(Chùa Xá Lợi, Sài Gòn, ngày 17-09-2006) Ghi chép: Phương Nhã
Một ngày nọ, có một gia đình Phật tử từ Mỹ về thăm quê hương, nhân
tiện ghé thăm chùa Giác Ngộ. Những người con thảo cháu hiền dẫn người
mẹ, người bà của họ vào chánh điện lễ Phật. Sau đó, họ yêu cầu bà đứng
chụp một tấm hình. Khi ấy, tôi đề nghị người nhà hãy đưa bà đến một
studio nổi tiếng để chụp cho đẹp. Bà cụ vội lắc đầu, thấy vậy tôi bèn
hỏi lý do tại sao? Gạn hỏi mãi bà mới chịu trả lời: “chụp hình là lên bàn thờ sớm hơn”.
Đó là tâm lý chung khá phổ biến ở người có tuổi, cứ nghĩ rằng chụp
hình là để thờ kỷ niệm sau khi mình chết. Nỗi sợ hãi này đã làm cho họ
bị mất tự nhiên và không muốn để lại những kỷ niệm đẹp khi mình có niềm
vui, sự hân hoan và đặc biệt là niềm vui trong sự chăm sóc hiếu thảo của
con cháu.
Trong đạo thỉnh thoảng cũng xảy ra tình huống tương tự đối với các vị
Thượng tọa lão niên, đạo cao đức trọng. Thay vì theo qui định của đức
Phật ngày xưa, khi đến tuổi hạ lạp và có những đóng góp lớn cho Phật
giáo thì mặc nhiên các vị ấy được tấn phong Hòa thượng. Thế nhưng nhiều
vị Thượng tọa lại không muốn danh hiệu đó, mặc dù tuổi đã trên 60 và hạ
lạp trên 30. Hỏi ra thì một số vị cho biết:“Khi lên Hòa thượng thì biết rằng cái tuổi gần đất xa trời cũng đã đến”.
Lý giải từ góc độ nhân gian là thế, thực ra đối với những người xuất
gia như các ngài thì không phải vậy. Bởi bản chất của người tu là hạnh
khiêm tốn, việc phong tặng giáo phẩm đối với các ngài chỉ là xã hội hóa
việc thừa nhận những đóng góp trong quá trình tu tập và đức hạnh của các
ngài dành cho Phật giáo và cuộc đời. Phẩm hiệu đó có hay không đối với
người xuất gia không quan trọng.
Đề cập và tìm hiểu cái chết là một nghệ thuật để sống có ý nghĩa hơn.
Định đề này có vẻ xa lạ với hầu hết nhiều người. Bởi ai cũng cấm kỵ nói
hoặc bàn về cái chết, nhất là vào dịp đầu năm mới, nghĩ rằng như thế sẽ
bị xui xẻo, tạo cái “huông” kéo theo cái chết trong gia đình. Phong
tục tập quán ở Việt Nam và
Trung Hoa lại còn sai lầm hơn khi cho rằng, mỗi khi nghe chim cú kêu
là báo hiệu điềm gở, điềm xấu sắp xảy ra, khu vực chung quanh đó sẽ có
người chết. Điều này tạo ra lối ứng xử căm ghét, xua đuổi và thậm chí
bắn giàn ná giết chết loài chim này. Ngược lại, với con chim khách lại
được quan niệm là biểu đạt cho điềm lành của một gia đình hay làng xóm.
Điều này cho thấy hệ nhân quả được thiết lập dựa trên quan niệm, phong
tục tập quán và truyền thống văn hóa ở mỗi nơi.
CHẾT LÀ MỘT BẾN ĐÒ
Phật giáo xem cái chết như một bến đò hay chỉ là một trạm dừng chân,
đã là bến đò thì cần có điểm xuất phát hay điểm đến. Bến đò và người lái
đò phải liên tục đi và về để chuyên chở, phục vụ hành khách, và chức
năng của nó cứ tiếp tục mãi như thế. Tiến trình của sự sống và cái chết
cũng giống như một lượt đi qua đò. Khi kết thúc mạng sống, không phải là
dấu chấm cuối cùng, mà là chuyến hành trình mới để quay về bến đò bên
kia, tiếp tục rước những hành khách khác. Trong đạo Phật, việc rước hành
khách được hiểu như thần thức của con người xuất hiện trong một mầm
sống mới dưới hình thức là phôi thai. Tùy theo sự chiêu cảm của nghiệp
và tính cách tương ứng của hành vi (còn được gọi là họ hàng nghiệp) giữa
người chuẩn bị đi tái sanh và gia đình, cha mẹ, anh chị em mà người đó
sẽ là một thành viên.
Hiểu như thế, ta không nên quá bi lụy trước cái chết, mất bến đò bờ
bên này để cập bến bờ bên kia và ngược lại. Gọi nó là trạm dừng chân là
bởi chức năng của trạm này không phải để cống hiến cho hành khách dừng
tại đó một cách vĩnh viễn. Sự dừng chân chỉ mang tính tạm thời mà thôi,
để rồi sau đó, hành khách lại phải tiếp tục lên chuyến xe đi đến nơi mà
mình muốn đến. Việc dừng chân ở lại một chỗ chắc chắn sẽ làm mất hết giá
trị của đôi chân và chức năng hoạt dụng của toàn cơ thể. Trạm là cảnh
giới và loại hình sự sống mới mà bản chất của nó
mang tính tương thuộc, thống nhất về nội dung với những gì con người
đã tạo thông qua hành vi, lời nói và việc làm cụ thể trong quãng thời
gian có mặt trên đời.
CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI ĐIỆN
Ngày 07- 09 - 2006, một tờ báo trong nước đã đưa tin về một sự kiện rất đau lòng với tựa đề: “Người điện bị điện giật chết”.
Nhân vật trong bài báo tên là Huỳnh Văn Hùng, 44 tuổi, là một thợ điện.
Anh có khả năng đặc biệt là điện giật không chết mà nhiều năm trước báo
chí và truyền hình từng đưa tin, phỏng vấn. Khi ấy, anh trở thành người
khá nổi tiếng, có thể dùng bàn tay của mình tiếp xúc trực tiếp với điện
mà không cần phải cúp cầu giao và không sợ bị điện giật. Vì hoàn cảnh
khó khăn, lương không đủ sống, anh có ý định tìm kiếm một công việc khác
để mưu sinh. Trong thời điểm đó, anh ở lại tá túc tại nhà một người
thân, nếp sống của gia đình này là ăn chay trường nên anh đành phải
theo. Một hôm nọ, cũng như bao nhiêu ngày khác, anh đã thử điện mà không
cần cúp cầu giao, đột nhiên có tiếng la thất thanh từ trong nhà vọng
ra:“cúp cầu giao…” Khi chạy vào thì nhìn thấy cơ thể anh bị cháy đen, anh đã chết.
