Đa số con người đều rơi vào hai loại chấp:
1) chấp thường: tin rằng sau khi chết thì linh hồn còn hoài, hoặc
xuống địa ngục bị trừng phạt đời đời, hoặc lên thiên đàng hưởng phước
đời đời. Trong trường hợp này họ vô tình chấp nhận là có kiếp sau.
2) chấp đoạn: tin rằng sau khi chết là hết, không còn gì hết.
Đối với hai hạng người chấp như trên thì rất khó nói cho họ hiểu, bởi
vì trong tâm của họ đã đóng khung và tin chắc như vậy rồi, giống như
một cái ly úp ngược thì dù cố gắng đổ bao nhiêu nước cũng không vào
được.
Vì không có thiên nhãn hay thần nhãn nên chúng ta có thể
tạm dùng lý trí mà suy luận ra. Hãy lấy thí dụ, làm sao biết được có vi
trùng, vi khuẩn? Mắt thường làm sao thấy được? Nếu mắt không thấy thì
làm sao lại tin là có? Đa số đều tin có vi trùng, kể cả những trẻ nhỏ
mới biết đọc biết viết. Người thường như chúng ta không trông thấy vi
trùng nhưng các bác sĩ, bác học với kính hiển vi họ thấy vi trùng một
cách rõ ràng và đối với họ, có vi trùng là một sự thật hiển nhiên chứ
không còn là một niềm tin nữa. Khi chúng ta bị bệnh đi nhà thương nghe
bác sĩ nói ta bị nhiễm vi trùng này,vi trùng kia là chúng ta tin liền.
Tại sao không thấy mà tin? Bởi vì do suy luận hợp lý mà tin. Ta tin bác
sĩ là người có học thức đàng hoàng, khổ nhọc nghiên cứu học hỏi trên
dưới 10 năm mới ra trường. Hơn nữa ông ta hơi đâu mà đi lừa ta làm gì?
Ông ta nói vi trùng nào cũng được, miễn sao cho ta thuốc uống hết bệnh
là được rồi.
Tại sao mắt ta không thấy vi trùng mà vẫn tin? Tại
sao ta không biết trong thuốc có những hóa chất gì mà lại tin là uống
vào sẽ hết bệnh? Nếu ta muốn thấy tận mắt vi trùng thì phải vào các
phòng thí nghiệm dí mắt vào ống kính hiển vi. Nếu ta muốn biết những
hóa chất của thuốc tây thì phải chịu khó vào đại học vài năm để học y
khoa hay dược khoa thì mới biết được những hoá chất hay dược liệu đó là
gì, có công năng gì, do những phản ứng hóa học nào tạo ra, v.v...
Cũng vậy, nếu muốn thấy được kiếp trước hay kiếp sau thì ta cũng phải
chịu khó tu tập thiền định để chứng được thiên nhãn thông hoặc túc mạng
thông. Đức Phật nhờ tu hành đắc đạo nên có thiên nhãn thông, túc mạng
thông thấy được vô số kiếp quá khứ của mình và của người khác giống như
người có máy video thâu được hình ảnh của mình và người. Điều cần nhấn
mạnh là những đệ tử của ngài cũng chứng được và thấy được kiếp trước
của mình. Đức Phật là bậc giác ngộ, đệ tử của ngài là những bậc thánh
tăng A la Hán, không còn phiền não ô nhiểm, đều chứng được thiên nhãn
thông và túc mạng thông. Là Phật tử, tuy nhục nhãn còn bị che lấp bởi
vô minh phiền não nhưng chúng ta vẫn có thể tin lời các ngài là có kiếp
trước kiếp sau, giống như chúng ta đang tin bác sĩ nói có vi trùng vậy.
Tại sao chúng ta không thấy được ngày hôm qua mà lại tin là có ngày hôm
qua? Ta biết được có ngày hôm qua là nhờ ký ức. Qua một đêm ngủ thời
gian không đủ dài để xóa mờ trí nhớ nên ta mới nhớ lại được. Nhưng làm
sao ta nhớ lại được chính xác ta đã làm gì, nói gì, đi đâu với ai, chỗ
nào 10, 20 năm về trước? Nếu không nhớ nổi việc cũ ngay trong kiếp này
thì qua một lần chết và tái sinh, trải qua một thân ngũ uẩn khác (ví
như một màn sương mù dày đặc) làm sao ta có thể nhớ lại được kiếp
trước? Một người bị mổ tim hay mổ óc, bị chích thuốc mê, sau khi tỉnh
dậy nhiều khi phải mất vài ngày mới hoàn hồn nhớ lại được mình là ai,
đang ở đâu. Chưa kể những người bị bệnh Alzheimer hoàn toàn mất hết trí
nhớ, đối với những người này thì ngày hôm qua còn không có huống chi
năm trước hay kiếp trước.
Với kỹ thuật văn minh hiện đại,
chúng ta có thể chụp hình với máy ảnh hoặc thu hình với máy video.
Những gì chúng ta đã chụp hoặc thu hình từ mười năm trước, hôm nay tuy
không thấy, không nhớ, nhưng nếu cần thì chúng ta vẫn có thể lấy ra xem
lại được vì tất cả hình ảnh đã được thâu vào băng video. Cũng vậy tất
cả những gì chúng ta đã làm, đã sống đều được thu vào tâm thức. Tâm
thức là một kho tàng chứa tất cả những kiếp sống của ta, trong Duy thức
Học gọi là Tàng thức hay A lại Da (Alaya) thức. Người nào có khả năng
đi vào vùng sâu thẳm của tâm (tức Tàng thức) thì có thể thấy lại hết
những kiếp sống quá khứ của mình. Muốn đạt được khả năng này thì phải
tu tập thiền định, hoặc ngày nay với phương pháp thôi miên (hypnotisme)
người ta có thể trở lui về quá khứ hoặc kiếp này, hoặc nhiều lắm là
một vài kiếp trước như trường hợp của ông Edgar Cayce. Chuyện tin có
kiếp trước là một chuyện hiển nhiên đối với dân Tây Tạng, bởi vì các
Lạt ma cao cấp, sau khi chết và tái sinh các ngài đều nhớ được kiếp
trước của mình, đã từng là ai, ở đâu, sống trong tu viện nào, và nhận
diện ra các đệ tử cũ của mình.
Chúng ta không thấy và không
biết được có kiếp trước chỉ vì tâm thức của chúng ta chưa được học hỏi,
tu tập và phát triển. Khoa học ngày nay cho biết là con người mới chỉ
sử dụng được 10% bộ óc của mình mà thôi, còn lại 90% kia chưa được khai
thác và biết đến. Vì vậy một người thông minh nên có tinh thần cởi mở
để học hỏi và khám phá ra những điều mới lạ, thay vì cố chấp khép tâm
lại, chỉ tin những gì mắt thấy tai, nghe, tay sờ mó được.
Thích Trí Siêu