ở Luân đôn. Viện trưởng viện Đại học Deccan, Bombay từ năm 1856
đến 1861; Chủ bút báo Daily Telegraph phát hành tại Luân đôn từ
1873-1901; Tác giả tập thơ nổi tiếng “Ánh sáng Á châu” diễn tả cuộc đời
và giáo lý của Đức Phật, xuất bản năm 1879. |