Có người lý giải rằng, do vì tá túc lại trong gia đình đó phải ăn
chay nên kháng lực trong cơ thể anh xuống thấp, không đủ sức chịu đựng
trước dòng điện bình thường, so với thời điểm trước đây khi ăn mặn thì
không vấn đề gì. Thực ra, người ăn chay trường có sức khỏe tốt hơn người
ăn mặn, sức dẻo dai, bền bỉ chẳng thua kém gì người ăn thịt cá. Lý giải
như vậy là không đúng. Hoặc một lý giải khác cho rằng “sanh nghề tử nghiệp” sống
bằng nghề nào thì chết bằng nghề ấy. Lý giải đó chưa có sự chứng thực
đúng sai, nhưng đau lòng ở chỗ nó là một sự lên án rằng, những người như
thế đáng phải chết với những gì họ làm.
Lý giải từ quan điểm và góc nhìn của đạo Phật có sự khác
biệt. Người có năng lực đặc biệt liên hệ đến chi phần hay một
cơ quan nào đó của cơ thể, đừng nên ngộ nhận nó sẽ tồn tại vĩnh viễn
một cách lâu dài. Lạm dụng vào nó sẽ dẫn đến hậu quả đáng tiếc, điển
hình là cái chết của anh Hùng. Trong khi với năng lực đặc biệt này có
thể hỗ trợ cho anh trong công việc khá nhiều. Do đó, chỉ nên sử dụng
năng lực đặc biệt để chứng minh cho một sự kiện mà khoa học cần đến,
bằng không việc lạm dụng có thể là trở ngại.
Thời của đức Phật ngày xưa, rất nhiều vị xuất gia có năng lực thần
thông, mà lẽ ra với năng lực đó sự thu hút quần chúng sẽ khá dễ dàng.
Bởi quan niệm một con người có khả năng siêu phàm sẽ làm cho rất nhiều
người có niềm tin tôn giáo nghĩ rằng đây là một bậc thánh. Khi ấy, đức
Phật đã khuyến tấn tất cả các vị xuất gia không nên thể hiện năng lực
thần thông mà mình đạt được. Những ai làm việc đó để thu hút tín đồ sẽ
bị giới luật trong đạo Phật trừng phạt. Vì Ngài nhìn thấy rõ sự nguy hại
trong việc lạm dụng năng lực đặc biệt này, ít nhất về phương diện hòa
hợp trong cộng đồng của người xuất gia. Một tu sĩ được thần tượng hóa
như một vị chứng đắc, vị ấy cố tình làm việc này trong khi những người
khác lại không thể hiện được sẽ dẫn đến tình trạng quần chúng đổ dồn,
tập trung vào vị ấy, trong khi các giá trị thiết thực khác họ lại không
mảy may quan tâm.
Truyền thống Lạt Ma tái sinh của người Tây Tạng là một truyền thống
có giá trị. Bởi vì nó xác quyết được con đường và cảnh giới tái sinh khi
các vị ấy đang còn sống khỏe mạnh, nhưng về lâu dài, thái độ ứng xử của
người dân Tây Tạng đối với những vị Lạt Ma tái sanh lại tạo ra cung
cách thần tượng hóa; và dĩ nhiên thái độ phân biệt đối xử đã xảy ra đối
với những vị không phải là Lạt Ma tái sinh. Trong thời gian có mặt tại
Lhasa, nơi được xem là vương quốc lưu vong của Phật giáo Tây Tạng tại Ấn
Độ. Hằng ngày, tôi quan sát và cảm nhận rõ điều này. Người dân Tây Tạng
rất thành kính đối với những vị Lạt Ma tái sinh, thế nhưng càng
thành kính các ngài nhiều chừng
nào thì thái độ của họ đối với các vị Lạt Ma không tái sinh lại xuống
cấp nhiều chừng nấy. Trong đời sống hằng ngày, người Phật tử Tây Tạng
lúc nào trên tay cũng có xâu chuỗi với 108 tràng hạt. Họ lần chuỗi trong
lúc buôn bán, làm việc, chợ búa v.v… ở mọi nơi và mọi lúc giống như
người xuất gia.
Chính vì vậy, họ mong muốn các vị xuất gia phải có điểm gì đó đặc
biệt hơn, không thể nào tương tự như họ. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận yếu tố
đặc biệt chỉ thông qua truyền thống tái sinh đôi lúc bị lệch lạc, đi
sai với truyền thống và tinh thần của đạo Phật. Đức Phật từng xác quyết
rõ việc có thần thông và sự chứng đắc, hai yếu tố này có thể song hành
và cũng có thể biệt lập với nhau hoàn toàn. Trong thời đức Phật, rất
nhiều vị A-la-hán không có khả năng thần thông nhưng nhiều người phàm
lại có khả năng này. Do đó, đức Phật đã giới thiệu một loại hình thần
thông mới có chiều sâu hơn, và Ngài sử dụng lối chơi chữ với tên gọi: “Giáo dục thần thông”, được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Thứ nhất, sử dụng thần thông như một phương tiện giáo dục quần chúng,
giúp họ tin sâu vào nhân quả, giá trị tốt xấu, đạo đức, hiểu được bản
chất của đời sống là do con người định đoạt thay vì do Thần linh, Thượng
đế. Trong tình huống này, việc vận dụng thần thông được tán thán. Tuy
nhiên, cũng cần giới hạn chỉ khi nào thực sự cần thiết mới đem ra ứng
dụng.
Thứ hai, điều quan trọng và là mục tiêu mà đức Phật muốn nhắm đến, đó
là bản chất của giáo dục chánh pháp đối với cuộc đời là phép mầu. Ai
biết vận dụng chánh pháp đưa vào cuộc sống bản thân để giải quyết khổ
đau, không bị rơi vào tình trạng than trời trách phận. Hoặc ai ứng dụng
lời Phật dạy trong việc giáo dục con cái, giúp cho chúng trở thành người
hữu dụng về sau thì họ được xem là đang thể hiện phép mầu. Phép mầu của
sự giáo hóa, chuyển hóa, và làm mới hoàn toàn nhân cách của con người.
Điều mà đức Phật muốn nhấn mạnh là tất cả những
người phàm, dù xuất gia hay tại gia đều có khả năng thực hiện
phép mầu mà không cần phải có năng lực đặc biệt nào.
Lạm dụng năng lực đặc biệt trong những tình huống không cần thiết có
thể tạo sự nuối tiếc về sau. Báo chí tiếp tục đưa tin sau khi anh Hùng
qua đời, vợ và hai con của anh bị hụt hẫng vì trụ cột kinh tế gia đình
đều nương tựa vào anh. Do vì ỷ lại vào năng lực thần thông quá mức mà
đôi lúc ta tự hại bản thân và hại luôn cả những người thân, người thương
của mình nữa. Từ đó rút ra được bài học mà đức Phật từng nhắc nhở các
vị xuất gia: “Cho đến lúc nào các vị trở thành thánh nhân thì có thể
tạm yên tâm về con đường chuyển hóa, tu tập, đạo đức, nỗ lực… còn nếu
chưa phải là một bậc A-la-hán thì đừng bao giờ cho phép mình ỷ lại.”
Câu nói đó có thể được ứng dụng trong công việc, sự nghiệp, lý tưởng
mà người cư sĩ tại gia đang theo đuổi. Đừng nên ỷ lại dù quý vị là người
có thể rất thành công trên thương trường, chính trị, giáo dục, văn hóa,
nghệ thuật… cùng nhiều lĩnh vực khác; đừng cho phép mình thỏa mãn, tự
hào, vì đó là ổ khóa giam nhốt năng lực và sự đóng góp của bản thân đối
với cộng đồng và xã hội. Những ai cho phép mình thỏa mãn, người đó khó
có thể tiến bộ xa hơn. Ỷ vào khả năng là cách thức làm giảm đi giá trị
bản thân.
CÁI CHẾT Ở LÀNG THIÊN LÔI
Câu chuyện thứ hai mà tôi muốn chia sẻ được đăng trên báo Sài Gòn
Giải Phóng ngày 13 - 09 - 2006 về một ngôi làng được mệnh danh là “Làng trời đánh” hoặc còn gọi là “Làng thiên lôi”.
Làng nay là một khu đất thuộc địa phận Hà Tĩnh, ở đó có một cánh đồng
giao giữa ba xã Sơn Lộc - Thạch Ngọc - Việt Xuyên. Mỗi khi mưa to, sấm
sét lớn thì dân làng ở đây không ai dám bước chân ra ngoài. Thống kê xã
hội học từ năm 1990 đến 2006, nơi đây có ít nhất hơn 20 người chết do
bị sét đánh với thân thể bị cháy đen không còn nhận dạng ra. Trước sự
kiện
này, nhiều người sợ hãi và nghĩ rằng đó là hiện tượng trời trừng phạt
đối với những người sống không có đạo đức. Lý giải đó tạo ra sự phân
biệt đối xử với người chết và tệ hại hơn là ảnh hưởng đến người thân của
họ, mà lẽ ra tình thương của con người phải được đặt lên trên hết.
Ngoài ra, thêm một quan niệm sai lầm khác xuất hiện khi người dân địa
phương cho rằng, cái đầu của người chết do sét đánh rất linh thiêng. Ai
lấy được cái đầu đó về nhà thì công ăn việc làm được thịnh vượng, cầu
gì được đó, mua may bán đắt. Vì vậy mà nạn cướp xác diễn ra khiến nhiều
người hoang mang, lo sợ, đã mất người thân bây giờ bị mất cả thi thể của
người thân. Bên cạnh đó, người ta còn quan niệm sự linh ứng này vẫn
tiếp tục tồn tại trong vòng 3 tháng 10 ngày, chỉ khi nào qua thời điểm
đó thì sự linh ứng mới không còn. Vì vậy mà trong suốt thời gian đó,
thân nhân của người chết phải thuê người canh gác, bảo vệ mồ mả.
Nghiên cứu về địa chất học cho thấy trời đánh là một hiện tượng vật
lý. Vùng đất nào có nhiều quặng mỏ thiếc thì hiện tượng trời đánh tăng
cao, giao cảm điện từ thiếc và điện trên bầu trời tạo ra luồng sấm sét.
Lúc đó, người đang có mặt trong vùng điện tạo sấm sét có thể bị chết
cháy đen. Khoa học chứng minh như thế, trong khi nhân gian lại hiểu sai
lầm, gán điều này cho ông trời. Nếu thực sự ông trời làm việc đó thì xem
ra ông đã quá bất lương và nhẫn tâm. Bởi vì đã có nhiều người hiền
lương, hiếu thảo với cha mẹ, đàng hoàng, đứng đắn trong các mối quan hệ,
giúp đỡ mọi người trong xã hội, chưa làm mất lòng ai nhưng vẫn bị trời
đánh.
Do đó, đừng nên ỷ lại vào giá trị đạo đức mà ta đang có. Đức Phật vẫn
khuyên chúng ta phải nỗ lực, phát huy, tu tập, và phấn đấu cho đến khi
nào không còn gì để phát huy nữa thì lúc đó mới dừng, và cũng không cho
phép mình được quyền thỏa mãn
đến đó. Hình ảnh của sự thỏa mãn cũng giống như nấc thang. Nếu ta
dừng lại và đánh dấu sự thỏa mãn của người bộ hành đang đi trên từng nấc
thang sẽ không có cơ hội để bước thêm một bước cao hơn trong đạo đức,
tu tập, nghề nghiệp, thành công và nhiều lĩnh vực khác. Có kiến thức
khoa học căn bản, người ta có thể tránh được cái chết, không cần vĩnh
biệt cuộc đời để lại niềm thương tiếc cho người thân. Khi mưa to gió
lớn, không nên ra những khu vực có quặng mỏ, chẳng phải vì sợ ma, sợ
trời hay sợ thần linh trừng phạt, mà vì qui luật vật lý tự nhiên nếu ta
muốn an toàn tính mạng. Trái lại, niềm tin mê tín chỉ làm cho con người
ngày càng lún sâu vào những cảnh huống bất hạnh, đặc biệt với hiện tượng
cướp xác vừa nêu càng làm cho ta đau lòng hơn, vì người đã chết mà vẫn
chưa được yên.
Những trường hợp chết bất đắc kỳ tử như hiện tượng sét đánh, người
chết chưa sẵn sàng chấp nhận cái chết, dòng cảm xúc của họ vẫn còn đang
níu kéo sự sống, dù thân thể bị cháy đen. Trong tình huống này, chưa
chắc họ đã được siêu sinh, huống hồ chi với hiện tượng bị cướp đầu thì
dòng cảm xúc nổi sân bị trỗi dậy. Đó là ách tắc lớn cho tiến trình tái
sinh ở đời sau.
KHÔNG CÓ ÂM PHỦ ĐỂ TRỞ VỀ
Đạo Phật xác quyết giữa sống và chết có khoảng thời gian và trung
gian quyết định bản chất của loại hình sự sống. Vậy sự sống của đời sau
là gì? Tiến trình trung gian đó tồn tại dài hay ngắn tùy thuộc vào bản
chất nhân quả về đời sống đạo đức của người chết, và dòng cảm xúc trước
và ngay trong giờ khắc cái chết diễn ra. Người Phật tử có được sự huấn
luyện chuyển hóa cảm xúc hằng ngày, hằng giờ sẽ thấy cái chết là điều
rất bình thường, không có gì đáng phải bận tâm. Khi ấy, dòng cảm xúc
tiếc nuối về thân thể vật lý không có mặt, và tiến trình tái sinh được “thuận buồm xuôi gió”.
Ngược lại, những ai có thói quen tiếc nuối điều gì thuộc về
quá khứ mà không chịu chuyển hóa ngay lúc đang còn sống thì khi chết,
dòng cảm xúc tiếc nuối là một ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh. Bởi
cá tính của người còn sống thế nào, nó vẫn được lưu truyền dưới hình
thức quán tính thế ấy. Năng lực quán tính sẽ định vị nghề nghiệp, cá
tính, sở trường, dòng cảm xúc và thái độ ứng xử của người đó ở đời sau.
Tính cách này hiếm khi thay đổi nếu không có sự hỗ trợ tích cực của giáo
dục định hướng. Người Phật tử cần xác định rõ tiến trình của sự sống
diễn ra như một dấu chấm trên một đường thẳng dài, mỗi dấu chấm tượng
trưng cho sống và chết, và cứ thế tiếp tục mãi mà không ai có thể phanh
ra manh mối đầu tiên của con đường thẳng dài, với điểm nào là khởi đầu
và kết thúc nằm ở đâu. Với kiến thức nhân quả về sống và chết như thế sẽ
giúp con người hoàn toàn thản nhiên trước qui luật“sanh ly tử biệt”.
Lễ Trai tăng tại các chùa với lời tác bạch thường có câu: “chúng con hiểu rằng sanh tử là chuyện đi về…” vốn được dịch thoát nghĩa từ một câu của Nho giáo “sanh ký tử quy”, nghĩa là “sống gởi thác về”.
Quan niệm sai lầm này cần phải được thay đổi. Nếu con người cứ nghĩ
rằng sống tạm ở nhờ, gởi gấm thân phàm trên cõi đời trong mấy mươi năm
tạm bợ thì khó mà sống có chất lượng về đạo đức, tâm linh, đóng góp và
phục vụ cho xã hội. Sai lầm đó còn dẫn đến hậu quả ứng xử khi nghĩ rằng
cõi dương chỉ tồn tại có mấy mươi năm, và cõi âm mới là cõi tồn tại vĩnh
viễn. Từ quan niệm đó mà người Ai Cập đã cho xây dựng các kim tự tháp
hoành tráng bằng mồ hôi, nước mắt và cái chết của người dân vô tội, ngay
cả người thân thương nhất của vua cũng bị chôn sống theo, cùng với
nhiều vàng ngọc châu báu. Bởi họ nghĩ rằng cảnh giới âm phủ mới có thể
giúp họ tồn tại lâu dài, mà không có bất kỳ nỗi lo nào.
Người Trung Hoa khi ảnh hưởng nền văn hóa này đã có sự cải biên thay
vì chôn người sống, nhà thật, vàng bạc thì họ làm bằng giấy vàng mả;
nhưng trong tình huống này, ý niệm về sự
chôn cất vẫn còn, sát sanh vẫn được thiết lập. Phong tục sai lầm đó
vẫn làm cho nhiều người tin, nên khi chết đi họ cứ bám vào ảo giác nghĩ
rằng mình đang cần áo quần để mặc, nhà cửa để ở, thực phẩm để ăn. Tiến
trình thời gian trong việc kéo dài thân trung ấm tạo sự đói khát về cảm
xúc, nhận thức và hưởng thụ của các giác quan, mà khi còn sống họ đã
từng trải qua. Đức Phật khẳng định không có âm phủ nào để trở về, chỉ có
những cảnh giới để tái sinh, gồm năm cảnh giới chính: ngạ quỷ, súc
sinh, A-tu-la, con người, và chư Thiên.
Địa ngục không phải là cảnh giới và không được gọi là một loại hình
sự sống. Đây chỉ là phương diện vật lý, nơi mà loài ngạ quỷ có thể tồn
tại. Kéo dài sự tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía của thân trung ấm
sẽ làm cho người quá cố chất chồng thêm khổ đau. Khổ đau ấy không bị
gián đoạn, không có niềm vui và cũng không có bất cứ phương tiện nào để
thể hiện niềm vui, cho nên gọi đó là địa ngục giống như ngục tù giam
nhốt mình. Đây là hình ảnh diễn tả bản chất nỗi đau đối với loài ma quỷ
chết chưa được siêu.
Năm loại hình sự sống hoàn toàn tương thích với bản chất đạo đức,
nhất là hành vi cuối cùng trong cuộc đời sẽ làm cho các hành giả Phật
giáo sống có trách nhiệm với bản thân. Đây chính là sự khác biệt giữa
người Phật tử và người không phải Phật tử. Các nền triết học và tôn giáo
lớn trên thế giới quan niệm chết là hết, hoặc chỉ có hai cảnh giới
không lên thiên đàng hưởng phước đời đời của Chúa thì xuống hỏa ngục để
đời đời chịu khổ đau. Chủ nghĩa duy vật thì cho rằng không có đời sống ở
kiếp sau. Quan niệm như vậy khiến cho trách nhiệm đạo đức bị lung lay,
thay đổi, khi mà người tốt và kẻ xấu chẳng có sự khác biệt ở điểm kết
thúc, vậy thì làm điều tốt để làm gì? Rất nhiều người làm điều xấu đã có
những suy nghĩ sai lầm như thế. Hãy khoan đề cập đến vấn đề có đời sau
hay không, chỉ cần ý thức về sự hiện hữu ở đời sau và niềm tin về nó sẽ
giúp con người sống có
ý nghĩa, biết sợ hãi điều xấu và hậu quả mà mình phải nhận lấy,
giá trị đạo đức là ở đây.
ĐÔI TÌNH NHÂN VÀ NGHĨA CỬ CAO THƯỢNG
Ngày 15- 08- 2006, tại Trung Quốc đã xảy ra một sự kiện khá đau lòng.
Một đôi tình nhân vừa hứa hôn đã qua đời trong lúc cứu một em bé trên
con sông thuộc tỉnh Quảng Tây. Người nam tên là Triệu Thế Lương 27 tuổi,
và người nữ tên là Diêu Mỹ Bình 22 tuổi. Cả hai vừa tốt nghiệp cử nhân
và đang theo học chương trình cao học gần hoàn tất. Họ đã cùng thề non
hẹn biển sau khi học xong sẽ cùng tổ chức lễ cưới.
Hôm ấy, cả hai đang đi dạo quanh bờ sông, bỗng nghe tiếng la thất
thanh trước cảnh tượng một đứa bé đang bị dòng nước cuốn đi. Khi đó,
chàng thanh niên vội nhảy xuống cứu, nhưng vì dòng nước chảy xiết quá,
anh chỉ kịp đẩy đứa bé vào đến bờ thì bị kiệt sức, nước đã cuốn anh đi.
Người vợ chưa cưới vì quá xót xa, đau lòng nên cũng nhảy xuống cứu. Cả
hai đã lặn hụp, chiến đấu với dòng nước, lả người và kiệt sức. Một lúc
sau, khi người ta cứu được thì anh đã chết, và mãi đến hai ngày sau mới
tìm thấy xác của cô gái.
Hai gia đình của đôi tình nhân này đều là những Phật tử thuần thành.
Họ đã tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ ngay trong ngày tang lễ. Người ta cho
làm hai hình nộm mặc chiếc áo cưới mà đôi tình nhân đã sắm chuẩn bị cho
ngày cưới. Gia đình hai họ cũng làm lễ một cách trịnh trọng bằng lời mở
đầu tuyên bố lý do, lời chúc tụng, thậm chí có người đóng vai cô dâu chú
rể giả đọc lời phát biểu trong nghi thức lễ cưới, và tiếp theo tiến
hành đến nghi thức lễ tang. Có người cho rằng, chết rồi có nên làm như
thế hay không?
Đứng từ góc nhìn của đạo Phật, sự tâm đầu ý hợp và nghĩa cử
cao thượng trước cái chết của đôi tình nhân này sẽ làm cho họ
trở thành vợ chồng ở kiếp sau. Gia đình đã tổ chức lễ hôn phối mặc dù
đôi tình nhân này không để lại lời di chúc nào, vì họ chết bất đắc kỳ
tử. Cách thức làm như vậy là đúng, bởi vì niềm mơ ước được làm vợ chồng
của nhau chưa thực hiện được, nên dòng cảm xúc tâm lý có thể gây trở
ngại cho tiến trình tái sinh. Trong tình huống này, cha mẹ và họ hàng
hai bên biết ứng dụng lời Phật dạy trong việc giải phóng ức chế tâm lý ở
giây phút cuối cùng trước khi chết, giúp họ ra đi một cách nhẹ nhàng.
Việc tổ chức lễ cưới trong trường hợp này mang ý nghĩa đạo đức và ý
nghĩa tái sanh rất lớn, dù thiên hạ không hiểu đã lên tiếng phê bình,
chỉ trích.
Nghĩa cử cao thượng trước lúc qua đời là hành trang đạo đức định
hướng cho bản chất đời sống tái sinh ở kiếp sau, khi mà khoảng cách thời
gian diễn ra trong tích tắc. Bằng nghĩa cử cao thượng hy sinh bản thân,
không màng đến cái chết, với phước lực này sẽ giúp đôi tình nhân tái
sinh rất nhanh chỉ trong tích tắc mà thôi. Thời lượng 49 ngày được nêu
ra trong các bản kinh chỉ là sự phòng hờ cho những người tiếc nuối và
không chấp nhận cái chết diễn ra như một sự thật.
Các chúng sanh sau khi qua đời trong một cảnh giới hay thân phận nào
đó, do vì áp lực nhân quả và nghiệp lực lôi kéo nên họ phải ra đi. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
đưa ra một ẩn dụ rất sâu sắc, trong lòng bàn tay ta đang nắm những hạt
đậu, ngay thời khắc ta buông tay ra để cho những hạt đậu rơi xuống, lúc
đó chắc chắn nó phải có chỗ rơi. Điểm rơi của nó có thể là cái bàn, mặt
đất hay một khoảng không gian nào đó, tức là phải có một chỗ nào đó để
rơi và bám vào.
Đối tượng của sự rơi được hiểu giống như cảnh giới sự sống ở đời sau,
và vật rơi là thần thức tái sinh của con người vừa thoát ra sau cái
chết. Sự rơi chỉ diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn. Chỉ những
người bị tiếc nuối về cái chết, kéo dài tình
trạng thân trung ấm và khổ đau khiến họ trở thành ngạ quỷ-hồn
ma bóng vía bị đói khát.
Nghiệp trước cảnh huống sanh ly tử biệt, được gọi là cận tử nghiệp có
giá trị lớn trong việc tạo phẩm chất cho người chuẩn bị tái sinh. Chắc
chắn phẩm chất của đôi tình nhân khi tái sinh ở kiếp sau phải là người
dấn thân phục vụ xã hội, cộng đồng, lấy hạnh phúc người khác làm tiêu
chí để phục vụ bản thân, không màng đến bất cứ điều gì thậm chí là sự
nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng. Vấn đề được đặt ra là chết cùng một giờ
khắc có thể tạo ra tình huống song sinh khi tái sinh. Lúc đó, thần thức
của họ sẽ tìm một gia đình có nghiệp cảm tương đương trong thời điểm
ban ngày, và làm thế nào có sự giao phối giữa cha mẹ trong thời điểm có
thể thụ thai. Gia đình nào có cặp song sinh một nam, một nữ thì biết
rằng đó là cặp song sinh do tự tử, hoặc làm nghĩa cử cao thượng vừa mới
qua đời cùng một lúc. Vì vậy mà tiến trình tái sinh làm cho họ có mặt
trong cùng một gia đình.
Các vị Hòa thượng đã răn dạy trong tình huống dù bé trai có sinh ra
trước thì cha mẹ vẫn nên cho bé gái được trở thành chị của bé trai, để
tránh tình huống loạn luân. Bởi vì sanh ly tử biệt gắn liền với tình yêu
thường làm cho những đôi tình nhân muốn có mặt cùng một nơi. Thế nhưng
nghiệt ngã thay về mặt luân thường đạo lý lại không cho phép anh chị em
ruột thịt trở thành người hôn phối của nhau. Do đó, đặt người nữ làm chị
để tránh tình trạng đáng tiếc xảy ra.
Hiểu được tâm lý như thế, những cặp tình nhân nhớ về sau đừng đi tái
sinh cùng một chỗ. Hãy đợi đến khi tái sinh ra đời rồi, sau này hãy đi
tìm nhau, cứ giữ lời nguyện ước thì chắc chắn sẽ gặp nhau. Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật còn hướng dẫn nghệ thuật để trở thành vợ chồng ở kiếp sau gồm ba yếu tố:
- Trong khoảng thời gian có mặt với nhau trên cuộc đời với
tư cách là vợ chồng thì sự chung thủy là điều kiện tiên quyết.
- Cả hai luôn có nguyện vọng trở thành vợ chồng của nhau ở
đời này và kiếp khác.
- Trong hai người dù ai có đi tái sinh trước thì người đó vẫn phải
nêu tâm niệm rằng tôi sẽ chờ, và người còn lại tái sinh sau sẽ đi tìm
kiếm.
Ba yếu tố đó sẽ làm cho đôi vợ chồng dù có chết trong bất kỳ
tình huống nào vẫn tiếp tục làm vợ chồng của nhau ở đời sau.
Ngày xưa, công chúa Da-du-đà-la và thái tử Tất-đạt-đa đã từng là vợ
chồng của nhau trong rất nhiều kiếp. Sự thành công của Tất-đạt-đa ở
nhiều tiền kiếp về trước đều có bàn tay đóng góp và sự hy sinh của
Da-du-đà-la. Họ đã rất ăn ý, hy sinh và tạo cho nhau sự thành công, hạnh
phúc. Đến đời hiện tại này, Da-du-đà-la đã hy sinh trọn vẹn để chồng
mình trở thành bậc siêu vĩ nhân, siêu tâm linh và đại giác ngộ - đức
Phật Thích Ca ngày nay.
Do tiến trình của sự tái sinh thường dẫn đến tính cách gần gũi nhau.
Điều này lý giải tại sao có người vừa mới sinh ra nhưng trong đầu đã có ý
tưởng sẵn về mẫu người chồng, người vợ lý tưởng trong tương lai. Có
tình huống người nữ mặc dù đối tượng hỏi cưới là người có gia tài, sự
nghiệp, địa vị, giàu sang phú quý, hình thức bảnh trai mà họ lại không
ưng. Do bởi trong đời quá khứ, người nữ đã từng thề non hẹn biển với một
đối tượng khác, nên trong đời này họ đang đi tìm mà chưa gặp. Quá trình
cách ấm làm cho họ bị quên, nhưng trong chiều sâu tâm thức vẫn còn giữ
lại và tạo ra hệ đánh giá tiêu chuẩn, và hệ đó hoàn toàn khác với đối
tượng muốn đến với mình. Sở dĩ có hiện tượng trên là do cá tính của
người sống ở đời này và tiền thân của người đó trong quá khứ cùng một
mẫu số chung.
NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI
Câu chuyện thứ tư mà tôi muốn chia sẻ là hiện tượng người
chết sống lại được dân gian gọi nôm na là quỷ nhập tràng. Hiện
tượng này có từ ngàn xưa, nhưng mãi đến khi nó được đề cập dưới góc
độ của khoa học thì thế giới phương Tây mới bắt đầu quan tâm, và xem nó
giống như một hiện tượng lạ mà khoa học chưa thể lý giải.
Sự kiện đầu tiên diễn ra vào năm 1906 tại bang Kansas - Mỹ, một thanh
niên tên là Havy 20 tuổi bị bệnh nặng và đột ngột chết. Người bạn gái
của anh rất đau khổ và thương tiếc vô cùng. Cô đã yêu cầu gia đình anh
hãy khoan vội chôn, nài nỉ mãi, cuối
cùng luật pháp cũng cho phép. Cô giữ xác người bạn trai trong
nhà mình. Bảy ngày sau, chàng thanh niên kia sống lại. Người lý giải
rằng đây là hiện tượng thần thoại, vì tấm lòng tha thiết của người
thương mà người chết bỏ đi không đành, nên đã xin Diêm Vương sống lại.
Nếu hiểu về hiện tượng chết lâm sàng và chết thực sự hay còn gọi là
hiện tượng chết sinh học, sẽ thấy đây là một hiện tượng hoàn toàn khoa
học. Người được xem là chết nằm bất động như ra đi, và nếu như không có
kiến thức về khoa học người ta dễ chôn sống những người chưa chết. Thống
kê xã hội học phương Tây cho thấy cứ 200 ca chết thì có một người bị
chôn sống, nghĩa là chưa chết thực sự mà bị cho là chết. Từ các nghiên
cứu đặc biệt về hiện tượng chết lâm sàng ở phương Tây giúp thế giới hiểu
rõ hơn về điều mà đức Phật đã dạy trong kinh, tại sao người chết có thể
sống lại.
Dòng cảm xúc tiếc nuối về một mối tình, về trách nhiệm của người làm
cha mẹ đối với con thơ, về trọng trách đại sự của quốc gia v.v… khiến họ
muốn níu kéo sự sống. Do được sự hỗ trợ của phước lực về mạng sống hay
tuổi thọ vốn gieo trồng ở hiện đời, hoặc nhiều kiếp về trước, năng lực
níu kéo, tiếc nuối này sẽ làm cho đời sống được kéo dài. Người thì sống
lại vài ngày rồi chết, người thì sống lại mấy mươi năm, tùy vào hành
động phước báu liên hệ đến tuổi thọ.
Vì vậy, ngài Huyền Tráng đã yêu cầu thân nhân người quá cố phải sau 8
tiếng mới được động vào thi thể của người chết, khi họ được công nhận
là đã chết thực sự. Việc tẩm liệm trước
8 tiếng sẽ khiến cho một số tình huống chết lâm sàng, nghĩa là sự
sống vẫn đang còn, dẫn đến phản ứng ức chế tâm lý, sân hận, tạo bất hạnh
và oan khiên oán trái ở người quá cố.
Sau khi phát hiện tình trạng chết đi sống lại của Havy vào năm 1906,
các nhà nghiên cứu khoa học phương Tây đề nghị trong suốt 24 giờ sau cái
chết lâm sàng, thân nhân người quá cố không được lãnh xác về, để người
làm công tác pháp y xác định rõ người chết đã thực sự chết chưa, tránh
tình trạng đáng tiếc xảy ra. Về sau, nhà khoa học Nga tên là Khabasniki
đã nghiên cứu, chế tạo thành công chiếc quan tài có tính an toàn hơn. Nó
được thiết kế có hệ thống báo động và thông gió, để khi người chết bị
chôn dưới lòng đất vẫn đảm bảo được sự sống. Ngoài ra, chiếc quan tài
thông minh này còn có khả năng báo động khi người nằm trong đó phát hiện
ra mình vẫn còn sống. Họ có thể động vào bất cứ vị trí nào của nắp hòm,
khi ấy một tiếng chuông sẽ vang lên truyền đến nhà thân bằng quyến
thuộc của mình. Lúc đó, thân nhân sẽ chạy ra đào mộ huyệt lên, tránh
tình trạng để quá lâu có thể gây chết ngạt. Chi phí chế tạo loại quan
tài này rất cao, chỉ có những thành phần giàu có trong xã hội mới có khả
năng mua. Rất tiếc truyền thống sử dụng loại quan tài này không còn
được lưu truyền cho đến ngày nay, ngay cả ở nước Nga.
Kinh điển đạo Phật xác quyết rõ cái chết lâm sàng chưa phải là cái
chết thực sự, đó chỉ là dấu hiệu ngưng hoạt động của tim, hô hấp, trong
khi não vẫn còn hoạt động dù rất mờ nhạt không đáng kể. Khi ấy, chỉ cần
sự hỗ trợ và phục hồi hô hấp để tạo tiến trình tuần hoàn trong cơ thể
thì người đó có thể sống lại, dĩ nhiên sự sống trong trường hợp này chỉ
có thể là 1/100 hoặc
1/200 mà thôi.
Tháng 9-2006, các nhà xã hội học Việt Nam đã thống kê chỉ có hai hiện
tượng chết sống lại, do vì nhận định sai lầm giữa cái chết lâm sàng
thành cái chết thực sự. Vì vậy, đừng nên quan niệm đó là một hiện tượng
thần bí do cầu nguyện, hoặc phước lực của người còn sống mong mỏi người
chết sống lại. Chẳng qua do phước lực của người chết, năng lực níu kéo
sự sống và cái chết khiến họ có khả năng đặc biệt chống chọi lại với
hoàn cảnh phải chết. Thông thường, chỉ cần 30 giây là một người bình
thường có thể qua đời, nhưng người chết lâm sàng có khả năng chịu đựng,
vượt trội hơn mà cái chết vẫn không thể thiết lập.
Nhân quả liên hệ đến một số nghiệp, chẳng hạn như việc lấp hang
chuột, hang dế, hang kiến làm cho những con vật này bị chết ngộp. Tất cả
những hành động này tưởng chừng không có hệ quả xấu trong tương lai,
nhưng theo luân hồi nghiệp báo trong đạo Phật con người vẫn phải gánh
chịu. Để tránh nghiệp chết lâm sàng được đồng hóa là chết thực sự, người
Phật tử cần gieo trồng hạt giống bảo hộ mạng sống. Việc bảo hộ mạng
sống được thể hiện ở tấm lòng và những hành động nho nhỏ nếu chịu khó để
ý, có thể tạo phước lực rất nhiều cho bản thân. Khi nhìn thấy một đám
tang, quý vị nên cầu cho người quá cố được siêu sinh thoát hóa bằng cách
tụng một câu thần chú vãng sanh hay danh hiệu của đức Phật A-di-đà,
hoặc người hành giới Bồ-tát có thể hồi hướng công đức cho họ để cảnh đời
bất hạnh được kết thúc tại đây và tiến trình tái sinh được diễn ra an
lành. Chỉ cần ta thực sự có tấm lòng thì chẳng tốn kém tiền bạc gì.
Không nên tin theo các quan niệm mê tín sai lầm mà có thái độ kỳ thị
hoặc sợ hãi đối với người chết. Vì như thế làm thương tổn đến lòng từ
bi, kiến thức về nhân quả trong đời sống bị mất phương hướng, con người
luôn sống trong lo âu, sợ hãi và cuối cùng dẫn đến mất cơ hội để thành
công.
1. Lễ cầu siêu với thông điệp buông xả
Khi phát hiện có hiện tượng ma quỷ trong ngôi nhà hoặc bất cứ nơi
đâu, hãy giúp hương linh bằng khóa lễ cầu siêu, nếu thỉnh mời được những
vị xuất gia đến làm lễ càng tốt; bằng không quý vị tự thực hiện. Trong
lúc làm lễ, cần truyền thông điệp rằng:
“Bản chất của sự sống và cái chết được qui luật nhân quả trong tự
thân mỗi người định đoạt. Quý vị hãy hoan hỷ chấp nhận cái chết diễn ra
như một sự thật. Đừng bám víu vào thân thể vật lý này; đừng bám víu,
tiếc nuối vào dòng cảm xúc này; đừng bám víu vào những kỷ niệm đẹp và
xấu, hạnh phúc và khổ đau hay bất cứ điều gì thì quý vị mới có thể ra
đi. Chỉ có Phật, Pháp và Tăng mới có khả năng cứu giúp quý vị. Quý vị
hãy nương vào thần lực của các Ngài để tình trạng khổ đau của kiếp
ngạ quỷ sớm được kết thúc.”
Nhìn chung, hương linh qua đời chỗ nào thường có khuynh hướng bám víu
chỗ đó, chính nỗi đau uất hận sẽ làm cho hương linh giữ mình lại nơi
đó. Ví dụ nơi có tai nạn giao thông, có người tự tử thì những nơi đó
thường xảy ra cái “huông”, khiến những người có ý muốn tự tử tự dẫn dắt
đến chỗ đó rồi lao xuống mà chết. Dĩ nhiên, đừng nên lý giải đó là hiện
tượng bắt hồn mà thực tế chỗ nào có quan tài, mồ mả đều là
nơi hương
linh thường bám víu, chấp mắc. Chẳng hạn kỷ niệm đẹp trong
một ngôi nhà, nơi nào tạo hạnh phúc lớn nhất thì nơi đó vẫn như
một sợi dây xích trói buộc hương linh trong tiến trình tái sinh.
Mỗi khi có dịp đến nghĩa trang hay ngôi chùa nào có thờ các tro cốt,
quý vị nhớ đừng nên cầu nguyện riêng cho người thân của mình, mà hãy mở
rộng lòng từ bi cầu nguyện cho tất cả hương linh có mặt tại nghĩa trang
hay những nơi khác hãy nương vào thần lực của Tam Bảo để siêu sinh thoát
hóa. Đừng
nên cầu nguyện, van vái: “Mẹ ơi, hãy về phù hộ cho con trúng số đề đi, con mắc nợ nhiều quá.”
Điều này sẽ tạo lòng tham ở người quá cố, bởi vì bản chất của tình
thương là lòng tham, tình thương con cái, vợ chồng đều mang yếu tố của
lòng vị kỷ. Cũng đừng nên cãi vã với nhau việc chia gia tài khi cha mẹ
mới vừa nằm xuống chưa kịp chôn, bởi như thế sẽ tạo ra lòng sân ở người
ra đi.
2. Gieo trồng công đức, phước báu
Cần thực hiện nghi thức đúng theo lời Phật dạy, đơn giản nhưng có giá
trị đạo đức và tâm linh hỗ trợ cho tiến trình tái sinh. Nên gieo trồng
phước báu, cúng dường thế nào để chia một phần tài sản cho người quá cố,
giúp họ có thêm sự hiểu biết và hành trang công đức. Nếu người quá cố
không biết người thân của mình làm việc này thì họ chỉ hưởng được 1/7
công đức nói theo kinh Địa Tạng. Do đó, để hương linh có phước
báu lớn, trước khi họ qua đời, người thân nên giải thích cho họ hiểu sẽ
dùng 1/4 tài sản có được để làm công tác từ thiện, cúng dường hay đóng
góp cho một ngôi chùa. Thuyết phục họ hoan hỷ đồng nghĩa với việc họ
được hưởng trọn phần công đức và phước báu, bên cạnh đó, người khuyến
tấn và thuyết phục cũng được hưởng một phần công đức tương tự. Ngược
lại, chờ đến khi người quá cố qua đời ta mới thực hiện việc này, họ sẽ
không biết. Do vậy, họ chỉ hưởng được một phần, còn người làm hưởng được
sáu phần.
Trên thực tế, ai cũng muốn người quá cố của mình có nhiều công đức để
có thể tái sinh vào một cảnh giới an lành. Ta cần lưu ý nói thật khéo,
bởi vì đứng trước cái chết, nỗi sợ hãi sẽ có mặt, và càng cố tình phủ
định nhiều chừng nào thì nỗi sân hận lại diễn ra nhiều chừng đó. Tình
yêu, mồ mả, uất hận, tai nạn, tình cảm, kế hoạch chưa hoàn tất, sự bực
bội, tức tối trước lúc chết tất cả đều trở thành ách nạn cho tiến trình
tái sinh.
Hằng ngày, hằng giờ, mỗi hành giả cần thực tập phương pháp buông xả,
xem nhẹ mọi thứ trên cuộc đời. Nỗ lực làm hết mình bằng phương pháp
luận, sự tinh tấn, thông minh, trách nhiệm, lương tâm và đạo đức. Kết
quả ra sao không cần bận tâm đến. Thất bại lần này, ta nỗ lực lại lần
khác bằng sự kiên nhẫn và tinh tấn, làm hoài làm mãi, không cho phép
mình dừng nghỉ. Đừng buồn với những thất bại trong quá khứ, bởi vì quá
khứ đã qua rồi và tương lai thì chưa đến. Đừng mơ ước nhiều mà hãy nỗ
lực làm hết mình trong hiện tại, khi ấy tương lai chắc chắn sẽ có. Ai
sống được như thế thì sẽ rất thản nhiên và không có bất kỳ nỗi sợ hãi
nào khống chế mình, nhờ đó mà đời sống trở nên có ý nghĩa.
Mong rằng quý vị mỗi khi có dịp đến chùa cầu nguyện cho hương linh
được siêu sinh thoát hóa hoặc đứng trước di ảnh, bàn thờ người thân của
mình đừng bao giờ mong họ trở về nhà; cũng đừng thương ông bà tổ tiên,
cha mẹ, người thương của mình bằng cách lúc còn sống thèm cái gì thì khi
mất cúng cái đó, càng thương tưởng theo tình huống trên thì khổ đau
càng có mặt. Điều cần thiết ở đây là cúng một thời kinh về nguyên lý vô
thường, vô ngã, về qui luật sanh tử không ai có thể tránh khỏi, cúng
bằng công đức phước báu mình có thể làm, cúng bằng đời sống đạo đức để
cho người ra đi được an tâm, cúng bằng sự thành công, nỗ lực của chúng
ta để lời di chúc đó được thực hiện. Có như thế, người ra đi mới thực sự
được lợi lạc. Trái lại, còn bất kỳ nỗi niềm nào chưa được an tâm sẽ làm
cho người quá cố chết không nhắm mắt. Đây là phản ứng cơ học vật lý tự
nhiên của cơ thể, ai suy nghĩ nhiều sẽ làm cho mắt hoạt động, càng hoạt
động nhiều chừng nào thì ức chế tâm lý trên não trạng gây mất ngủ nhiều
chừng đó. Đối với cái chết cũng tương tự như vậy, tức tối, khó chịu sẽ
làm cho mắt không nhắm lại.
3. Phóng thích gút mắc
Ai là đối tượng dẫn đến cái chết, làm cho người quá cố chết
không nhắm mắt, hoặc lúc còn sống người quá cố đã từng thề độc ví dụ như: “ Lúc tao chết, mày đừng bao giờ tới nhìn mặt tao…” trong tình huống này, hãy thực hiện đúng như lời thề, đừng nên tới nhìn mặt. Hãy đứng ở một nơi nào và nguyện cầu: “Ba
ơi, mẹ ơi, hãy tha thứ cho con! Con biết rằng đó là một điều sai. Con
nguyện hứa từ đây về sau sẽ không làm điều đó nữa. Ba mẹ hãy buông xả
niềm uất hận này để tiến trình tái sanh được tốt, để cái gút của khổ đau
được kết thúc tại đây…”
Phải nguyện bằng lòng chí thành và lặp lại nhiều lần giúp cho người
quá cố phóng thích được cái gút của chấp mắc. Chính vì lẽ đó, di chúc
của người quá cố lúc cuối đời cần phải được tôn trọng. Bằng không, hương
linh chưa siêu sinh bị ức chế tâm lý, có thể tạo trở ngại về sau.
Hy vọng rằng mỗi chúng ta ý thức nhiều hơn về sự sống và cái chết như
là một qui luật, có thể giúp cho mình và người thân vượt qua được thách
đố lớn nhất trong cuộc đời, mà vốn chỉ là một điểm chấm trên tiến trình
sinh tử không bờ bến.